Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề cương luận văn “nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS ở nội thành thành phố hà nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.91 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày một phát triển, khoa học công nghệ ngày càng cao, yêu
cầu con người phải không ngừng lao động, học tập nhằm tạo ra sản phẩm
đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân và sự phát triển của
xã hội. Việc đáp ứng yêu cầu và nhịp độ khẩn trương của công việc khiến
con người dễ cảm thấy quá tải và dễ rơi vào trạng thái căng thẳng, mệt
mỏi, ảnh hưởng không tốt tới cơ thể cũng như kết quả lao động. Chính vì
vậy, đối với con người không chỉ sức khỏe thể chất mà cả nhu cầu về sức
khỏe tâm trí cũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Hiện nay, trong nhà trường nhiều học sinh gặp khó khăn trong học
tập, tu dưỡng đạo đức, xây dựng lý tưởng sống và xác định cách thức ứng
xử cho phù hợp với các mối quan hệ xung quanh. Đặc biệt, độ tuổi Vị
thành niên là độ tuổi đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh về mặt nhân
cách. Các em rất dễ bị ảnh hưởng xấu bởi các tiêu cực của xã hội, dễ gặp
phải những vấn đề khó giải quyết trong cuộc sống, trong học tập, quan hệ
bạn bè, cha mẹ...Vì vậy, việc trợ giúp tâm lý cho những học sinh tại thành
phố lớn như Hà Nội là rất cần thiết.
Thực trạng trên đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu về TVTL cho
học sinh. Tham vấn tâm lý được ứng dụng ở nhiều loại hình khác nhau,
trong đó TVTL học đường đang trở thành một nhu cầu cấp bách của xã hội
cần được đáp ứng kịp thời. TVTL học đường đóng vai trò rất quan trọng
đối với học sinh. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhu cầu TVTL của
học sinh ở nội thành thành phố Hà Nội là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn để xác định phương hướng, cách thức tổ chức các hoạt động
tham vấn có hiệu quả cho HS. Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Nhu
cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS ở nội thành thành phố Hà Nội”
được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu NC TVTL của học sinh THCS ở nội thành thành phố
Hà Nội và đề xuất một số khuyến nghị phù hợp nhằm đáp ứng NC TVTL


của học sinh THCS, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh.

1


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Học sinh THCS ở nội thành thành phố Hà
Nội: Trường THCS Phương Liệt và Trường THCS Giáp Bát.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Nhu cầu tham vấn tâm lý về các vấn đề học
tập, về các mối quan hệ ở học đường của học sinh THCS.
4. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng NC TVTL về các vấn đề trong
học tập và các mối quan hệ ở học đường. Cụ thể là: Nhu cầu về lĩnh vực
TVTL học đường, về hình thức TVTL học đường.
- Về khách thể nghiên cứu: 300 học sinh THCS, bao gồm: 150 HS
Trường THCS Phương Liệt và 150 HS Trường THCS Giáp Bát.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, hệ thống hóa một số thành tựu lý luận về nhu cầu, TVTL,
TVTL HĐ, NC TVTL HĐ của HS THCS. Trên cơ sở đó xây dựng cơ sở lý
luận cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng NC TVTL HĐ của HS Trường THCS
Phương Liệt và Trường THCS Giáp Bát ở nội thành thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm đáp ứng NC TVTL HĐ cho HS
THCS ở nội thành thành phố Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học: NC TVTL HĐ của HS THCS đã được hình thành
và phát triển nhưng còn ít được đáp ứng. Nếu phát hiện được những NC
TVTL HĐ đặc trưng của HS THCS thì sẽ đưa ra được những ý kiến đề
xuất phù hợp để đáp ứng NC TVTL HĐ cho HS.
6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
6.2. Phương pháp quan sát
6.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
6.4. Phương pháp phỏng vấn
6.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
6.6. Phương pháp toán thống kê

2


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu tham vấn tâm lý trên thế giới
Tham vấn tâm lý là một chuyên ngành tâm lý tương đối trẻ. Năm
1907, Jesse Davis (1817 – 1955) đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về
công tác hướng dẫn nghề tại Michigan. Tuy nhiên, người có ảnh hưởng lớn
nhất đến công tác hướng nghiệp ở Mỹ là Frank Parsons (1854 – 1908).
Ông được xem như cha đẻ của ngành hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp. F.
Parsons đã viết cuốn sách “ Cẩm nang hướng nghiệp”. Chính điều này đã
tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của ngành hướng dẫn tư vấn nghề.
Năm 1913, Hội nghị công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp lần đầu
tiên được tổ chức tại Boston. Kết quả của Hội nghị này đánh dấu sự ra đời
của Hiệp hội tư vấn hướng nghiệp quốc gia Mỹ (NVGA), tổ chức tiền
nhiệm của Hiệp hội tham vấn Mỹ (ACA) sau này.
Tham vấn tâm lý học đường (School Counseling) hay còn gọi là tham
vấn học đường là một nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện
vào đầu thế kỷ 20 tại Hoa Kỳ. Jesse B. Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia của
Mỹ cho các chương trình tham vấn học đường ra đời và kể từ đó, ngành
TVHĐ được xem là đã có tương đối các cơ sở để phát triển vững mạnh.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tham vấn tâm lý ở Việt Nam
Hiện nay ở nước ta cũng đã có một số sách về TVTL được xuất bản
như: “Tư vấn tâm lý căn bản” của Thạc sĩ Nguyễn Thơ Sinh (Nhà xuất bản
Lao Động, 2006), “Tư vấn tâm lý học đường” do Kiến Văn – Lý Chủ
Hưng biên soạn (Nhà xuất bản phụ nữ, 2007), bên cạnh đó còn có một số
bài báo như: “Tham vấn – một dịch vụ XH cần được phát triển ở Việt
Nam” đăng trên tạp chí TLH, số 2/2005. “Thực trạng tham vấn ở Việt
Nam: từ lý thuyết đến thực tế”, tạp chí TLH số 2/2003…
Đến nay, vấn đề TVTL HĐ tại Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng
bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em HS, phụ huynh, nhà trường,

3


các nhà Tâm lý - Giáo dục và các tổ chức thuộc chính phủ cũng như các tổ
chức phi chính phủ.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm nhu cầu
1.2.1.1. Nhu cầu là gì?
a. Quan điểm về nhu cầu của các nhà tâm lý học phương Tây: Quan
điểm của Tâm lý học nhân văn: Tiêu biểu cho lý thuyết về nhu cầu của
trường phái tâm lý học nhân văn là “Thuyết thứ bậc nhu cầu” của
A.Maslow (1908 – 1970). Thang nhu cầu của Maslow chia làm năm bậc:
Nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng,
nhu cầu tự thể hiện. Quan điểm của phân tâm học: Đại diện tiêu biểu là
S.Freud. Ông cho rằng, đời sống tâm lý của con người bao gồm 3 khối (cái
ấy, cái tôi, cái siêu tôi). Quan điểm của chủ nghĩa hành vi: J. Watson
(1878 - 1958), người khởi xướng ra Tâm lý học hành vi ở Mỹ (1913) cho
rằng: “ Khi có một kích thích nào đó tác động vào cơ thể sẽ tạo ra phản
ứng tương ứng đáp lại theo công thức: S → R

