Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

bước đầu tìm hiểu về chủ nghĩa tư bản hiên đại và học thuyết về chủ nghĩa đế quốc của lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.7 KB, 85 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

MỤC LỤC
* * * *

‫ﭭﭭﭭ‬

* * * * 
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ...................................................................................1
2. Lý do chọn đề tài: .................................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:..............................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu:......................................................................................2
5. Bố cục của đề tài:..................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG ..........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.....................................................................5
1. Điểm lại lịch sử:....................................................................................................5
2. Hai quan điểm khác nhau về sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại. ...................8
3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại..........................................9
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM KHỦNG HOẢNG CHU KÌ VÀ SỰ TỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI...................................................................14
1. Đặc điểm khủng hoảng chu kì của chủ nghiã tư bản hiện đại...............................14
1.1 Khái lược về các cuộc khủng hoảng chu kì của chủ nghĩa tư bản. ..................14
1.2. Những yếu tố tác động đến khủng hoảng chu kì của chủ nghĩa tư bản hiện
đại. ......................................................................................................................15
1.2.1. Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học - công nghệ. .................16


1.2.2. Khu vực hóa, toàn cầu hóa và đa cực hóa. ..............................................17
1.3. Những đặc trưng mới của khủng hoảng chu kì tư bản chủ nghĩa, đặc biệt ở
những năm cuối thế kỉ XX...................................................................................19
2. Sự tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại....................................................24
2.1 Mâu thuẫn nội tại và những nhân tố quy định sự tự điều chỉnh và thích ứng
của chủ nghĩa tư bản hiện đại. .............................................................................24
2.2 Điều chỉnh mô hình phát triển sản xuất xã hội. ..............................................27
2.3 Điều chỉnh các quan hệ kinh tế. .....................................................................30


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

2.4 Hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. ..............................................................34
2.5 Cơ chế vận hành của chủ nghĩa tư bản. ..........................................................41
3. Các công ty xuyên quốc gia: nguồn gốc, bản chất và vai trò................................45
4. Tiềm năng và giới hạn của chủ nghĩa tư bản hiện đại. .........................................51
4.1 Những tiềm năng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. ................................51
4.2 Giới hạn chủ yếu của chủ nghĩa tư bản hiện đại. ............................................54
5. Nhận thức và đối xử như thế nào đối với chủ nghĩa tư bản. .................................59
CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI VÀ “HỌC THUYẾT VỀ CHỦ
NGHĨA ĐẾ QUỐC” CỦA LÊ NIN. ...........................................................................62
1. “ Học thuyết về chủ nghĩa đế quốc” chưa lỗi thời mà phải được làm phong phú
và phát triển. ...........................................................................................................62
2. “Tính thối nát” của chủ nghĩa đế quốc và sự phát triển mới của chủ nghiã tư
bản hiên đại.............................................................................................................63
3. Phải phân tích cụ thể “tính ăn bám” của chủ nghĩa đế quốc.................................66
4. Xem xét luận điểm về “tính giãy chết” và “đêm trước cách mạng” bằng quan
điểm phát triển. .......................................................................................................68

5. Những vấn đề có ý nghiã đối với Việt Nam.........................................................71
5.1. Tác động và bài học cảnh báo. ......................................................................71
5.2. Những bài học có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế thị trường mở ở Việt
Nam. ...................................................................................................................73
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................82


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Các vấn đề của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đặc biệt là khủng hoảng và điều chỉnh
không phải là đề tài mới mẻ mà đã được nghiên cứu nhiều trong các tác phẩm, các
tài liệu về Chủ nghĩa tư bản hiện đại ở cả phương Đông và phương Tây. Vấn đề
này từng là trung tâm của các nghiên cứu về các hình thái kinh tế xã hội và sự
chuyển đổi của chúng trong điều kiện hiện đại, đặc biệt ở thời kì thế giới tồn tại hai
hệ thống xã hội đối lập.
Có rất nhiều tác phẩm đã viết rất thành công về đề tài này, trong đó nổi bật là
cuốn “Chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XXI” của NXB KHXH do PGS.TS. Đỗ Lộc
Diệp, TS. Đào Duy Quát – PGS.TS. Lê Văn Sang đồng chủ biên. Nói như thế, bởi
vì tôi nhận thấy tác phẩm đó đã có sự phân tích bám sát nhất với thời gian phân
chia chủ nghĩa tư bản hiện đại. Vì thế nó sẽ là tài liệu tham khảo tốt giúp tôi trong
quá trình nghiên cứu về đề tài này.
2. Lý do chọn đề tài:
Thế giới có nhiều thay đổi, đặc biệt khi Chiến tranh lạnh kết thúc với nhiều
hàm ý về sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội và sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản,
những vấn đề về khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản không còn được bàn luận

nhiều nữa. Song, từ những năm 70 đến những năm 90, đặc biệt là khi cuộc khủng
tài chính - tiền tệ xảy ra ở Châu Á, chủ đề về khủng hoảng lại chiếm một vị trí nổi
bật trong các nghiên cứu kinh tế xã hội. Đặc biệt trong những thời điểm chuyển
giao giữa hai thiên kỉ, chúng ta lại đang chứng kiến một loạt sự kiện gây chấn động
toàn thế giới: Trong lúc nền kinh tế Mỹ suy giảm tốc độ tăng trưởng và kinh tế
Nhật Bản dần dần hồi phục và đang trên đà phát triển. Tuy nhiên chủ nghĩa khủng
bố và chiến tranh lại có nguy cơ làm sâu sắc hơn những vấn đề kinh tế và chính trị
của thời đại.
Vấn đề đặt ra là, phải chăng chủ nghĩa tư bản lại lâm vào một thời kì khủng
hoảng lớn, làm bộc lộ những giới hạn lịch sử trong quá trình phát triển của nó. Liệu
chủ nghĩa tư bản có khả năng tiếp tục điều chỉnh để thích ứng với những biến đổi
mới hay không, từ đó chúng ta rút ra được những bài học gì và phải có cách nhìn
nhận như thế nào về “học thuyết chủ nghĩa đế quốc” của Lê Nin.
1


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Đây quả là những vấn đề rất lớn cả về lí luận lẫn thực tiễn. Chúng ta không
chỉ dựa vào lịch sử để lý giải hiện tại và phỏng đoán tương lai, mặc dù điều đó là
hết sức cần thiết và hữu ích. Khủng hoảng là một thời điểm quan trọng trong tiến
trình phát triển, là điểm nút bộc lộ những mâu thuẫn hoặc mất cân đối của một hệ
thống nhất định do sự tác động, sự phát triển của hệ thống đó. Còn điều chỉnh là
một việc làm nhằm để cứu vãn tình thế, giúp cho chủ nghĩa tư bản vượt qua các
giai đoạn khủng hoảng để tiếp tục tồn tại và phát triển. Vì thế những mức độ và
hình thái biểu hiện của khủng hoảng và điều chỉnh là hết sức khác nhau, mọi sự
khái quát đều có thể làm lu mờ đi những sự thật được che dấu sau các hiện tượng
hoặc không thấy được con đường tiến triển tiếp theo của các sự vật với tất cả các

mâu thuẫn vốn có của nó. Chính vì những vấn đề quan trọng trên cũng như sự hấp
dẫn của nó, nên tôi đã quyết định chọn vấn đề “Bước đầu tìm hiểu về chủ nghĩa tư
bản hiên đại và học thuyết về chủ nghĩa đế quốc của Lê Nin” làm đề tài nghiên cứu
cho mình. Tuy nhiên, do hạn chế về hiểu biết nên những khía cạnh được tìm hiểu
còn chưa được sâu sát lắm, nhưng tôi mong rằng kết quả nghiên cứu của tôi sẽ có
những đóng góp mặc dù nhỏ bé vào tủ sách nói về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Với một đối tượng nghiên cứu phức tạp và đa dạng có liên quan đến toàn bộ
sự tiến triển của chủ nghĩa tư bản như vậy thì phạm vi nghiên cứu rất rộng và từ
một khía cạnh nhỏ của vấn đề chúng ta cũng có thể phát triển thành một đề tài
nghiên cứu lớn, tuy nhiên như đã nói, do hiểu biết có hạn nên tôi buộc phải hạn chế
phạm vi nghiên cứu và nhằm vào các mục tiêu cụ thể là:
-

Khái quát sự ra đời và những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện
đại, xem xét đặc điểm khủng hoảng chu kì của nó.

