Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Vai trò của làng xã Việt Nam trong vấn đề giữ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.8 KB, 27 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:

VAI TRÒ CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM
TRONG VẤN ĐỂ GIỮ NƯỚC
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG:
I. Lí do chọn đề tài:
Từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên (cách đây khoảng 3500 đến 4000 năm) cho đến
nay, trên đất nước ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là quá
trình hình thành công xã nông thôn, hay nói cách khác, đây là quá trình hình thành làng Việt.
Mỗi làng bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất
định. Ở đây, bên cạnh quan hệ địa lý - láng giềng, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn và
củng cố tạo thành kết cấu vừa làng vừa họ, hay kết cấu làng họ rất đặc trưng ở Việt Nam.
Làng xã Việt như thế, là một loại hình của công xã Phương Đông, trong đó nông nghiệp gắn
liền với thủ công nghiệp, làng xóm gắn liền với ruộng đất, nên tự nó mang tính ổn định cao.
Tính ổn định cao này đã hoá thân thành tinh thần công xã, thành truyền thống xóm làng, nên
nó trở thành nguồn sức mạnh tiềm tàng trong cuộc đọ sức nghìn năm với các mưu đồ nô dịch
và đồng hoá của phương Bắc, chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Có thể nói, làng xã Việt Nam là một trong những nhân tố góp phần quan trọng trong
quá trình giữ nước của dân tộc ta. Đã có khá nhiều các nghiên cứu trước đây về làng xã Việt
Nam nhưng đa số chỉ tập trung vào quá trình hình thành và phát triển, các loại hình, đặc
trưng, v.v... nhưng thiếu sót đi những nghiên cứu, phân tích chuyên sâu mang tính học thuật,
khoa học về vai trò thật sự của làng xã Việt Nam trong quá trình giữ nước. Xuất phát từ lí do
đó, chúng tôi xin thực hiện đề tài nghiên cứu "Vai trò của làng xã Việt Nam trong vấn đề
giữ nước".

1


II. Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này, chúng tôi hi vọng rằng sẽ góp phần lí giải những yếu tố quan trọng cấu
thành nên vai trò của làng xã trong vấn đề giữ nước, cung cấp những nguồn thông tin, tài liệu


chính xác nhất nhằm nâng cao hiểu biết, đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của mọi người trong
nghiên cứu, học thuật và củng cố nền tảng kiến thức, tài liệu hiện có về làng xã Việt Nam.
III/ Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
1. Khách thể nghiên cứu:
Những đặc trưng của làng xã Việt Nam.
Quá trình giữ nước của làng xã Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của làng xã Việt Nam trong vấn đề giữ nước.
IV. Giả thuyết khoa học:
Đa số chúng ta phần nào đều nhận thức được vai trò của làng xã đối với vấn đề giữ
nước trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta, phần nào lí giải
những yếu tố góp phần hình thành nên vai trò đó, nhằm vận dụng, giải quyết những vấn đề
một cách có hiệu quả trong xã hội Việt Nam hiện đại. Nhưng đôi khi, việc vận dụng ấy chưa
thật sự đúng đắn và chưa mang lại kết quả thiết thực như mong muốn vì ta chưa nắm vững
được những yếu tố quan trọng nhất, chính xác nhất.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài, bao gồm các khái niệm cơ bản, lý luận về làng xã
Việt Nam và cơ sở nghiên cứu của đề tài này.
Nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của làng xã việt Nam. Trên cơ sở đó nhận xét, đánh
giá những mặt ưu, khuyết điểm và tập trung khai thác những đặc trưng chính hình thành nên
vai trò của làng xã Việt Nam.
Nghiên cứu vai trò của làng xã Việt Nam trong suốt quá trình giữ nước của dân tộc ta.
2