b. Quan điểm về nhu cầu của các nhà tâm lý học Xô Viết: Các nhà tâm
lý học Liên Xô khi nghiên cứu về con người, đời sống tâm lý đã khẳng
định: NC là yếu tố bên trong quan trọng đầu tiên thúc đẩy hoạt động của
con người.
c. Quan điểm về nhu cầu của các nhà tâm lý học Việt Nam: Có nhiều
quan điểm khác nhau về nhu cầu. Theo chúng tôi: “Nhu cầu là sự đòi hỏi
tất yếu mà con người thấy cần thỏa mãn để tồn tại và phát triển” trong
cuốn giáo trình “Tâm lý học đại cương” do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên
(2011).
1.2.1.2. Đặc điểm nhu cầu: NC bao giờ cũng có đối tượng; Nội dung của
NC do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quyết định; NC có
tính chu kỳ; NC của con người mang bản chất xã hội.
1.2.1.3. Phân loại nhu cầu: NC vật chất và NC tinh thần.
1.2.2. Khái niệm tham vấn tâm lý
1.2.2.1. Tham vấn tâm lý là gì?
Từ những khái niệm khác nhau về TVTL, chúng tôi chọn khái niệm
của PGS.TS. Trần Thị Minh Đức làm khái niệm công cụ để tiến hành
nghiên cứu luận văn: “Tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham
4


với thân chủ. Thông qua các kĩ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình, thân chủ
hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải
quyết vấn đề của chính mình”.
1.2.2.2. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ tham vấn tâm lý
a) Đối tượng của TVTL: Nghiên cứu các biểu hiện “không bình
thường” trong nhận thức, hành vi, và các nguyên nhân gây ra chúng ở các
cá nhân và nhóm người có khó khăn tâm lý nhằm trợ giúp cho họ có cuộc
sống tốt hơn.
b) Mục đích chung của TVTL: Cải tiến, củng cố (về mặt sức khỏe tinh

thần) giúp thân chủ sống tốt hơn; Ngăn ngừa, tránh không để vấn đề xảy ra
tồi tệ hơn; Giúp thân chủ giải quyết vấn đề cụ thể; Giúp thân chủ thay đổi
hành vi, nhân cách.
c) Nhiệm vụ của TVTL: Xác định vấn đề và nguyên nhân gây ra; Chẩn
đoán, đánh giá, phân loại vấn đề; Giúp tìm ra cách giải quyết vấn đề.
1.2.2.3. Nội dung TVTL: Nội dung tham vấn tâm lý được mở rộng ra
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: Tham vấn Tình yêu – Hôn
nhân – Gia đình, Tham vấn sức khỏe tinh thần, Tham vấn học đường,…
1.2.2.4. Hình thức TVTL: Hình thức tham vấn trực tiếp và tham vấn gián tiếp
1.2.3. Khái niệm tham vấn tâm lý học đường.
1.2.3.1. Tham vấn tâm lý học đường là gì?
TVTL HĐ là hoạt động trợ giúp giữa NTV học đường với học sinh về
các vấn đề trong học tập, trong quan hệ xã hội và các vấn đề chuyên biệt;
phát hiện sớm, phòng ngừa và can thiệp thích hợp nhằm mục đích khơi
dậy tiềm năng, nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề cho học sinh, giúp
học sinh có điều kiện, cơ hội phát triển tốt nhất.
1.2.3.2. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ tham vấn tâm lý học đường
a) Đối tượng của TVTL HĐ: Đối tượng của TVHĐ là những HS, sinh
viên đang gặp những trở ngại, khó khăn về mặt tâm lý, là những phụ
huynh, giáo viên và các tổ chức xã hội cần hỗ trợ về cách thức chăm sóc,
giáo dục, phát hiện và can thiệp kịp thời những vấn đề mà HS, sinh viên
gặp phải.
b) Mục đích của TVTL HĐ: Giúp HS xác định những vấn đề khó khăn
trong quá trình phát triển của mình, giảm bớt những thiếu hụt của cá nhân,
trợ giúp HS trong học tập, quan hệ xã hội, nâng cao năng lực cá nhân, phát
triển toàn diện về cả thể chất và tâm trí.
5


c) Nhiệm vụ của TVTL HĐ: Hỗ trợ HS, sinh viên giải quyết những

khó khăn trong việc phát triển nhân cách. Hỗ trợ phụ huynh, giáo viên và
các tổ chức xã hội cần hỗ trợ về cách thức chăm sóc, giáo dục, phát hiện và
can thiệp kịp thời những vấn đề mà HS, sinh viên gặp phải.
1.2.3.3. Nội dung TVTL HĐ: Bao gồm các vấn đề về học tập, về các mối
quan hệ học đường: Phát triển học tập, phát triển cá nhân/xã hội, phát triển
nghề nghiệp
1.2.3.4. Hình thức TVTL HĐ: Tham vấn trực tiếp và tham vấn gián tiếp.
1.2.3.5. Nhà tham vấn tâm lý học đường
NTV HĐ là người trợ giúp tạo ra và tổ chức những chương trình tham
vấn học đường một cách thích hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh.
1.2.4. Học sinh THCS và một số đặc điểm – khó khăn tâm lý
1.2.4.1. Khái niệm HS THCS
Lứa tuổi HS THCS thường được bắt đầu từ 11- 12 tuổi và kết thúc
vào lúc 14 – 15 tuổi. Ở Việt Nam lứa tuổi này còn được gọi là tuổi thiếu niên.
Đặc điểm sinh lý cơ bản trong lứa tuổi thiếu niên là hiện tượng dậy thì.
1.2.4.2. Một số đặc điểm tâm – sinh lí cơ bản của HS THCS
a) Đặc điểm phát triển thể chất của HS THCS: Tuổi dậy thì ở các trẻ em
gái Việt Nam vào khoảng 12 - 13 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm
hơn khoảng từ 1 đến 2 năm. Đến 15 - 16 tuổi, giai đoạn dậy thì kết thúc.
b) Đặc điểm phát triển tâm lý của HS THCS: Sự phát triển của tự ý
thức; Tự đánh giá của TN; Tự giáo dục của TN; Sự phát triển hứng thú của
TN; Sự hình thành đạo đức của TN; Sự phát triển đời sống tình cảm của
TN; Hoạt động học tập; Giao tiếp của thiếu niên.
1.2.4.3. Một số khó khăn tâm lý của HS THCS
Thiếu niên gặp khó khăn trên một số vấn đề sau: Khó khăn trong học
tập, khó khăn nội tâm, khó khăn trong quan hệ với cha mẹ, khó khăn trong
quan hệ với thầy cô giáo, khó khăn nảy sinh từ quan hệ bạn bè
1.2.5. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS
1.2.5.1. Khái niệm
Nhu cầu TVTL HĐ là quá trình HS mong muốn nhận được sự trợ

giúp chuyên nghiệp, tích cực của NTV HĐ về các lĩnh vực trong môi
trường học đường như: phát triển học, phát triển cá nhân – xã hội, phát