-

Đi vào tìm hiểu vòng điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và rút ra
một số vấn đề có ý nghĩa.

-

Nhìn nhận lại “học thuyết về chủ nghĩa đế quốc” của Lê Nin theo quan
điểm mới.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu là cực kì quan trọng, nhất là đối với
một đối tượng nghiên cứu phức tạp như khủng hoảng và điều chỉnh của chủ nghĩa

2


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

tư bản hiện đại. Vì thế tôi dựa trên phương pháp luận mácxit và phương pháp lịch
sử để nghiên cứu, xem xét sự phát triển của chủ nghĩa tư bản như một quá trình lịch
sử tự nhiên với vô vàn các biến cố trong quá trình phát triển và mỗi một lần như
vậy thì chủ nghĩa tư bản buộc phải thay đổi để thích ứng với những điều kiện mới.
Đồng thời, tôi cũng xem xét chủ nghĩa tư bản trong tính hệ thống của nó, một hệ
thống đã phát triển trên quy mô toàn cầu, và do đó không thể xem xét khủng hoảng
của chủ nghĩa tư bản trong một nước cụ thể, trên một lĩnh vực cụ thể.
5. Bố cục của đề tài:
Bố cục của bài nghiên cứu chia làm ba chương:
Ø Chương một: điểm lại lịch sử sơ lược các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản; nêu lên hai quan điểm khác nhau về thời gian đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản hiện đại đồng thời nêu lên một số đặc trưng riêng của nó.
Ø Chương hai: Trọng tâm của chương là, thứ nhất, làm nổi bật những đặc điểm
mới của khủng hoảng chu kì chủ nghĩa tư bản hiện đại và những nhân tố tác
động đến nó; thứ hai là nêu ra được những nhân tố tác động qui định đến sự tự
điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và tiến hành phân tích khái lược vòng
điều chỉnh đó trên một số khía cạnh quan trọng. Từ đó có cách nhìn nhận và đối
xử đúng đắn hơn về chủ nghĩa tư bản.
Ø Chương ba: phân tích, xem xét học thuyết về chủ nghĩa đế quốc của Lê Nin
theo quan điểm mới trong điều kiện lịch sử mới. Đồng thời nêu ra được những
vấn đề có ý nghĩa đối với Việt Nam trong thời đại kinh tế thị trường, toàn cầu
hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.
Và từ những phân tích và gợi mở trong bài nghiên cứu của tôi, hướng phát

triển tiếp theo của đề tài là chúng ta có thể theo dõi khủng hoảng trên hai phương
diện:
Một là, cần có sự nghiên cứu cơ bản và toàn diện hơn về cơ chế phát sinh và
các biện pháp ngăn ngừa phòng chống khủng hoảng khi chuyển sang kinh tế thị
trường mở cửa. Đặc biệt là tiến trình tự do hóa thị trường tài chính và cơ chế kiểm
soát dòng vốn.
Hai là, cần có những nghiên cứu dự báo về các cuộc khủng hoảng kinh tế trên
thế giới, sự tác động của chúng đối với thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói
3


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

riêng. Và quan trọng hơn là từ việc nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản hiện đại và các
cuộc khủng hoảng cũng như khả năng thích ứng của nó ta có thể học được gì và
chúng ta sẽ thích ứng như thế nào trong một thế giới nhiều biến đổi như hiện nay.
Nội dung xuyên suốt của bài nghiên cứu là khái quát được các giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản và đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Làm rõ được
khủng hoảng chu kì, đặc điểm của nó và khả năng điều chỉnh thích ứng trước
những mâu thuẫn cơ bản nội tại, cũng như những tiềm năng và giới hạn của chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Xem xét lại được những vấn đề tiên quyết trong học thuyết
về chủ nghĩa đế quốc của Lê Nin trong thời đại hiện nay dựa trên quan điểm phát
triển.Và, đây chưa phải là điều cuối cùng, khi đi xem xét và phân tích khủng
hoảng, điều chỉnh hay là những vấn đề nói chung, không chỉ như những cách gắn
với chủ nghĩa tư bản như một sự đối lập với các hình thái xã hội khác, mà còn nhìn
nhận từ những vấn đề chung của thế giới, những vấn đề mà bất cứ nước nào cũng
phải đối mặt. Chính điều này sẽ làm cho việc nghiên cứu những vấn đề về chủ
nghĩa tư bản hiện đại có một ý nghĩa thực tiễn hơn, nghĩa là liệu chúng ta có thể

học được những gì từ những kinh nghiệm vượt qua và ngăn ngừa khủng hoảng của
chủ nghĩa tư bản, đặc biệt đối với các cuộc khủng hoảng gắn liền với kinh tế thị
trường và những vấn đề chung mang tính toàn cầu.
Do giới hạn nhiệm vụ đặt ra, bài nghiên cứu này không có điều kiện xem xét
và trình bày hết tất cả những vấn đề quan trọng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Mặt
khác, do sự hạn chế về chủ quan và khách quan nên trong quá trình nghiên cứu còn
nhiều sai sót, vì thế chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Mong quí
thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến để việc nghiên cứu lần sau của tôi đạt được
hiệu quả cao hơn.
Sau cùng tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Thành đã tận tình
hướng dẫn để giúp tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Cần Thơ, ngày 7 tháng 5 năm 2008.

4


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG
CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.
1. Điểm lại lịch sử:
Như Mác đã nói, kết cấu kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời từ trong
kết cấu kinh tế của xã hội phong kiến. Sự giải thể của xã hội phong kiến làm cho
những yếu tố của xã hội tư bản được giải phóng. Xét lịch sử thế giới, quá trình này
diễn ra sớm nhất ở Tây Âu. Tuy quan hệ tư bản chủ nghĩa đã sớm manh nha ở một
số thành thị Tây Âu vào thế kỉ XIV – XV, nhưng đúng như Mác nói, thời đại tư
bản chủ nghĩa mới bắt đầu từ thế kỉ XVI. Từ đó đến nay, gần 500 năm lịch sử phát

sinh và phát triển của chủ nghĩa tư bản, theo giới học thuật tương đối nhất trí ý kiến
là có thể chia làm các giai đoạn dưới đây:
Giai đoạn thứ nhất là, giai đoạn chủ nghĩa tư bản thai nghén, sinh nở trong
lòng xã hội phong kiến và cuối cùng thay thế xã hội phong kiến từ thế kỉ XVI (tức
từ cuộc cách mạng tư sản Hà Lan) đến thế kỉ XVIII. Đây là khoảng thời gian quan
trọng. Bởi vì, nó là thời gian mà chế độ phong kiến tan rã, là thời kì tích lũy tư bản
ban đầu và công trường thủ công tư bản phát triển mạnh, cũng là thời kì quá độ từ
chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản. Phát kiến lớn về địa lý từ thế kỉ XV đến
thế kỉ XVI là một yếu tố quan trọng thúc đẩy bước quá độ này. Năm 1492,
Colombo phát hiện ra Châu Mĩ, năm 1522, đoàn tàu của Magellan hoàn thành cuộc
hành trình trên biển vòng quanh trái đất. Mác và Ăngghen đã viết: việc tìm ra Châu
Mĩ và con đường biển vòng Châu Phi đã đem lại một địa bàn hoạt động mới cho
giai cấp tư sản vừa mới ra đời. Những thị trường Đông Ấn và Trung Quốc, việc
thực dân hóa Châu Mĩ, việc buôn bán với thuộc địa, việc tăng thêm nhiều tư liệu
trao đổi và nói chung tăng thêm nhiều hàng hóa, đã đem lại cho thương nghiệp, cho
ngành hàng hải, cho công nghiệp, một sự phát đạt chưa từng có, và do đấy đã đem
lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến
đang tan rã1.

1

Tiêu Phong, Hai chủ nghĩa một trăm năm, NXB Chính trị Qốc Gia, HN-2004.

5


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa


Giai đoạn thứ hai là, giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, thời gian
khoảng 120 năm, tức là bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp giữa thế kỉ XVIII
đến khi quá độ lên giai đoạn tư bản chủ nghĩa độc quyền cuối thế kỉ XIX. Giai
đoạn này là thời kì xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa, nó được đánh dấu chủ yếu
bằng mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra ở nước Anh những năm 60 của
thế kỉ XVIII. Theo đà phát triển của tư bản và tiến bộ vượt bậc của nền sản xuất đại
cơ khí do cuộc cách mạng công nghiệp mang lại, quan hệ tư bản chủ nghĩa phát
triển nhanh chóng trên phạm vi thế giới. Cùng với việc nổ ra và hoàn thành cuộc
cách mạng tư sản ở các nước trên lục địa Châu Âu, giai cấp tư sản dựa vào sức
mạnh của chính quyền, cuối cùng đã chiến thắng thế lực phong kiến, xác lập sự
thống trị của mình. Đến những thập kỉ cuối của thế kỉ XIX, ở các nước tư bản lại
nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp lần hai, đánh dấu bằng điện khí hóa. Sau đó
kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện “thời đại hoàng kim” thứ nhất. Các nước tư bản
chủ nghĩa chủ yếu bắt đầu chuyển sang một giai đọan mới – giai đoạn chủ nghĩa tư
bản độc quyền, tức quá độ của giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Giai đoạn thứ ba là, giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thời gian khoảng
44 năm, tức là thời kì chuyển giao thế kỉ XIX sang thế kỉ XX (tức từ năm 1870 đến
năm 1914). Dưới sự thúc đẩy của cách mạng công nghiệp lần hai cuối thế kỉ XIX,
sự phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa được xã hội hóa thêm một
bước, qui mô xí nghiệp công nghiệp hiện đại và làn sóng thôn tính xí nghiệp trên
phạm vi rộng, đã hình thành nhiều tổ chức độc quyền kiểu tờ-rớt. Các tổ chức độc
quyền giành giật thị trường dẫn đến sâu xé các thuộc địa. Xuất khẩu tư bản, đặc
biệt là xuất khẩu tư bản sang các nước thuộc địa bắt đầu có ý nghĩa quan trọng.
Đặc trưng chủ yếu nhất của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn này là “độc quyền”, tư
bản công nghiệp và tư bản ngân hàng hòa làm một, đã hình thành giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền có năm đặc trưng lớn cơ bản mà Lê Nin đã trình bày, cũng
tức là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Ở giai đoạn này đã xảy ra hai cuộc chiến tranh
thế giới và cách mạng Tháng Mười Nga. Lê Nin cho rằng đó là giai đoạn chủ nghĩa
tư bản thối nát, giãy chết, là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, là đêm trước
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản.


6


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Giai đoạn thứ tư là, giai đoạn mới với đặc trưng cơ bản là độc quyền nhà
nước xuất hiện sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn này
đã từ “độc quyền bình thường” phát triển lên “độc quyền nhà nước”, tức là giai
đoạn mới của tư bản độc quyền và chính quyền nhà nước kết hợp với nhau. Ở giai
đoạn này, chế độ chính trị, kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản không thay đổi, bản
chất đế quốc của nó không thay đổi, vẫn thuộc về phạm trù lớn tư bản chủ nghĩa,
nhưng cơ chế vận hành và cơ chế quản lý cụ thể của nó bước đầu có những thay
đổi lớn, từ đó cho thấy có nhiều đặc điểm khác so với thời kì “độc quyền bình
thường” ở giai đoạn trước.
Giai đoạn thứ năm là, giai đoạn ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại từ sau
khủng hoảng năng lượng năm 1973 đến nay. Tuy nhiên, việc lấy mốc thời gian này
để đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn chưa có sự thống nhất.
Phần 2 tôi sẽ trình bày sơ lược hai quan điểm cơ bản nhất còn đang trên bàn tranh
cải về thời gian cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Như vậy, toàn bộ lịch sử của chủ nghĩa tư bản là một bộ sử vận động xã hội
như làn sóng nhấp nhô đan xen phức tạp, lúc thăng lúc trầm khó đón bắt được. Chủ
nghĩa tư bản đã sáng tạo ra văn minh xã hội tiến bộ mà loài người trước đó không
thể sánh nổi, đồng thời cũng gây ra tai họa chiến tranh và hành vi dã man xâm lược
nô dịch các nước và dân tộc nhỏ yếu bằng bạo lực hiếm thấy trong lịch sử nhân
loại; nó đã có thời kì đi lên phồn vinh rực rỡ; lại cũng có giai đoạn tàn tạ, đại khủng
hoảng, đại suy thoái; nó vừa có nhu cầu và khả năng bên trong không ngừng thúc
đẩy sáng tạo khoa học kỹ thuật, lại có trở lực nội tại kìm hãm phát minh và ứng

dụng khoa học kỹ thuật; nó thông qua tìm tòi và tích lũy đã xây dựng một loạt cơ
chế hữu hiệu phát triển lực lượng sản xuất xã hội, lại tự mình gây thêm mâu thuẫn
nội bộ cản trở lực lượng sản xuất xã hội tăng trưởng ổn định; nó vừa sáng tạo ra
của cải xã hội to lớn, vừa tích lũy xã hội nghèo nàn, tinh thần trống rỗng và đạo
đức suy đồi; nó đã làm thay đổi thế giới bằng kỹ thuật cao mới, sản xuất phát triển,
thị trường rộng khắp, đồng thời mang lại khủng hoảng có tính đe dọa và tàn phá
đối với sự sinh tồn của loài người đối với việc phá hoại sinh thái tự nhiên, ô nhiễm
môi trường, mở rộng khoảng cách Bắc – Nam. Như vậy việc phân tích và nhận

7


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

thức một cách toàn diện lịch sử và hiện thực đan xen phức tạp đó của chủ nghĩa tư
bản như thế nào là một vấn đề quan trọng đặt ra trước mắt những người Mácxit.
2. Hai quan điểm khác nhau về sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Bàn về sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại có nhiều quan điểm khác nhau.
Nhưng như đã nói ở trên, quy kết lại có hai quan điểm lớn, cơ bản mà hiện nay vẫn
chiếm được tỉ lệ tán đồng khá đông.
Thứ nhất là, quan điểm của nhóm học thuật lấy mốc thời gian từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai đến nay làm thời gian cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện
đại, với đặc trưng nổi bật là giai đoạn chủ nghĩa tư bản chuyển từ “độc quyền bình
thường” phát triển lên độc quyền nhà nước. Và như vậy là quan điểm này trùng với
giai đoạn thứ tư trong sự phân chia giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản ở trên.
Quan điểm này chú trọng đến giai đoạn phát trển mới của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, đó là “độc quyền nhà nước”. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước với nét
riêng được các nhà học thuật chú ý nhấn mạnh chính là sản phẩm của sự phát triển

hợp lôgic của độc quyền trong điều kiện tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, là sự
dung hợp giữa nhà nước tư sản và các tổ chức độc quyền, hình thành một cơ cấu
thống nhất, hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm bảo vệ sự tồn tại và lợi ích
của giai cấp tư bản, trước hết là các tổ chức độc quyền.
Sự kết hợp sức mạnh giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền biểu hiện trước
hết về mặt nhân sự, sở hữu và đặc biệt là điều tiết nền kinh tế thị trường bằng tổ
chức bộ máy nhà nước, sử dụng các công cụ điều tiết dựa trên những lý thuyết kinh
tế nhất định (đặc biệt là lý thuyết kinh tế của Keynes).
Trong giai đoạn này đặc biệt chú trọng đến vai trò điều tiết của nhà nước.
Khác với những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, sự điều tiết kinh tế của nhà
nước tư bản độc quyền, mang tính chất thường xuyên, trực tiếp chứ không mang
tính chất là những giải pháp có tính chất tình thế, ứng phó nhất thời trước những
chấn động kinh tế - xã hội, hoặc trước những nhiệm vụ cấp bách đặt ra, đặc biệt là
trong tình huống của thời chiến.
Thứ hai là, quan điểm của nhóm học thuật lấy mốc từ thập niên 70 đến nay,
đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 để làm thời gian cho sự
xuất hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Lý do, vì đây là thời điểm đánh dấu bước
8