6


triển nghề nghiệp nhằm mục đích giúp cho HS có điều kiện, cơ hội phát
triển tốt nhất..
1.2.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn tâm lý của HS THCS.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn của HS THCS.
Đó là các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
Kết luận chương 1
Việc phân tích các tài liệu lí luận trong và ngoài nước liên quan đến đề
tài cho thấy:
- Tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn với thân
chủ. Thông qua các kĩ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình, thân chủ hiểu và
chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết
vấn đề của chính mình
- TVHĐ là hoạt động trợ giúp giữa NTV học đường với học sinh, sinh
viên về các vấn đề trong học tập, trong quan hệ xã hội và các vấn đề
chuyên biệt nhằm mục đích giúp cho học sinh có điều kiện, cơ hội phát
triển tốt nhất
- HS THCS có một số đặc điểm cơ bản là: Sự trưởng thành về mặt
sinh học (dậy thì) có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tâm lý của
các em. Sự hình thành ý thức, tự đánh giá bản thân trong các mối quan hệ
với mọi người. Mâu thuẫn, xung đột giữa HS THCS với cha mẹ, thầy cô.
Giao tiếp với bạn bè giúp HS THCS khẳng định mình trong một nhóm bạn
cũng như khẳng định sự trưởng thành về mặt giới tính của mình trong
quan hệ với bạn khác giới. HS THCS gặp nhiều áp lực từ phía gia đình,
cộng đồng, những thay đổi của cơ thể, từ mối quan hệ bạn bè đồng trang

lứa. Điều này dẫn đến nhiều khó khăn tâm lý mà HS THCS gặp phải.
- Nhu cầu TVTL HĐ là quá trình HS mong muốn nhận được sự trợ
giúp chuyên nghiệp, tích cực của NTV HĐ về các lĩnh vực trong môi
trường học đường như: phát triển học tập, phát triển cá nhân – xã hội,
phát triển nghề nghiệp nhằm mục đích giúp cho HS có điều kiện, cơ hội
phát triển tốt nhất.
- NC TVTL HĐ của HS THCS chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó có cả các yếu tố chủ quan và khách quan.
7


Chương 2
TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Trường THCS Giáp Bát nằm ở khu vực quận Hoàng Mai. Địa chỉ
của trường là: Số 35, ngõ Giáp Bát – Phường Giáp Bát – Quận Hoàng Mai
– Thành phố Hà Nội.Trường THCS Phương Liệt nằm ở khu vực quận
Thanh Xuân. Địa chỉ trường: Ngõ 377 Giải Phóng – Phường Phương Liệt –
Thanh Xuân – Hà Nội.
2.1.2. Khách thể nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng tôi chỉ khảo
sát thực trạng NC TVTL HĐ trên 300 HS thuộc cả 4 khối lớp 6, 7, 8 và 9 ở
hai trường.Trong đó:150 HS trường THCS Phương Liệt,150 HS trường
THCS Giáp Bát
2.2. Tổ chức nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
2.3.2. Phương pháp quan sát
2.3.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

2.3.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
2.3.5. Phương pháp phỏng vấn
2.3.6. Xử lý số liệu
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Đề tài NC TVTL HĐ của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội đã
được nghiên cứu dựa trên mục đích, nội dung đề tài và cơ sở lý luận của
vấn đề nghiên cứu đã nêu trong chương 1. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể được lựa chọn và xây dựng phù hợp với điều kiện và thực tiễn ở địa
bàn nghiên cứu là hai trường THCS Giáp Bát và THCS Phương Liệt ở nội
thành thành phố Hà nội.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể đều hướng tới đảm bảo tính
khách quan, và có sự kết hợp, bổ sung cho nhau, tạo điều kiện để thu được
những số liệu có độ tin cậy cao nhất và giúp người nghiên cứu rút ra được
những nhận xét và kết luận xác đáng, góp phần làm sáng tỏ mục đích và
giả thuyết khoa học của đề tài.

8


Chương 3
THỰC TRẠNG NHU CẦU TVTL HĐ CỦA HS THCS
Ở NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý học đường của học sinh
THCS ở nội thành thành phố Hà Nội
3.1.1. Nhận thức của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội về khái
niệm TVTL HĐ
Nhận thức của khách thể nghiên cứu về TVTL HĐ mà chúng tôi
muốn tìm hiểu là nhận định của họ về TVTL HĐ, về mức độ cần thiết của
dịch vụ với bản thân khách thể nghiên cứu.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát nhận thức về TVTL HĐ của HS hai

trường THCS Giáp Bát và THCS Phương Liệt trong tháng 4 và 5 năm
2013. Kết quả khảo sát được thể hiện trong bảng 3.1 sau:
Bảng 3.1. Nhận thức của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội
về khái niệm TVTL HĐ

STT

1

2

3
4

HS THCS HS THCS
Tổng
Giáp Bát Phương Liệt
(n = 300)
(n =150)
(n = 150)
SL
%
SL
%
SL
%

Khái niệm TVHĐ

Là sự trợ giúp tâm lý từ phía thầy

cô, cha mẹ về những khó khăn 17 11.33 27
tâm lý của học sinh.
TVTL HĐ là hoạt động trợ giúp
giữa NTV học đường với học
sinh về các vấn đề trong học tập,
trong quan hệ xã hội và các vấn 120 80.00 109
đề chuyên biệt…giúp học sinh có
điều kiện, cơ hội phát triển tốt
nhất
Là những khó khăn, thắc mắc
trong học tập cần được thầy cô 13 8.67 14
trợ giúp.
Ý khác ..................
0
0
0

9

18.00

44

14.67

72.67 229 76.33

9.33

27


9.00

0

0

0


Kết quả khảo sát trong bảng 3.1 cho thấy: Số lượng HS nhận biết
đúng về TVTL HĐ chiếm đại đa số. Trong đó số lượng HS nhận biết đúng
về TVTL HĐ ở trường THCS Giáp Bát chiếm 80% cao hơn so với HS
trường THCS Phương Liệt (72,67%). So sánh kết quả điều tra về nhận thức
giữa HS các khối lớp về TVTL HĐ cho thấy: Phần lớn HS khối lớp 6 vẫn
chưa hiểu rõ thế nào là TVTL HĐ, 39,71% các em còn hiểu TVTL HĐ ở
mức đơn giản là cần có sự trợ giúp tâm lý từ phía thầy cô giáo và cha mẹ.
Số lượng HS nhận biết đúng về TVTL HĐ chỉ chiếm 36,76% xếp thứ hai.
Khối lớp 7, số lượng HS nhận thức đúng về TVTL HĐ chiếm đại đa số là
76,54%. Lên đến khối lớp 8 và lớp 9 thì nhận thức của HS về TVTL HĐ đã
đúng đắn hơn, thể hiện ở kết quả khảo sát khối lớp 8 là 92,59%, và khối
lớp 9 là 95,71% HS nhận thức đúng về khái niệm TVTL HĐ.
Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy đa số HS hai trường đã nhận
thức được thế nào là TVTL HĐ. Khả năng nhận thức của HS có sự thay
đổi rõ ràng giữa các khối lớp. Càng ở những khối lớp trên thì nhận thức
của HS càng đúng đắn hơn, chính xác hơn về khái niệm TVTL HĐ.
Đa số HS đã nhận thức được thế nào là TVTL HĐ nhưng việc HS tiếp
cận với TVTL HĐ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố chủ
quan. Trong đó nhận thức của mỗi HS về người cần được TVTL là rất
quan trọng. 94,33% HS nhận thức được rằng người cần đi TVTL HĐ