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

ngoặt trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đó là sự chín muồi ngày càng
sâu sắc của các điều kiện vật chất trong quá trình chuyển từ nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế toàn cầu, với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất, sự lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia. Đặc biệt trong
giai đoạn này chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những đặc trưng cơ bản riêng khác với
các giai đoạn trước, đó là sự tự điều chỉnh để thích nghi và tồn tại của chủ nghĩa tư

bản, đặc biệt là vai trò điều tiết của nhà nước có sự thay đổi lớn. Điều này tôi sẽ
trình bày rõ hơn ở các phần sau.
Từ việc trình bày những lý luận trên, ta thấy cả hai quan điểm đều có lý lẽ hay
riêng của mình. Tuy nhiên theo ý kiến riêng của cá nhân tôi, tôi đồng ý với quan
điểm của nhóm học thuật thứ hai, vì sau một quá trình nghiên cứu và tìm hiểu tôi
nhận thấy từ thập niên 70 trở lại đây, đặc biệt là từ năm 1973 (khủng hoảng năng
lượng) chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi lớn, với những đặc trưng riêng khác
hẳn với nó trong giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến thập niên 70.
Chính vì thế trong bài nghiên cứu này tôi chỉ xoáy sâu vào những vấn đề của chủ
nghĩa tư bản hiện đại từ 1970 trở lại đây.
3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ 2, giai đoạn này
lực lượng sản xuất đã phát triển mạnh mẽ cả về tính chất và trình độ xã hội hóa
hơn nữa, đã làm cho quan hệ sản xuất có sự vận động thích ứng. Từ đó làm nảy
sinh đặc điểm mới tạo thành đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Thứ nhất là, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã và đang trong bước quá độ từ cơ sở
vật chất - kỹ thuật truyền thống sang cơ sở vật chất - kỹ thuật hoàn toàn mới về
chất. Đó là cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế mới (nền kinh tế tri thức). Điều
này thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, những biểu hiện chủ yếu của bước quá độ này là sự thay thế từng
bước các tư liệu sản xuất truyền thống do cuộc cách mạng công nghệ chủ nghĩa tư
bản mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên cơ sở những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học,
2

Cách mạng khoa học – công nghệ: là quá trình biến đổi những yếu tố chủ yếu trong lực lượng sản xuất của xã hội,
được thể hiện nhờ vai trò dẫn đường của khoa học trong một chu trình khép kín: khoa học, công nghệ, sản xuất xã hội,
công nhân và môi trường.

9



Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

vật liệu mới, công nghệ sinh,… thể hiện ở những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu
bền,… tác động nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng. Các tư liệu sản xuất
này hết sức đa dạng, phong phú cả về đối tượng lao động hóa ngày càng phát triển
thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hóa, điện khí hóa. Có thể nói khái quát là
hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hóa. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động.
+ Máy công cụ điều khiển bằng số.
+ Người máy. Đặc biệt người máy (Robot) đã từng thay thế phần công việc
nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại,… cho người lao động, đồng thời
xuất hiện những nhà máy tự động hóa do người máy điều khiển những công đoạn
cần thiết. Các quá trình lao động trí óc đã được thử nghiệm để người máy thay
thế,…
Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước hết ở công cụ lao động đã tác động
dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do vậy, phương thức sản
xuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ thuật cơ khí sang bán tự động và
tự động,… Từ đó các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức3 xuất hiện.
Hai là, nguyên nhân của bước quá độ này là do tác động của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học – công nghệ với những
lĩnh vực mũi nhọn được tập trung là “chùm công nghệ cao” như kỹ thuật điện tử,
công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học,…đã tạo ra những thành tựu
mới và được chủ nghĩa tư bản hiện đại áp dụng một cách có hiệu quả. Chẳng hạn
theo đánh giá gần đây, người ta cho rằng đổi mới công nghệ đã đóng góp 65% tăng
trưởng kinh tế Nhật Bản, 73% kinh tế Anh,…Hay trong báo cáo số 2 về nền kinh tế
số hóa đang xuất hiện (6 -1999). Bộ Thương mại Mỹ đã khẳng định khu vực công

nghệ thông tin đã đóng góp tới 35% tăng trưởng kinh tế của Mỹ.
Ba là, cơ sở vật chất - kỹ thuật mới về chất đã có tác dụng với những mức độ
và khuynh hướng khác nhau đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thế giới. Trước
hết, với tư liệu sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất sản phẩm tiên tiến, chủ
nghĩa tư bản đã đạt được năng suất lao động cao, tăng trưởng kinh tế và tạo ra một
3

Nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức. Các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng ngày càng nhiều
công nghệ cao bao gồm giáo dục, nghiên cứu triển khai, thiết bị thông tin, dịch vụ thông tin,…

10


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

khối lượng của cải khổng lồ có chất lượng cao. Chỉ tính riêng từ năm 1970 đến
thập kỉ 80 sản lượng công nghiệp đã tăng gấp đôi. Chính khoa học – công nghệ đã
đóng góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế và trong đó có 3/5 là do
năng suất lao động. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng không tránh khỏi được
những chấn động, khủng hoảng. Và chính điều đó, đòi hỏi chủ nghĩa tư bản phải
tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế,…để khắc phục khó khăn, thách thức, duy trì sự
tồn tại và phát triển.
Thứ hai là, sự biến đổi trong đội ngũ lao động.
Đội ngũ người lao động làm thuê – lực lượng sản xuất cơ bản, cũng đã có sự
biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ, cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa
sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu sản
xuất. Đây là một đòi hỏi khách quan do chính quá trình sản xuất đặt ra. Cho đến
nay, đội ngũ lao động của các nước tư bản phát triển đã đạt trình độ văn hóa

chuyên môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi theo chiều hướng
tiến bộ làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa có hiệu quả hơn. Về cơ cấu lao
động: lao động dịch vụ được tập trung cao (70 – 75%), đồng thời đội ngũ chuyên
gia có tay nghề cao chủ yếu được tập trung ở khu vực này.
Với nền sản xuất từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức thì vai trò của
nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy, đòi hỏi người lao động phải
được đào tạo và đào tạo lại để có trình độ nghiệp vụ thích ứng. Việc này do nhà
nước và các doanh nghiệp đảm nhận theo những phương thức nhất định.
Để nâng cao trình độ khoa học, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước
tư bản đã tăng cường đầu tư vào nghiên cứu, triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế
trong những chương trình nghiên cứu các đề tài mang tính chiến lược, thực hiện cải
cách giáo dục. Và kết quả là chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu to lớn
trong những lĩnh vực này.
Do sự đầu tư vào con người đã làm tăng các yếu tố tái sản xuất lao động cả về
vật chất lẫn tinh thần để khơi dậy sự sáng tạo, phục vụ quá trình tái sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong điều kiện mới một cách tốt hơn nên tốc độ tăng trưởng kinh tế
tăng.

11


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Cùng với việc nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, các nước tư
bản chủ nghĩa đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của giá trị hàng hóa sức lao
động, thực hiện nâng cao chất lượng cuộc sống của họ thông qua chính sách bảo
hiểm, việc làm, trợ cấp thất nghiệp,…
Tuy nhiên cần khẳng định rằng, sự quan tâm đến điều kiện tái sản xuất sức lao

động của chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là “chủ nghĩa tư bản đã hoàn toàn với bộ
mặt con người” như một số người lầm tưởng.
Thứ ba là, đa dạng hóa và quốc tế hóa các hình thức sở hữu.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt từ thập niên 70 trở lại đây, hình
thức sở hữu của chủ nghĩa tư bản đã có bước biến đổi hết sức to lớn với những biểu
hiện quan trọng là:
- Hình thức sở hữu đa dạng.
+ Có nhiều chủ thể cùng sở hữu tư liệu sản xuất trong một doanh nghiệp cổ
phần với những tỉ lệ khác nhau, trong đó có cả các nhà tư bản lớn, nhỏ và kể cả
người lao động cũng góp phần để hưởng lợi tức cổ phần. Tuy nhiên, cần nhấn
mạnh rằng, sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn phần của người
lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản sử dụng
như một công cụ trong quản lý để thu hút sự quan tâm của người lao động vào quá
trình sản xuất. Điều này có ý nghĩa làm thất bại âm mưu của một số người cố tình
nhầm lẫn và có ý đồ muốn phê phán “ sự lỗi thời” của chủ nghĩa Mác.
+ Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, về mặt sở hữu không chỉ giới hạn trong
việc sở hữu tư liệu sản xuất mà chủ yếu là sở hữu về mặt giá trị (vốn). Nếu như
thời kỳ đầu trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản quyền sở hữu, quyền sử
dụng quản lý gắn làm một trong một chủ sở hữu thì trong chủ nghĩa tư bản hiện đại
sự tách rời giữa hai quyền đó diễn ra mạnh mẽ và lao động quản lý đã trở thành
một nghề, giám đốc thực hiện chức năng quản lý thông qua hợp đồng làm thuê.
Cùng với quá trình đó còn xuất hiện nhiều hình thức sở hữu khác, đặc biệt là
sở hữu trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế,… Các
hình thức sở hữu này, nhất là sở hữu thông tin đã ngày càng trở nên quan trọng
trong nền kinh tế thị trường hiện đại và mang tính quyết định đối với tăng trưởng
kinh tế.
12