không phải là người “Có vấn đề”, người “Thần kinh”.
Khảo sát ý kiến của HS hai trường về việc TVTL HĐ cho HS hiện
nay có cần thiết hay không. Kết quả khảo sát cho thấy: Đại đa số HS 92,67
% trong tổng số 300 HS hai trường cho rằng TVTL HĐ “Có cần thiết” đối
với HS. Chỉ có 7,33 % HS cho rằng TVTL HĐ là “Không cần thiết”. Như
vậy có thể thấy đại đa số học sinh đều ý thức được tầm quan trọng của
TVTL HĐ đối với bản thân họ.
3.1.2. Mức độ tiếp cận và sử dụng các hình thức dịch vụ TVTL HĐ của
HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội
Trong tổng số 300 HS hai trường, có 58.33% HS đã được biết đến
TVTL HĐ nhưng chưa được tiếp cận. Đây là số HS chiếm tỷ lệ cao nhất.
Nếu so sánh giữa hai trường thì với mức độ này, ở trường THCS Giáp Bát
(53,33%) thấp hơn so với trường THCS Phương Liệt (63.33%). Số HS
“Biết và đã từng được tiếp cận” là 24.33% trên tổng số 300 HS. Trong đó
số HS đã từng được tiếp cận với TVTL HĐ của trường THCS Giáp Bát
(28%) cao hơn so với trường THCS Phương Liệt (20.67%). Số HS hai

10


trường “Biết nhưng không muốn tiếp cận” với TVTL HĐ có tỷ lệ thấp
nhất (5.67%).
Bảng 3.5. Tình hình tiếp cận với TVTL HĐ của HS THCSở nội thành
thành phố Hà Nội theo khối lớp.
Tình hình tiếp cận với
STT TVTL HĐ của HS THCS

Lớp 6
(n = 68)
SL


1
2
3
4

Chưa biết và chưa được
tiếp cận bao giờ
Đã biết nhưng chưa từng
được tiếp cận
Biết và đã từng được tiếp
cận
Biết nhưng không muốn
tiếp cận.

%

Lớp 7
(n = 81)
SL

%

Lớp 8
(n =81)

Lớp 9
(n = 70)

SL


%

SL

%

17 25.00 12 14.81

6

7.42

0

0

35 51.47 43

50 61.72 47 67.14

53.1

12 17.65 19 23.45 21 25.92 21
4

5.88

7


8.64

4

4.94

2

30
2.86

Bảng 3.5 cho thấy: Ở khối lớp 6, tỉ lệ HS đã từng được tiếp cận với
TVTL là 17.65% trong tổng số 68 HS. Số HS chưa được tiếp cận với
TVTL HĐ bao gồm các mức độ (Chưa biết và chưa được tiếp cận bao giờ,
đã biết nhưng chưa được tiếp cận, biết nhưng không muốn tiếp cận) chiếm
82.35% là tương đối cao. Số HS khối lớp 6 được tiếp cận với TVTL HĐ là
thấp. Số HS được tiếp cận nhiều nhất với TVTL HĐ là HS khối lớp 9
(30%). Nhìn chung, HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội “Biết nhưng
không muốn tiếp cận” với TVTL HĐ có tỷ lệ rất nhỏ ở các khối lớp đồng
nghĩa với việc số HS có nhu cầu tiếp cận với TVTL HĐ ở THCS là rất lớn.
Nguồn thông tin giúp HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội biết
đến TVTL HĐ nhiều nhất là “Qua Internet” (25%); xếp thứ 2 là “Qua
phương tiện truyền thông” (21%).
3.1.3. Nhận thức về các hình thức TVTL HĐ của HS THCS ở nội thành
thành phố Hà Nội.
Ba hình thức TVTL HĐ được sử dụng nhiều nhất là “Tham vấn qua
Internet” xếp thứ 1. Xếp thứ 2 là “Tham vấn qua tổng đài điện thoại”, thứ
3 là “Tham vấn qua thư từ, sách báo”.

11



Biểu đồ 3.3. Thực trạng sử dụng các hình thức dịch vụ TVTL HĐ
của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội.
Một vấn đề quan trọng mà chúng ta cần tìm hiểu là sau khi tiếp xúc
với hoạt động trợ giúp TVTL HĐ, vấn đề của HS THCS được giải quyết
như thế nào?
Đa số HS cả hai trường THCS được khảo sát (75,67%) chưa sử dụng
dịch vụ TVTL HĐ, 14.67% số HS cho rằng vấn đề khó khăn tâm lý của
mình đã được giải quyết hoàn toàn sau khi tìm đến dịch vụ TVTL HĐ.
6.33% cho rằng khó khăn tâm lý của mình “Được giải quyết một phần
nào”, còn lại số ít là 3.33% cho rằng vấn đề của mình không được giải
quyết. Kết quả khảo sát thu được cho thấy dịch vụ TVTL HĐ là cần thiết
đối với HS, đa số khó khăn tâm lý HS gặp phải đã được giải quyết sau khi
TVTL.
Có 73 HS trong tổng số 300 HS cả hai trường đã sử dụng dịch vụ
TVTL HĐ, chiếm tỷ lệ 24.33%. Còn lại 227 HS, chiếm 75.67% số HS
chưa được sử dụng dịch vụ TVTL HĐ. Vì chưa được sử dụng nên các em
chưa biết hiệu quả cũng như chưa chắc chắn để đưa ra được cảm nhận của
mình về dịch vụ TVTL HĐ. Trong phiếu hỏi có tới 40% HS khẳng định lý
do trên là “Đúng” và 19.6% khẳng định “Đúng một phần”. Điều đó lý giải
vì sao “Chưa được tham vấn nên chưa biết” xếp ở vị trí thứ nhất. Còn với
những HS đã sử dụng dịch vụ TVTL HĐ thì cảm nhận “Vui vẻ, thoải mái
hơn” được xếp ở vị trí thứ 2, cảm nhận “Giao tiếp tốt hơn” được xếp thứ 3,
“Giảm căng thẳng trí não” được xếp thứ 4, “Suy nghĩ tích cực hơn” được
xếp thứ 5, “Tự tin yêu đời hơn” được xếp thứ 6, cùng được xếp ở vị trí thứ
7 là “Tăng hứng thú học tập hơn” và “Yên tâm bớt chút lo lắng”. Xếp ở 3
vị trí cuối cùng là những cảm nhận mang tính tiêu cực được ít HS lựa chọn
đó là “Yên tâm nhưng vẫn lo lắng” xếp thứ 8, “Chán nản không muốn tiếp
12



tục” được xếp thứ 9 và “Không tin tưởng và bất an” được xếp thứ 10. Vị
trí thứ bậc các cảm nhận này cho thấy hiệu quả của TVTL HĐ đối với HS
mang tính tích cực nhiều hơn, rất ít HS đã được TVTL cảm thấy vấn đề
của mình trở nên khó khăn. Điều này chứng tỏ TVTL HĐ có vai trò hết
sức quan trọng và cần thiết đối với đời sống tinh thần của HS.
Do nhận thấy vấn đề của mình được giải quyết và hiểu lợi ích của việc
TVTL HĐ nên trong số 73 HS đã sử dụng dịch vụ TVTL HĐ, có 49 HS
(chiếm tỷ lệ 67.1%) có nguyện vọng “Rất mong muốn” được TVTL HĐ
khi lại gặp khó khăn. Có 23.3% “Ít mong muốn” được TVTL lại. Số lượng
HS “Không mong muốn” được TVTL nữa chiếm 9.6%. 227 HS chiếm
75.6 % trong số 300 HS chưa được TVTL nên chưa biết có nên TVTL lại
nữa hay không nếu gặp khó khăn.
Số học sinh có ý định tìm đến dịch vụ TVTL HĐ trong tương lai
chiếm tỷ lệ cao nhất là 74.33%. Trong đó 84% HS trường THCS Giáp Bát
có ý định tìm đến TVTL HĐ, cao hơn so với HS trường THCS Phương
Liệt (64.67%).
Việc xác định được mức độ khó khăn tâm lý mà HS THCS nội thành
thành phố Hà Nội gặp phải sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu TVTL
HĐ của HS.
3.1.4. Mức độ khó khăn tâm lý của HS THCS ở nội thành thành phố Hà
Nội gặp phải và mức độ mong muốn được TVTL HĐ
Trong số 300 HS được khảo sát, có 45.33% học sinh “Thường
xuyên” gặp khó khăn trong cuộc sống; 33.67% HS “Đôi khi” gặp khó
khăn và có 21% học sinh “Chưa bao giờ” gặp khó khăn như vậy. Tỷ lệ HS
gặp khó khăn trong cuộc sống chiếm gần 80 % trong tổng số 300 HS của
hai trường cho thấy mức độ gặp khó khăn của các em là tương đối cao, cần
phải được quan tâm và trợ giúp kịp thời.
Để tìm hiểu sâu hơn về HS THCS và thực tế khó khăn tâm lý mà các

em gặp phải, ngoài phiếu hỏi, chúng tôi đã tiến hành quan sát các biểu hiện
khó khăn tâm lý của HS trong giờ học tại một lớp học của trường THCS
Giáp Bát.
Nhìn chung kết quả điều tra cho thấy: Ở trường THCS Giáp Bát, tỷ lệ
HS “Thường xuyên” gặp khó khăn cao hơn so với trường THCS Phương
Liệt. Điều này cũng thể hiện rõ ở các bảng kết quả đã điều tra ở mục 3.1.2,

13


trong đó số lượng HS trường THCS Giáp Bát biết đến và đã từng sử dụng
dịch vụ TVTL HĐ chiếm tỷ lệ % cao hơn so với trường THCS Phương Liệt.
So sánh kết quả điều tra trong HS giữa các khối lớp cho thấy tỷ lệ %
HS khối lớp 6 “Thường xuyên” gặp khó khăn là tương đối thấp (29.41%).
Càng ở các khối lớp trên thì mức độ thường xuyên gặp khó khăn tâm lý
của HS càng nhiều hơn. Kết quả khảo sát cho thấy các em HS lớp 9 thường
xuyên gặp khó khăn chiếm tỷ lệ cao nhất (65.71%).
So sánh kết quả điều tra giữa HS nam và nữ cho thấy ở mức độ
“Thường xuyên” và “Đôi khi”. Tỷ lệ % chênh lệch giữa nam và nữ là khá
lớn. Mức độ gặp khó khăn tâm lý thường xuyên của nữ (66.67 %) cao hơn
nam (44.02 %), với p = 0,000, p < 0,05 chứng tỏ có sự khác biệt rõ rệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai giới. Chúng tôi đã tiến hành quan sát các biểu hiện
khó khăn tâm lý của học sinh trong giờ học tại một lớp học của trường
THCS Phương Liệt.
Nhìn chung, các HS nữ và nam đều có thể gặp khó khăn tâm lý, tuy
nhiên mức độ gặp khó khăn của các em cũng khác nhau. Để giúp đỡ và hỗ
trợ các em, việc đầu tiên cần phải quan tâm đó là mức độ mong muốn
TVTL HĐ của các em là như thế nào, cao hay thấp.
Có đến 62.67 % trên tổng số 300 HS được khảo sát trả lời là “Rất
mong muốn” được TVTL HĐ. Kết quả này cho thấy nhu cầu TVTL HĐ

của HS là rất cao.

Biểu đồ 3.4. Mức độ mong muốn được TVTL HĐ của HS THCS
ở nội thành thành phố Hà Nội

14


Qua biểu đồ 3.4 ta thấy HS trường THCS Giáp Bát (70.67 %) có nhu
cầu TVTL cao hơn so với trường THCS Phương Liệt (54.67 %), với p =
0,000, p < 0,05 chứng tỏ có độ khác biệt là rõ rệt và có ý nghĩa thống kê.
Để tìm hiểu sâu về mức độ mong muốn TVTL HĐ của HS hai
trường. Ngoài kết quả điều tra trong phiếu hỏi, chúng tôi có phỏng vấn HS.
Khi được phỏng vấn, cả 2 HS trường THCS Giáp Bát đều có chung câu trả
lời: “Em rất mong muốn nhận được sự chia sẻ của thầy cô, bạn bè khi gặp
phải khó khăn trong cuộc sống, trong học tập.”. Ngoài ra, các em còn chia
sẻ thêm về trang thông tin cộng đồng dành riêng cho HS trường THCS
Giáp Bát mà các em đang tham gia đó là “Giáp Bát Confessions” do một
nhóm HS của trường tự lập ra. Trang thông tin này được thành lập trên
trang mạng Facebook, đây là một trang mạng xã hội lớn nhất hiện nay, có
thể giúp HS trường THCS Giáp Bát chia sẻ thông tin với nhau và kết nối
với mọi người.
Nữ giới có mức độ “Thường xuyên” gặp khó khăn cao hơn nam
giới, có lẽ vì thế mà kết quả khảo sát mức độ “Rất mong muốn” được
TVTL HĐ của HS nữ hai trường (70.21%) cũng cao hơn HS nam
(55.97%), với p = 0,023, p < 0,05 chứng tỏ có độ khác biệt là rõ rệt và có ý
nghĩa thống kê.
Nhìn chung, mức độ gặp khó khăn tâm lý và mong muốn được
TVTL HĐ của học sinh THCS nội thành thành phố Hà Nội là tương đối
cao. Nhưng ở cả hai vấn đề này các tỷ lệ ở HS trường THCS Giáp Bát đều

cao hơn ở HS trường THCS Phương Liệt.
3.1.5. Nhu cầu của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội về lĩnh vực
TVTL HĐ
HS THCS nội thành thành phố Hà nội có nhu cầu TVTL HĐ chủ yếu
ở những lĩnh vực sau: Vấn đề học tập; Định hướng, nghề nghiệp trong
tương lai; Quan hệ với cha mẹ, người thân; Tình yêu tuổi học trò; Mối
quan hệ với bạn bè, sự phát triển của bản thân. Việc phỏng vấn giáo viên
và HS cho thấy đây cũng chính là những khó khăn tâm lý mà HS thường
xuyên gặp phải nhất.
Những vấn đề HS ít gặp khó khăn là: Tình bạn khác giới và mối
quan hệ với thầy cô giáo. Cụ thể nhu cầu về lĩnh vực TVTL HĐ của HS hai