Luận văn tốt nghiệp


Nguyễn Thị Nhu Sa

+ Sở hữu tư nhân đã có sự biến đổi lớn, thể hiện ở chỗ là tính độc lập tương
đối trong hình thức sở hữu tư nhân thuần túy đã bị mất dần và thay vào đó là hình
thức sở hữu hỗn hợp. Tuy nhiên sở hữu tư nhân vẫn là hình thức sở hữu thống trị
trong xã hội tư bản.
- Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại, nhưng không còn độc quyền thuần
túy mà là dạng hỗn hợp và dưới hình thức sở hữu của các công ty xuyên quốc gia.
Đây là hình thức vận động rất mới mẻ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư là, vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường của nhà nước tư bản chủ
nghĩa hiện đại.
Vai trò kinh tế của nhà nước đã thể hiện trong lịch sử và được bàn tới trong
nhiều tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học. Song, vai trò
kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại của nhà nước tư bản
lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Nếu như trước kia nhà nước tư bản can thiệp trực tiếp vào guồng máy kinh tế
thì ngày nay cơ chế điều tiết theo kiểu độc quyền nhà nước đã có sự đổi mới cả về
cơ chế, bộ máy theo hướng “nhà nước ít thị trường”; hướng vào điều tiết vĩ mô kể
cả việc “giải điều tiết” trong chừng mực nhất định, tức là nhà nước chỉ can thiệp
gián tiếp vào guồng máy kinh tế và đứng ra hoạch định những chiến lược kinh tế
mới, lớn cho các nhà tư bản.
Thứ năm là, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới biến đổi sâu sắc.
Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới là toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc
tế của chủ nghĩa tư bản, là tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa các nền kinh tế
quốc dân của từng nước tư bản chủ nghĩa và nước phụ thuộc. Trong hệ thống đó
các nền kinh tế quốc gia có mối liên hệ với nhau bởi sự phân công lao động quốc
tế, thương mại, tài chính, tiền tệ.
Ngày nay, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã có nhiều biến đổi so với các
giai đoạn trước. Những biến đổi đó được khái quát ở hai điểm sau:

Một là, sự phát triển không đều giữa các bộ phận cấu thành nên hệ thống.
Dưới tác dụng của quy luật phát triển không đều, nền kinh tế của các nước tư
bản chủ nghĩa trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã phát triển với
nhịp độ và phương hướng khác nhau, dẫn đến trình độ phát triển không đều. Chẳng
13


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

hạn khi đi so sánh nền kinh tế của ba trung tâm kinh tế lớn là Mỹ, Nhật, Tây Âu có
thể khẳng định rằng Mỹ có sự giảm sút tương đối so với Tây Âu và Nhật. Điều này
thể hiện là từ một nước xuất siêu, Mỹ đã trở thành nước nhập siêu (năm 1987 nhập
siêu 169,9 tỷ USD, năm 1998 nhập siêu là 502,6 tỉ USD,…). Từ chỗ là chủ nợ đến
nay trở thành con nợ số một. Còn vị trí chủ nợ đã được Nhật thay thế. Nhật còn
vượt Mỹ về một số lĩnh vực như tài chính, ngân hàng.
Hai là, hợp tác và cạnh tranh vẫn là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản
hiện đại. Nó luôn diễn ra đan xen nhau và là hai mặt của nền kinh tế nói chung, thế
giới tư bản nói riêng. Quá trình đó đã tác động sâu rộng đến toàn bộ đời sống kinh
tế thế giới và lôi cuốn các quốc gia trên thế giới vào dòng xoáy này.
Quá trình hợp tác và cạnh tranh đó đã tạo ra nhiều cơ hội để các quốc gia đi
sau có thể rút ngắn quá trình của mình. Song, chính quá trình đó lại tạo ra những
thách thức lớn, nhất là thách thức về sự tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới.

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM KHỦNG HOẢNG CHU KÌ VÀ SỰ TỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1. Đặc điểm khủng hoảng chu kì của chủ nghiã tư bản hiện đại.
1.1 Khái lược về các cuộc khủng hoảng chu kì của chủ nghĩa tư bản.

Cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên nổ ra ở nước Anh vào năm 1825.
Cuộc khủng hoảng tiếp theo là vào năm 1836, cũng bắt đầu ở Anh, rồi lan sang Mỹ
năm 1837. Song, cả hai cuộc khủng hoảng này chưa mang tính chất thế giới. Phải
mười năm sau, tức đến năm 1847 – 1848, cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì đầu tiên
mới thực sự mang tầm vóc thế giới, khi nó đồng thời tàn phá cả bốn nước tư bản
chủ nghĩa chủ yếu nhất lúc đó là: Anh, Mỹ, Pháp, Phổ. Tiếp đấy cứ trung bình
khoảng từ 8 đến 10 năm, cuộc khủng hoảng chu kì lại xảy ra một lần, và lần nào
cũng kéo cả bốn nước nói trên vào cuộc. Từ cuộc khủng hoảng chu kì năm 1907,
ngoài bốn nước truyền thống trên, còn mở rộng sang cả Nhật Bản. Riêng nước Mỹ
thì luôn luôn có mặt trong bất kì cuộc khủng hoảng chu kì nào cho đến tận đầu thập
kỷ 90 (bao gồm khủng hoảng những năm 1920; 1929-1933; 1937-1938; 19431946; …..;1969-1970;…..).

14


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Trong số các cuộc khủng hoảng chu kì nêu trên, thì sâu đậm và gây tổn thất to
lớn nhất là cuộc “Đại khủng hoảng 1929-1933” diễn ra trong toàn bộ hệ thống tư
bản chủ nghĩa thế giới không trừ một nước nào. Cuộc khủng hoảng này đã đẩy thế
giới tư bản chủ nghĩa vào cuộc đại suy thoái toàn cầu: làm sụt giảm khoảng 44%
sản lượng cả thế giới tư bản chủ nghĩa, thậm chí tới 50% - 60% ở một số nước; đẩy
lùi nền công nghiệp của thế giới tư bản chủ nghĩa vào mức 20 – 30 năm trước đó,
như Pháp lùi về năm 1911; Mỹ lùi về năm 1905 – 1906;…Cuộc khủng hoảng này
làm sụt giá 56 đồng tiền quốc gia, làm giảm 30% chu chuyển ngoại thương quốc tế
và tước mất công ăn việc làm của trên 40 triệu người lao động4. Hơn nữa, cuộc
khủng hoảng chu kì này là một hỗn hợp đồng thời của cả khủng hoảng công
nghiệp, khủng hoảng nông nghiệp, khủng hoảng tiền tệ,…do đó làm cho khủng

hoảng công nghiệp trở nên sâu đậm hơn và kéo dài hơn.
Để vượt qua cuộc khủng hoảng chu kì trước chiến tranh thế giới lần hai, các
nước chủ nghĩa tư bản thường dùng những giải pháp chủ yếu như:
-

Tăng cường các can thiệp tài chính – tiền tệ và tín dụng nhà nước theo

hướng nới lỏng để kích thích đầu tư và tiêu dùng.
-

Đẩy mạnh quân sự hóa kinh tế, tăng chi phí quốc phòng, lấy việc mở

rộng các ngành sản xuất phục vụ chiến tranh, chạy đua vũ trang và phát động chiến
tranh để phục hồi và đẩy mạnh nền sản xuất trong nước.
-

Xúc tiến xuất khẩu các hàng hóa ế thừa, kể cả dưới hình thức viện trợ,…

-

Nổ lực phát triển khoa học – kỹ thuật để tìm kiếm các cơ hội, lĩnh vực

đầu tư mới, kích thích đầu tư, sản xuất,…
1.2. Những yếu tố tác động đến khủng hoảng chu kì của chủ nghĩa tư bản hiện
đại.
Thế giới hiện đại, trong những thập niên gần đây, đang bước vào giai đoạn
phát triển mới trong bối cảnh với những đặc trưng chung là cực kì phức tạp và
nhạy cảm, như là kết quả tổng hòa của đan xen và tương tác giữa các quá trình
không cùng chiều, giữa những cái cũ đang mất đi và cái mới đang thành hình trên
nền tảng chung, đồng thời có sự phân hóa và thay thế mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội – kinh tế, trong nhận thức và trong thực tiễn, về giá trị
4