15


trường THCS được xếp theo thứ bậc sau: Ở khối lớp 6, “Phương pháp học
tập” xếp thứ 1 và “Năng lực học tập” xếp thứ 2, “Nội dung học tập” xếp
thứ 3 thì lên đến khối lớp 7, lớp 8 “Nội dung học tập” lại xếp thứ 1 và
“Phương pháp học tập” xếp thứ 2. Lên đến lớp 9, “Nội dung học tập” lại
vẫn xếp thứ 1, riêng ở vị trí thứ 2, ngoài phương pháp học tập ra thì còn
thêm một lĩnh vực rất quan trọng và cần thiết ở giai đoạn này là “Định
hướng nghề nghiệp tương lai”.
So sánh kết quả điều tra giữa HS nam và HS nữ về lĩnh vực TVTL
HĐ cho thấy, lĩnh vực mà cả các em nam và nữ đều mong muốn được
tham vấn, chiếm tỷ lệ cao nhất là “Phương pháp học tập” xếp ở vị trí thứ
1. Cùng xếp ở vị trí thứ 2 là “Nội dung học tập” và “Năng lực học tập”.
Tuy nhiên, sang lĩnh vực được xếp ở vị trí thứ 3 đã có sự khác nhau giữa
nam và nữ. Lĩnh vực “Sự phát triển của bản thân” được nữ giới chọn lựa
xếp ở vị trí thứ 3, còn ở nam giới lĩnh vực này xếp ở vị trí thứ 5. Hai vị trí cuối
cùng ít được các em quan tâm là “Mối quan hệ với cha mẹ và thầy cô giáo”.

3.1.6. Nhu cầu của HS THCS ở nội thành thành phố Hà Nội về hình
thức TVTL HĐ
Hình thức tham vấn được các em lựa chọn nhiều nhất là “Tham vấn
trực tiếp tại phòng tham vấn của trường học” (30.33%), “Tham vấn qua
Internet” (23.33%); tiếp đến là “Tham vấn qua tổng đài điện thoại”
(19.33%). Các hình thức còn lại như: Tham vấn qua thư từ, sách báo (16%)
và tham vấn trực tiếp tại trung tâm tham vấn tâm lý (11%) ít được học sinh
lựa chọn hơn. Kết quả này cho thấy, các em lựa chọn cả hai hình thức tham
vấn trực tiếp và gián tiếp, trong đó hình thức tham vấn trực tiếp tại phòng
tham vấn trường học chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó đến hình thức tham vấn
gián tiếp qua Internet chiếm tỷ lệ cao thứ hai.
Nhằm tìm hiểu thêm về nhu cầu TVTL trực tiếp tại trường học,
chúng tôi đưa ra câu hỏi “Nếu trong tương lai trường bạn mở phòng TVTL
HĐ cho HS bạn thấy thế nào?”. Kết quả khảo sát thu được cho thấy đa số
học sinh 75.67% cho rằng “Rất cần thiết mở” phòng tham vấn trong
trường học, 24.33% HS cho rằng “Mở cũng được, không mở cũng được”,
và 0% học sinh cho rằng “Chưa cần thiết” và “Không cần thiết mở”. Như
vậy, phần lớn các em học sinh đều nhận thức được rằng hoạt động tham

16


vấn đối với các em là “cần thiết” và “nên mở” phòng tham vấn trong
trường học.
Tìm hiểu ý kiến của học sinh về “Người làm công tác TVHĐ trong
trường học”: Có đến 81% HS cho rằng người thực hiện công tác trợ giúp
tâm lý học đường nên là những chuyên gia TVTL HĐ. 19 % HS còn lại
cho rằng người làm công tác TVTL HĐ có thể là thầy cô, cán bộ phụ trách
trong trường.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu TVTL HĐ của HS THCS ở nội

thành TP Hà Nội
3.2.1. Các yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan đầu tiên ảnh hưởng đến nhu cầu TVTL HĐ của
HS khối lớp 6 là “Chưa có điều kiện được tiếp cận với dịch vụ TVTL HĐ”.
HS khối lớp 6 quan tâm và xếp ở vị trí thứ 2 là yếu tố “Mâu thuẫn trong
mối quan hệ bạn bè, tập thể lớp”. Yếu tố được HS khối lớp 6 xếp ở vị trí
thứ 4 là “Áp lực học tập” và “Khó khăn trong mối quan hệ với bạn bè khác
giới”. Lên đến các lớp trên thì yếu tố khách quan ảnh hưởng nhiều nhất
đến nhu cầu TVTL HĐ của cả 3 khối 7 – 8 – 9 đều là “Áp lực học tập, thi
cử, nội dung chương trình học”. Với khối lớp 7-8, cùng được xếp ở vị trí
thứ 2 là yếu tố “Sự áp đặt kỳ vọng của cha mẹ, mâu thuẫn với cha mẹ”, với
khối lớp 7, yếu tố được xếp ở vị trí thứ 3 là “Mâu thuẫn trong mối quan hệ
bạn bè, tập thể lớp”, với khối lớp 8 là “Áp lực về việc lựa chọn nghề
nghiệp trong tương lai”. Trong khi ở khối lớp 9 thì yếu tố “Lựa chọn nghề
nghiệp” lại được xếp ở vị trí thứ 2, và “Sự áp đặt kỳ vọng của cha mẹ, mâu
thuẫn với cha mẹ” xếp ở vị trí thứ 3. Có thể thấy ảnh hưởng của yếu tố
khách quan thay đổi tùy theo hoạt động và yêu cầu ở các khối lớp.
Xét theo góc độ giới thì các yếu tố này có sự chênh lệch không đáng
kể. Nữ giới quan tâm và lựa chọn các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến
bản thân theo thứ tự sau: thứ 1 là yếu tố “Áp lực học tập”, thứ 2 là “Áp lực
về sự kỳ vọng của cha mẹ”, thứ 3 là “Khó khăn trong việc tu dưỡng đạo
đức, ứng xử phù hợp”, thứ 4 là “Khó khăn trong mối quan hệ bạn bè, tình
yêu tuổi mới lớn”. Nam giới cũng chọn lựa 2 yếu tố đầu tiên như nữ giới,
tuy nhiên đến yếu tố thứ 3 thì có sự thay đổi. HS nam chọn yếu tố thứ 3 là

17


“Khó khăn trong mối quan hệ bạn bè, tình yêu tuổi mới lớn”, thứ 4 là “Áp
lực từ việc chọn nghề nghiệp”.