Lê Bộ Lĩnh, Chủ nghĩa tư bản hiện đại, khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh, NXB KHXH, HN-2002, trang 76, 77

15


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

cũng như về vật chất,…Có thể nêu ra một số xu thế khách quan nổi bật sau có tác
dụng mạnh nhất đến khủng hoảng chu kì của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
1.2.1. Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học - công nghệ.
Trong vòng những thập kỉ gần đây, khoa học – công nghệ có những đột phá
quan trọng và phát triển trên quy mô mới cả về lượng và chất với nhịp độ ngày
càng nhanh. Nếu coi lịch sử nhân loại là một năm và thế kỷ XX là 15 phút. Trong
đó ba thập kỷ gần đây là 5 phút cuối cùng, thì lượng tri thức mà nhân loại có được
trong 15 phút đó bằng cả toàn bộ lượng tri thức tích lũy trước đấy. Hơn nữa, ¾
lượng tri thức này là kết quả thu nhận được chỉ vào 5 phút cuối cùng (số lượng tạp
chí và bài báo khoa học cứ 10 năm lại tăng gấp đôi, khoảng 80% các công nghệ và
quy trình kỹ thuật đang sử dụng hiện nay sẽ trở nên lạc hậu trong một thập kỉ nữa,
chu kì đổi mới của nhiều chu trình, phần mền máy tính rút ngắn lại thậm chí chỉ
còn 6 tháng,…).
Trên thực tế, khoa học – cộng nghệ ngày càng được coi trọng, đắt đỏ hơn và
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Một thời đại mới đang ra đời với đặc trưng
nổi bật là phát triển theo chiều sâu theo cái gọi là “nền kinh tế tri thức”. Nền sản
xuất và công nghiệp truyền thống được thay thế dần bằng các ngành công nghiệp
mới và sự phát triển của các ngành dựa trên tri thức, tự động hóa, tin học

hóa,…Khu vực dịch vụ ngày càng mở rộng so với hai khu vực còn lại của nền kinh
tế quốc dân. Cơ cấu sản phẩm ngày càng phong phú và ngày càng đổi mới, tiến bộ
nhanh chóng, đang từng bước hướng dẫn và cải thiện kết cấu tiêu dùng xã hội. Quy
mô tiêu dùng của mỗi nước và toàn thế giới cũng không ngừng mở rộng, những
lĩnh vực đầu tư mới ngày càng mở ra. Đầu tư cố định càng tăng về quy mô, đẩy
nhanh hơn về tốc độ, vòng quay (song cấu tạo hữu cơ của tư bản lại giảm tương đối
do nâng cao vị thế trí tuệ của lao động). Sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động
lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời
công nghệ, sản phẩm rút ngắn. Giá trị sản xuất và lợi nhuận kinh doanh chủ yếu
dựa vào tài nguyên thông tin, đặc biệt là những thông tin về tương lai, về cái chưa
biết chứ không phải cái đã biết. Nền kinh tế tri thức này nếu so với nền kinh tế
công nghiệp và kinh tế nông nghiệp, thì có những khác biệt căn bản cả về “đầu
vào” lẫn “đầu ra” của sản xuất. Các sản phẩm ngày càng có hàm lượng tài nguyên
16


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

và lao động thấp, hàm lượng khoa học cao hơn, chúng được sản xuất ngày càng
nhiều, nhanh, tốt, rẻ,…Song theo hướng phi tiêu chuẩn hóa, phi tập trung hóa, phi
tối đa hóa,…Giá trị sử dụng của chúng càng cao thì giá bán càng rẻ, đồng thời sản
phẩm càng nhiều thì giá trị và giá trị sử dụng càng cao.
Đặc biệt nếu trong nền kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, sản phẩm mang
tính vật thể, là sở hữu của ít người và đáp ứng nhu cầu có giới hạn của cá nhân, thì
trong nền kinh tế tri thức sản phẩm mang tính tri thức (hàm lượng trí tuệ cao),
thông tin - tri thức, là sở hữu của rất nhiều người và nhu cầu của cá nhân về những
sản phẩm này là vô hạn, nhất là với các nhu cầu tinh thần, giải trí, văn hóa cao. Có
thể nói, sự linh hoạt và quy mô mang tính mở rất cao cả về kỹ năng sản xuất và tiêu

dùng các sản phẩm trong nền kinh tế tri thức là đặc tính mới về chất, mà tất cả các
phương thức và thời kì phát triển kinh tế của nhân loại trước đó không có. Chính
những đặc tính quan trọng nêu trên của kinh tế tri thức đã, đang và sẽ làm thay đổi
cơ cấu, tổ chức vật chất – kỹ thuật – xã hội của xã hội loài người nói chung, của
các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nói riêng, và cho phép trực tiếp, gián tiếp mở rộng
không gian kinh tế, mở rộng thị trường (cung cấp và tiêu thụ) sản xuất, gắn kết trực
tiếp và hợp lý hơn giữa sản xuất và tiêu dùng, đồng thời tạo ra nhiều yếu tố nguồn
lực và động lực mới thúc đẩy kinh tế phát triển, cũng như làm cho nền kinh tế nói
chung, sản xuất nói riêng mang tính tăng trưởng bền vững hơn. Điều đó có nghĩa là
làm “nhạt bớt” tính chất “định mệnh” chu kì của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (tăng
trưởng suy thoái) cả ở cấp vi mô và vĩ mô, quốc gia và toàn cầu.
1.2.2. Khu vực hóa, toàn cầu hóa và đa cực hóa.
Sự gia tăng ngày càng đậm nét và toàn diện của các quá trình khu vực hóa,
toàn cầu hóa5 và đa cực hóa6 dựa trên cơ sở sự phát triển nhanh, mạnh và khác về
chất của cách mạng khoa học công nghệ, sự thừa nhận rộng rãi và vận hành nền
kinh tế theo cơ chế thị trường ngày càng đồng bộ và hoàn thiện hơn, cũng như kết
quả tích tụ tập trung tư bản và sự phát triển không đồng đều về trình độ tổ chức
5

Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa là giai đoạn phát triển mới, cao của
quá trình quốc tế hóa.
6
Đa cực hóa là một xu hướng mà trong đó cục diện thế giới kết thúc hai cực đối đầu, cũng không thể do một cực chế
ngự, các lực lượng lớn trên thế giới phát triển theo hướng độc lập, tự chủ, mở rộng. Đa cực hóa phản ánh sự phát triển
của “dân chủ quốc tế”, trong đó công việc quốc tế không thể do một vài siêu cường quốc nói là xong, mà phải do các
thành viên quốc tế bình đẳng hiệp thương.

17



Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội quốc gia và quốc tế,…đã, đang và sẽ là
những nhân tố quan trọng có những chi phối hai chiều đến chu kì chủ nghĩa tư bản.
Thứ nhất, quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa (mà thực chất là tự do hóa) làm
tăng độ nhạy cảm và mở rộng quy mô, phạm vi của các chấn động chu kì. Trong
một thế giới ngày càng mở hơn, với các quan hệ song phương và đa phương (nhất
là đa phương – đặc trưng mới của hơn thập kỉ gần đây) đan xen tương tác ngày
càng phức tạp, chồng chéo, chặt chẽ và mang tính hai chiều hơn, bao phủ trên mọi
cấp độ và lĩnh vực,…thì bất kì sự chấn động chu kì của quốc gia và nhóm khu vực
nào cũng có tương tác trực tiếp nhanh chóng đến các quốc gia, nhóm khu vực khác
tùy thuộc vào vị thế quốc tế, cũng như vào sự phát triển gắn kết các quan hệ đã xác
lập thực tế của nước, nhóm nước đối với thế giới bên ngoài.
Thứ hai, tuy nhiên, ở góc độ khác, chính sự mở rộng thị trường có được nhờ
toàn cầu hóa, khu vực hóa cũng như nhờ sự đa cực hóa, lại có tác động tạo ra các
xung lực tích cực “trung hòa” làn sóng chu kì. Nghĩa là nhờ thị trường mở rộng và
tự do, các luồng hàng hóa và dịch vụ ứ đọng ở nước này có thể lập tức được
chuyển đến tiêu thụ ở khu vực khác. Ngoài ra, sự lệch pha trong chu kì của một
“cực” phát triển trong một thế giới đa cực sẽ làm tắt và triệt tiêu song chu kì của
một “cực” nào đó, một lĩnh vực nào đó nhanh chóng và hiệu quả hơn trong thế giới
chỉ có một hoặc hai cực. Giai đoạn hưng thịnh ở Mỹ, sự ổn định kinh tế của Tây
Âu có tác dụng tích cực rõ rệt trong việc rút ngắn và giảm thiểu tác hại kinh tế
trong giai đoạn khủng hoảng, tiêu điều của Nhật Bản trong những thập kỉ cuối của
thế kỉ XX là một thực tế nóng hổi đầy sức thuyết phục về điều này.
Thứ ba, hơn nữa, toàn cầu hóa và đa cực hóa còn tạo sức ép và cho phép các
chính phủ “ngồi lại” với nhau bình đẳng hơn để tìm cách đổi mới và hoàn thiện các
tổ chức và công cụ chống chu kì hiện hành mà vốn được thiết kế và vận hành chỉ từ

sự lũng đoạn của một nhóm hẹp các quốc gia – thủ lĩnh trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa thế giới. Dư luận quốc tế và sự khởi động những hoạt động cần thiết ban
đầu và chiều hướng đổi mới Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Ngân hàng thế giới (WB)
cũng như sự ra đời các thiết chế, công cụ điều tiết vĩ mô quốc gia và quốc tế mới
nhằm đối phó với chu kì toàn cầu,…được xúc tiến thời gian gần đây cho thấy rõ
điều đó.
18


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Thứ tư, điểm mới rất quan trọng trong quá trình tái sản xuất của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa là ở chổ tốc độ khấu hao cơ bản được
đẩy nhanh hơn vì thị trường được mở rộng hơn, cho phép tiêu thụ nhanh, nhiều hơn
với giá rẻ. Nhờ vậy, vòng quay vốn cố định nói riêng, chu chuyển tư bản nói chung
sẽ rút ngắn rất nhiều – tức chu kì tư bản chủ nghĩa sẽ có những động thái mới chưa
từng có trước đây.
1.3. Những đặc trưng mới của khủng hoảng chu kì tư bản chủ nghĩa, đặc biệt ở
những năm cuối thế kỉ XX.
Chịu tác động hợp lực của các yếu tố trên đây, các cuộc khủng hoảng của chủ
nghĩa tư bản đã có những biểu hiện và biến thái mới. Phân tích các cuộc khủng
hoảng chu kì trong chủ nghĩa tư bản những thập kỉ gần đây, chúng ta có thể nhận
thấy những đặc điểm mới sau đây.
Thứ nhất, có sự rút ngắn khoảng cách giữa các chu kì và “mờ dần” ranh giới
giữa các giai đoạn của một chu kì.
Nhìn suốt quá trình lịch sử của chủ nghĩa tư bản, dễ nhận thấy xu hướng rút
ngắn lại khoảng cách giữa các chu kì khủng hoảng. Từ trung bình 10 năm ở thế kỉ
XIX, 8 năm cho nửa đầu thế kỉ XX (1900 – 1901; 1907 – 1908; 1920 – 1921; 1929

– 1933) khoảng cách rút lại còn từ 3 – 5 năm cho thời kì những thập kỉ cuối thế kỉ
XX (1974 – 1975; 1979 – 1982; 1991 – 1993; 1997 – 1999). Ngoài ra, trong sự vận
động của chu kì, ranh giới và khoảng cách của các giai đoạn cũng mờ dần, khó xác
định hơn không chỉ giai đoạn tiêu điều và giai đoạn phục hồi trong một chu kì, mà
còn ngay cả giai đoạn hưng thịnh của chu kì sau so với giai đoạn trì trệ của chu kì
trước. Đây là một đặc trưng nổi bật của chu kì tư bản chủ nghĩa hiện đại khá phổ
biến ở các quốc gia.
Chính sự rút ngắn vòng đời công nghệ, vòng đời sản phẩm và chu kì kinh
doanh đã rút ngắn khoảng cách chu kì tư bản chủ nghĩa đồng thời sự đa dạng hóa
sản phẩm kinh doanh có các “chu kì riêng” khác nhau, có nhu cầu mở rộng nhanh
và được đáp ứng nhanh không kém trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay
gắt, đã tạo ra tình trạng có sự bù trừ của việc sa sút nhanh với hồi phục nhanh trên
thị trường, từ đó quy định đặc tính “mờ dần” giữa các giai đoạn chu kì trên đây của
khủng hoảng chu kì tư bản chủ nghĩa hiện đại.
19


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Ngoài ra, đặc tính mới mẻ này của chu kì tư bản chủ nghĩa hiện đại còn được
giải thích bởi một đặc tính khác không kém phần quan trọng sẽ được đề cập dưới
đây.
Thứ hai, có sự “lệch pha” ngày càng rõ rệt giữa các trung tâm tư bản chủ
nghĩa trong các giai đoạn vận động của chu kì.
Nếu như khủng hoảng chu kì tư bản chủ nghĩa trước và thời gian đầu sau
Chiến tranh thế giới II thường lôi cuốn hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa chủ chốt,
mà biểu hiện rõ rệt nhất là Đại suy thoái – khủng hoảng 1929 – 1933, thì những
năm gần đây sự “hội tụ” kiểu như vậy trở nên thưa thớt, ít cơ hội diễn ra hơn. Ví dụ

trong 40 năm ở Mỹ có tới 9 cuộc khủng hoảng kinh tế, ở Anh có 8, ở Nhật có 7,
còn ở Cộng hòa Liên bang Đức có 6 và ở Pháp chỉ có 5 cuộc mà thôi – tức bản thân
giữa các nước tư bản chủ nghĩa chủ chốt trên thế giới đã có sự khác biệt nhau về số
lượng cuộc khủng hoảng kinh tế.
Điều đáng chú ý là mặc dù số lượng các cuộc khủng hoảng chu kì không lệch
nhau nhiều, song có sự “lệch pha” ngày càng rõ rệt trong các giai đoạn chu kì ở các
nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu. Chẳng hạn, xét trên quy mô rộng thì các nước tư
bản chủ nghĩa có những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm: 1973
– 1974; 1979 – 1982; 1990 – 1991; 1997 – 1999;…nhưng trên thực tế Nhật Bản và
Mỹ không hoàn toàn có các chu kì trùng với các chu kì chung đó. Trong thập kỉ 90,
nước Mỹ đã hơn 9 năm liền liên tục tăng trưởng GDP với tốc độ cao, tạo ra một
giai đoạn hưng thịnh dài chưa từng có trong lịch sử 50 năm qua của nước này.
Trong khi đó, cũng suốt trong thập kỉ 90, Nhật Bản lại có một giai đoạn trì trệ kéo
dài chưa từng có trong “lịch sử thần kỳ kinh tế”. Có thể nói, chính sự lệch pha giữa
các nước tư bản chủ nghĩa đã có tác dụng bù trừ” tích cực góp phần cứu nền kinh
tế thế giới, không biến cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997 – 1999 ở Châu Á
thành đại suy thoái thế giới như năm 1929 – 1933, đồng thời giúp các nước Châu Á
vượt nhanh hơn trong khắc phục giai đoạn suy thoái kinh tế đó.
Thứ ba, giá cả tăng trong giai đoạn khủng hoảng, song ngày càng có xu hướng
giảm trong thời gian gần đây.