Nhìn chung tất cả các yếu tố khách quan đều có ảnh hưởng đến nhu
cầu TVTL HĐ của HS THCS nội thành thành phố Hà Nội, nhưng mức ảnh
hưởng khác nhau là tùy thuộc vào vấn đề của mỗi cá nhân, giới tính, lứa tuổi.
3.2.2. Các yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến nhu cầu TVTL HĐ được HS xếp thứ
1 là yếu tố “Sợ bị tiết lộ những bí mật riêng tư”. Yếu tố chủ quan được xếp
ở vị trí thứ 2 là “Không tin tưởng bất kỳ ai”. Yếu tố chủ quan được xếp ở
vị trí thứ 3 là “Luôn mong muốn được chia sẻ và giúp đỡ những khó khăn
tâm lý của bản thân”; thứ 4 “Không muốn chấp nhận vấn đề của bản
thân; thứ 5 “Cho rằng mình có thể tự giải quyết được các vấn đề của bản
thân”.
Với điểm trung bình dưới 2, được xếp ở vị trí thấp gồm các yếu tố
sau: Vị trí thứ 7 là “Ngại đến trung tâm tham vấn”, thứ 8 là “Sợ không đủ
tiền để trả”, thứ 9 là “Chưa hiểu gì về TVTL HĐ”, thứ 10 là “Không tin
tưởng vào hiệu quả của dịch vụ TVTL HĐ”, và 11 là “Yếu tố khác”. Việc
xếp yếu tố “Không tin tưởng vào hiệu quả của dịch vụ TVTL HĐ” vào vị
trí cuối cùng (không kể “yếu tố khác”) chứng tỏ hầu hết các em đều tin ở
hiệu quả của dịch TVTL HĐ.
Xét theo góc độ giới và lứa tuổi HS thì thứ bậc các yếu tố chủ quan
ảnh hưởng đến nhu cầu TVTL HĐ của HS không có sự chênh lệch nhiều. 4
yếu tố chủ quan ảnh hưởng nhiều nhất đến nhu cầu TVTL HĐ của HS
THCS nội thành thành phố Hà Nội là: “Sợ tiết lộ bí mật của bản thân”,
“Không muốn chấp nhận vấn đề của bản thân”, “Không tin tưởng ai”,
“Cho rằng mình có thể tự giải quyết được vấn đề của mình”.
Khi được hỏi làm thế nào để thỏa mãn nhu cầu TVTL HĐ của HS
một cách tốt nhất. Ý kiến nên tổ chức hoạt động TVTL HĐ vẫn chiếm tỷ lệ
cao nhất cho thấy HS hai trường THCS nội thành thành phố Hà Nội rất ủng
hộ việc mở phòng TVTL HĐ và tổ chức các hoạt động TVTL HĐ tại
trường học.


18


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Có thể rút ra một số kết luận từ kết quả nghiên cứu nhu cầu TVTL
HĐ của 300 HS trường THCS nội thành thành phố Hà Nội như sau:
- Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy đa số HS hai trường đã nhận
thức được thế nào là TVTL HĐ. Số lượng HS nhận biết đúng về TVTL HĐ
chiếm đại đa số (76.33 %). Trong đó số lượng HS nhận biết đúng về TVTL
HĐ ở trường THCS Giáp Bát chiếm 80% trên tổng số 150 HS, HS trường
THCS Phương Liệt chiếm tỷ lệ thấp hơn so với HS THCS Giáp Bát là
72,67% trên tổng số 150 HS. Kết quả khảo sát này cho thấy, khả năng nhận
thức về TVTL HĐ của HS trường THCS Giáp Bát tốt hơn so với HS
trường THCS Phương Liệt. Nhận thức về vấn đề TVTL HĐ của HS có sự
thay đổi rõ ràng giữa các khối lớp. Càng ở những khối lớp trên thì nhận
thức của HS càng rõ ràng hơn, có sự nhận thức rộng và khái quát hơn về
vấn đề TVTL HĐ.
- Số lượng HS đã biết đến và đã từng được tiếp cận với TVTL HĐ ở
cả hai trường THCS chỉ chiếm 24,33%. Số liệu này cho thấy việc đáp ứng
nhu cầu TVTL HĐ của HS hai trường còn khá hạn chế, đa số các em chưa
được tiếp xúc với hoạt động TVTL HĐ. Trong đó, tỷ lệ HS đã biết và từng
được tiếp cận với TVTL HĐ của trường THCS Giáp Bát (28%) cao hơn so
với HS trường THCS Phương Liệt (20.67%) với p = 0,002, p < 0,05 chứng
tỏ sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Nguồn thông tin chủ yếu giúp HS
biết đến TVTL HĐ là Internet và các phương tiện truyền thông.
- Phần lớn trong số các HS đã sử dụng dịch vụ TVTL HĐ đều có
cảm nhận tích cực sau khi sử dụng dịch vụ TVTL HĐ. Mức độ thường
xuyên gặp khó khăn tâm lý và mong muốn được TVTL HĐ của HS tương
đối cao. Kết quả này chứng tỏ TVTL HĐ có vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống tâm lý HS THCS. Tuy nhiên việc tiếp cận với các dịch vụ

TVTL HĐ cũng như việc đáp ứng dịch vụ TVTL HĐ cho HS THCS nội
thành thành phố Hà Nội còn hạn chế.
- HS THCS nội thành thành phố Hà Nội có nhu cầu tham vấn phong
phú, đa dạng với các lĩnh vực khác nhau như: Các vấn đề về học tập, thi
19


cử; Quan hệ với cha mẹ, anh chị em; Sự phát triển của bản thân; Định
hướng nghề nghiệp trong tương lai;... Đồng thời các em cũng có nhu cầu
cao được tham vấn và chủ yếu qua 2 hình thức: Tham vấn trực tiếp tại
phòng TVTL HĐ của trường học, tham vấn gián tiếp qua Internet. Có
75.67 % HS mong muốn mở phòng TVTL HĐ trong trường học của mình.
- Có sự chênh lệch về mức độ tiếp cận, sử dụng dịch vụ TVTL HĐ,
mức độ khó khăn tâm lý, nhu cầu về lĩnh vực tham vấn, hình thức TVTL
HĐ giữa HS trường THCS Giáp Bát và HS trường THCS Phương Liệt.
Nhìn chung mức độ nhu cầu của HS trường THCS Giáp Bát cao hơn so
với HS trường THCS Phương Liệt. Sự chênh lệch mức độ theo các khối
lớp, giới tính là không cao.
- Có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến nhu cầu
TVTL HĐ của HS THCS nội thành thành phố Hà Nội. Trong đó yếu tố chủ
quan ảnh hưởng nhất đó là nhận thức của bản thân về vấn đề khó khăn
mình gặp phải (sợ bị tiết lộ những bí mật riêng tư, không tin tưởng bất kỳ
ai, không chấp nhận vấn đề bản thân…). Yếu tố khách quan có ảnh hưởng
nhiều nhất đến nhu cầu TVTL HĐ của HS là những áp lực học tập, sự kỳ
vọng của cha mẹ, về sự lựa chọn nghề và mâu thuẫn trong mối quan hệ
bạn bè…

20



KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ việc nghiên cứu lý thuyết về nhu cầu tham vấn tâm lý của HS
THCS và những kết quả điều tra thực tế thu được, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
- TVTL HĐ và nhu cầu TVTL HĐ chịu sự quy định của các yếu tố
xã hội và tâm lý cá nhân.
- Đa số HS trường THCS nội thành thành phố Hà Nội có nhu cầu
TVTL HĐ ở mức tương đối cao. Nhìn chung, mức độ nhu cầu TVTL HĐ
của HS trường THCS Giáp Bát cao hơn so với trường HS trường THCS
Phương Liệt.
- Nhu cầu TVTL HĐ có sự chênh lệch tùy vào từng giai đoạn, lứa
tuổi, khối lớp và yếu tố giới tính. Ở các khối lớp trên nhu cầu TVTL HĐ đa
dạng và phức tạp hơn, nhu cầu TVTL HĐ của nữ giới cao hơn so với nam
giới. Tuy nhiên tỷ lệ chênh lệch là không cao.
- Trong số 300 khách thể được khảo sát, có 73 khách thể đã từng tiếp
cận và sử dụng dịch vụ TVTL HĐ. Phần lớn trong số HS đã được tiếp cận
và sử dụng có cảm nhận tích cực sau khi sử dụng dịch vụ. Đại đa số HS
đều mong muốn có phòng TVTL HĐ trong trường học của mình và nhận
được sự trợ giúp chuyên nghiệp từ chuyên gia TVTL HĐ.
- Mức độ thường xuyên gặp khó khăn tâm lý và mức độ mong muốn
được TVTL HĐ của HS THCS nội thành thành phố Hà Nội là tương đối
cao. HS có nhu cầu về hình thức và lĩnh vực TVTL HĐ khá phong phú, đa
dạng với các lĩnh vực khác nhau như: Các vấn đề về học tập, thi cử; Quan
hệ với cha mẹ, anh chị em; Sự phát triển của bản thân; Lý tưởng, nghề
nghiệp trong tương lai;... Hình thức trợ giúp tâm lý học đường mà các em
mong muốn nhiều nhất đó là TVTL HĐ trực tiếp tại phòng TVTL HĐ
của trường học và TVTL HĐ gián tiếp qua Internet, các phương tiện
truyền thông.
- Thực tế điều tra cho thấy đa số HS THCS nội thành thành phố Hà

Nội chưa được tiếp cận với dịch vụ TVTL HĐ với nhiều lý do khác nhau.
Trong đó lý do chủ quan ảnh hưởng nhất là nhận thức của bản thân về vấn
21


đề khó khăn mình gặp phải (sợ bị tiết lộ những bí mật riêng tư, không tin
tưởng bất kỳ ai, không chấp nhận vấn đề bản thân…). Lý do khách quan có
ảnh hưởng nhiều nhất đến nhu cầu TVTL HĐ của HS là những áp lực học
tập, sự kỳ vọng của cha mẹ, về sự lựa chọn nghề và mâu thuẫn trong mối
quan hệ bạn bè…Như vậy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức về sự cần thiết
và nhu cầu tham vấn cao, phong phú, đa dạng của HS THCS nội thành
thành phố Hà Nội với thực tế các em tiếp cận dịch vụ này còn ít.
2. Khuyến nghị
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất một số
ý kiến nhằm phát triển nhu cầu TVTL HĐ cho HS THCS nội thành thành
phố Hà Nội như sau:
- Đối với học sinh: Những HS đang có khó khăn tâm lý nên nỗ lực
tìm cách vượt qua hoặc tìm kiếm dịch vụ trợ giúp phù hợp để tránh những
tác động tiêu cực do khó khăn tâm lý gây ra. HS nên chuẩn bị tâm thế
trước mọi hoàn cảnh, sẵn sang đón nhận thử thách, khó khăn trong cuộc
sống, học tập và nỗ lực tìm cách khắc phục chúng. Khi cần trợ giúp nên
tìm đến những dịch vụ hay những loại hình trợ giúp tâm lý chuyên nghiệp
để có được sự trợ giúp tốt nhất cho bản thân.
- Về phía giáo viên: Nên quan tâm, tìm cách trợ giúp cho nhóm học
sinh “thường xuyên” gặp phải những khó khăn tâm lý, đồng thời cũng nên
tìm giải pháp cho những HS “thỉnh thoảng” gặp phải những khó khăn tâm
lý. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý học sinh mình đang giảng dạy, trên cơ sở
đó lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phù hợp. Gần gũi HS hơn
nữa, không chỉ thông qua giao lưu trong tiết học mà nên chủ động trò
chuyện, quan tâm tới HS để xóa đi khoảng cách giữa người học và người

dạy; để thấu hiểu HS, biết được nhu cầu và nguyện vọng của HS; tránh gây
áp lực không cần thiết lên HS. Tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của HS,
để hỗ trợ HS phòng ngừa, phát hiện sớm những khó khăn tâm lý và trợ
giúp kịp thời.
- Về phía nhà trường:
+ Nhà trường cần thấy được những khó khăn tâm lý mà HS gặp phải
sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động học tập, rèn luyện và phát triển nhân
cách toàn diện của các em; Qua đó thấy được vai trò quan trọng của việc

22


TVTL HĐ đối với HS trong trường. Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với
văn phòng Đoàn trường tổ chức các buổi nói chuyện, tiếp xúc và trao đổi
với HS về TVTL HĐ để các em được tiếp cận và hiểu rõ hơn về ý nghĩa và
tầm quan trọng thiết thực của TVTL HĐ đối với bản thân các em.
+ Hoạt động tham vấn đối với học sinh trường THCS nội thành
thành phố Hà Nội được các em nhận thức là cần thiết. Đồng thời các em có
nhu cầu tham vấn thông qua việc mở phòng tham vấn tâm lý tại nhà
trường. Vì vậy, nhà trường nên tổ chức phòng tham vấn để trợ giúp học
sinh, nhằm thỏa mãn nhu cầu tham vấn của các em.
+ Nội dung tham vấn nên tập trung vào các vấn đề được nhiều học
sinh lựa chọn như: Áp lực học tập, thi cử; Quan hệ với bạn bè, cha mẹ, anh
chị em; Tình yêu tuổi học trò; Lý tưởng nghề nghiệp. Đây là những vấn đề
mà các em có nhu cầu tham vấn cao.
+ Học sinh THCS nội thành thành phố Hà Nội đều có nhu cầu tham
vấn theo nhiều hình thức nên hoạt động của phòng tham vấn trong trường
học nên được thực hiện theo các hình thức sinh động. Tuy nhiên, cần chú ý
đến hình thức tham vấn trực tiếp (với cá nhân hoặc nhóm) và các hình thức
khác như: tham vấn qua điện thoại, qua Internet – website của trường.

Đồng thời cần tuyên truyền rộng rãi để mọi học sinh được biết, được tham
gia tham vấn. Việc tổ chức hoạt động tham vấn cần có sự phối hợp giữa
các trung tâm tham vấn chuyên nghiệp với hội đồng giáo dục nhà trường.
Cán bộ tham vấn chủ yếu phải là các nhà tham vấn chuyên nghiệp, bên
cạnh đó cũng cần kết hợp với vai trò của đội ngũ giáo viên cũng như các
cán bộ phụ trách Đoàn, là những người có uy tín và được các em tin tưởng,
chia sẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

23



×