20


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

Nhìn tổng thể động thái giá cả trong các cuộc khủng hoảng chu kì kể từ thời
điểm 1929 – 1933 đến nay, người ta nhận thấy hai giai đoạn sụt giảm giá cả rõ rệt

trên cấp độ toàn cầu:
- Giai đoạn khủng hoảng 1929 – 1933, khi đó vật giá ở Mỹ giảm 23,6%, Anh:
15,7%, Pháp: 16,8%, Đức: 23,4%, Nhật Bản: 26,4%.
- Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế ở Châu Á những năm 1997



1998, khi đó có sự suy giảm tiêu thụ toàn cầu, giá sụt giảm mạnh, nhất là giá dầu
mỏ, giá bất động sản, giá hàng điện tử và giá nông sản,…
Còn lại, quãng thời gian những năm 70 và 80 giá cả chỉ giảm nhẹ, thậm chí
giá cả còn tăng ở một số nước như Mỹ: vật giá tăng 14,5% trong cuộc khủng hoảng
1974 – 1975 và lại tăng 6,5% trong cuộc khủng hoảng 1981 – 1982.
Thứ tư, ngày càng có sự gắn kết sâu đậm và tác động qua lại nhạy cảm và trực
tiếp hơn giữa khủng hoảng chu kì và khủng hoảng cơ cấu, đặc biệt là khủng hoảng
tài chính - tiền tệ.
Do khủng hoảng cơ cấu (khủng hoảng gây ra bởi cơ cấu kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng) ngày càng xảy ra nhiều và trên phạm vi rộng trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế, từ sản xuất đến lưu thông,…Vì vậy, trong những thập kỉ
cuối của thế kỉ XX chúng đã có tác dụng mạnh đến động thái chu kì so với trước
đó, nhất là những cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ.
Vì vậy, cơ chế vận động của chu kì tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều điểm khác
trước. Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế dịch vụ, mà trong đó chiếm tỷ
trọng đáng kể là các dịch vụ tài chính – ngân hàng và thị trường vốn, do toàn cầu
hóa các công nghệ giao dịch và thương mại quốc tế, do sự tự do hóa, thương mại
hóa và tư nhân hóa các hoạt động kinh doanh – đầu tư theo cơ chế thị trường mở,
cũng như do sự thừa nhận và gia tăng ráo riết các hoạt động đầu cơ trên thị trường
tài chính - tiền tệ,…tất thảy những điều đó đã khiến các thị trường tài chính ngày
càng đóng vai trò động lực, trái tim và tấm gương hội tụ, phản chiếu toàn bộ nhạy
cảm, trực tiếp và tập trung nhất đời sống kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, quốc gia
cũng như quốc tế.

Hơn nữa, trong nền kinh tế hiện đại ngày càng xuất hiện cái gọi là “hiệu ứng
của cải”. Có tới khoảng 38% tài sản các hộ gia đình và khoảng 56% các quỹ trợ
21


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

cấp trong các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu được đầu tư vào các thị trường chứng
khoán, nơi mà giá trị “thực” và “ảo” thường ít gặp gỡ nhau,…khi thị trường thuận
lợi, các doanh nghiệp kể cả những người nắm giữ cổ phiếu này cứ ngỡ mình đã
giàu có, nên mở rộng chi tiêu hơn, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh,
thậm chí nóng. Nhưng nếu vì một lí do nào đó, thậm chí từ yếu tố phi kinh tế, thị
trường chứng khoán suy giảm, tâm lí chi tiêu và kinh doanh cổ đông sẽ đảo ngược,
góp phần tạo sự suy thoái nhanh và gay gắt hơn các lí do và cơ sở kinh tế thực tế.
Với những quan hệ dây chuyền phức tạp, một sự đổ vỡ thậm chí từ thị trường của
nước ngoại vi cũng có thể tạo ra chuỗi bùng nổ, đổ vỡ nhanh, mạnh trên diện rộng,
lan đến trung tâm thông qua các kênh nợ nần và lưu thông tự do trên thị trường
vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ quốc tế. Khi đó, “hiệu ứng của cải” có khả
năng biến thành suy giảm thị trường (chẳng hạn, thị trường bất động sản, thị trường
điện tử,…) thành suy giảm kinh tế. Đến lượt mình, suy giảm kinh tế làm giảm nhu
cầu nhập khẩu và sự bỏ chạy của vốn đầu tư,…đình trệ thị trường và đình trệ vốn
đầu tư hòa quyện vào nhau và tạo ra ma sát cực mạnh cản trở vận động tiến lên một
cách bình thường của cổ máy kinh tế doanh nghiệp và quốc gia.
Trong cơ chế toàn cầu hóa, một hiện tượng mới mẻ đang xuất hiện là chính
quy trình co rút – bỏ chạy của vốn đầu tư quốc tế ngày càng có vai trò to lớn tạo
nên những vận động chu kì tư bản chủ nghĩa. Nhiều trạng thái mất cân bằng khác
tiềm tàng âm thầm và dường như không liên quan gì, qua tác dụng của dòng lưu
chuyển vốn đầu tư quốc tế, đã bị kích động mãnh liệt, hình thành và nhân bội

những tác động qua lại giữa chúng, khiến sự mất cân bằng càng sâu đậm hơn, tạo
ra những hậu quả lớn lao vượt hẳn mức độ những nguyên nhân cấu thành nên quá
trình ấy. Ở những nước yếu hơn đặc điểm này càng bộc lộ rõ hơn, mà cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ ở Châu Á đã chứng tỏ rất rõ. Sự đổ vỡ tài chính - tiền tệ
kéo theo suy giảm kinh tế thực sự. Cầu thị trường trong nước và quốc tế trì trệ.
Nhập khẩu co lại còn xuất khẩu cũng không tăng do suy giảm khả năng thanh toán
của các bên liên quan. Giá cả sụt giảm chung theo kiểu bắc cầu; sản xuất suy giảm,
thất nghiệp gia tăng. Khủng hoảng kinh tế thực sự nổ ra và sức phá hoại của nó
nhiều khi vượt quá cái giá phải trả cần thiết cho những sai lầm thị trường ban đầu.
Có thể khẳng định rằng, chính bản thân hệ thống tài chính quốc tế đã cấu thành nên
22


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Nhu Sa

bộ phận chủ yếu nhen nhóm và truyền dẫn những xung lực của khủng hoảng với
gia tốc cực nhanh mang tính phá hoại ghê gớm nhất trên quy mô toàn cầu.
Không những vậy, còn một điểm mới đáng chú ý khác nữa trong cơ chế hình
thành và truyền dẫn khủng hoảng kinh tế chu kì tư bản chủ nghĩa hiện đại là: thay
vì “sóng xung kích” của khủng hoảng xuất phát từ các nước trung tâm như mô hình
cổ điển trước đây, ngày nay khủng hoảng có thể khởi phát và lan truyền từ các
nước ngoại vi – mắc xích yếu nhất trong cơ chế cạnh tranh và kiểm soát thị trường.
Giải thích cho đặc tính mới này của chu kì tư bản chủ nghĩa không chỉ dưới
góc độ tài chính – tiền tệ, mà sâu xa hơn, còn do hệ quả của toàn cầu hóa. Thực
vậy, nếu trước đây “chính quốc” luôn là trung tâm phân bố guồng máy sản xuất tư
bản chủ nghĩa, nên khủng hoảng chu kì thường khởi phát từ đây. Còn ngày nay, do
toàn cầu hóa, quá trình tái cơ cấu quốc tế đã dịch chuyển guồng máy sản xuất hàng
hóa truyền thống này ra các vùng ngoại vi, ở trung tâm chỉ còn giữ lại những khâu

trọng yếu nhất, tinh túy nhất và “mềm” nhất của sản xuất theo hướng phát triển
kinh tế tri thức và tiền tệ (nghiên cứu thiết kế, bí quyết kỹ thuật, trung tâm huy
động và điều phối tài chính, các dịch vụ công nghệ cao,…). Thành thử, những làn
sóng chu kì cổ điển sẽ chủ yếu khởi phát và “tác oai tác quái” ở ngoại vi – nơi vẫn
còn “đất” nuôi dưỡng chúng; trong khi đó ở trung tâm không những không còn
điều kiện vật chất thích hợp cho khủng hoảng sản xuất thừa như cũ nữa, mà quan
trọng hơn, nơi đây ngày càng tích tụ và hoàn thiện hơn những điều kiện đối phó
hậu quả của chu kì (trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường,
năng lực đổi mới công nghệ và năng lực tài chính,…). Điều này giải thích vì sao
tính chất và tác hại của chu kì ngày càng “nhạt”, kém sâu sắc hơn ở các trung tâm
tư bản chủ nghĩa hiện đại.
Thứ năm, những giải pháp đối phó với chu kì ngày càng mang tính chất tài
chính – tiền tệ, tri thức và quốc tế hóa.
Chu kì sinh ra do quy luật tích lũy tư bản chủ nghĩa làm cho nhu cầu có khả
năng thanh toán thường không theo kịp khả năng mở rộng sản xuất. Bởi vậy, để
chống khủng hoảng, Chính phủ các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng tuân theo
công thức: thứ nhất, mở rộng nhu cầu xã hội thông qua nới lỏng chính sách tài
chính – tín dụng; thứ hai, khai thác thị trường quốc tế; và thứ ba, điều chỉnh chuyển
23


×