VI. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Trên vùng lãnh thổ Việt Nam, trọng tâm là khu vực Bắc Bộ.
Thời gian: Từ thời kì văn hóa Phùng Nguyên (cách đây từ 3500 đến 4000 năm) đến
thời kì kháng chiến chống Pháp năm 1945.
VII. Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện được những nội dung trên, với những tư liệu đã thu thập được, phương
pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng cho đề tài này là:
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu liên quan, trên cơ sở đó
phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa thông tin thu được để làm sáng tỏ cơ sở lý
luận, các khái niệm, công cụ của đề tài.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tập hợp những ý kiến từ các chuyên gia trong
các lĩnh vực có liên quan nhằm hoàn thiện những nội dung trong đề tài nghiên cứu.
VIII. Đóng góp của đề tài:
Đề tài này có ý nghĩa nhất định trong việc khẳng định tầm vai trò quan trọng của làng
xã Việt Nam trong vấn đề giữ nước. Từ đó góp phần lý giải những nguyên nhân chính góp
phần giữ vững được đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch
sử đấu tranh chống ngoại xâm.
Ngoài ra, đề tài này còn là nguồn tài liệu quan trọng trong việc củng cố nguồn thông
tin, kiến thức cho các đề tài nghiên cứu với quy mô rộng hơn và cụ thể hơn.

3


IX. Cấu trúc của đề tài:
Gồm 5 phần:
I. KHÁI NIỆM:
1. Làng là gì?
2. Xã là gì?
3. Làng xã là gì?
II. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM:
1. Tính cộng đồng.
1.1 Ưu điểm.
1.2 Hạn chế.
2. Tính tự trị.
2.1 Ưu điểm.

2.2 Hạn chế.
III. VAI TRÒ CỦA LÀNG XÃ TRONG VẤN ĐỀ GIỮ NƯỚC:
1. Thời kì Bắc thuộc.
2. Thời phong kiến độc lập.
3. Thời Pháp thuộc.
IV. HẠN CHẾ CỦA LÀNG XÃ TRONG VẤN ĐỀ GIỮ NƯỚC:
V. TỔNG KẾT:
Tài liệu tham khảo.
Mục lục.

4


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:

VAI TRÒ CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM
TRONG VẤN ĐỂ GIỮ NƯỚC
NỘI DUNG:
I. KHÁI NIỆM:
1. Làng là gì?
Làng Việt bắt đầu xuất hiện cùng với quá trình tan rã của công xã thị tộc hình thành
công xã nông thôn, có lịch sử khoảng từ 3500 đến 4000 năm.
Làng là một khái niệm hết sức quen thuộc, mọi người đều dùng nhưng khi cần phải
định nghĩa về “làng” thì lại có những quan niệm không giống nhau. Có người coi làng như
một cộng đồng, có người coi làng như một đơn vị cư trú trên một địa vực nhất định. Nhiều
chuyên gia phương Tây đã nêu lên 3 đặc trưng cơ bản của làng cổ truyền:
+ Về mặt chính trị là sự tự quản;
+ Về mặt kinh tế là tự cấp tự túc và về mặt xã hội là thuần nhất, cộng đồng. Và
như thế có thể đồng nhất khái niệm làng cổ truyền với khái niệm “công xã nông thôn” 1.
“Làng” là một từ thuần Việt, được sử dụng rất phổ biến trong dân gian, nhưng không

thấy ghi chép trong thư tịch cổ hay trong địa bạ, hương ước cổ. Làng Việt được tổ chức rất
chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách, nhiều nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều
loại hình, nhiều cách tập hợp người khác nhau, khác nhau nhưng lại hoà đồng trong phạm vi
làng. Về cơ bản, cơ cấu làng Việt (truyền thống và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình
thức tổ chức (liên kết, tập hợp người) sau đây:
+ Tổ chức làng theo huyết thống (gia đình), dòng họ: Ngoài các gia đình nhỏ,
gia đình hạt nhân, dòng họ có vị trí và vai trò quan trọng trong làng Việt, là chỗ dựa vật chất,
và chủ yếu là tinh thần cho gia đình; có tác dụng trong định canh và xây dựng làng mới, như
là trung tâm của sự cộng cảm trong các gia đình đồng huyết… Có làng gồm nhiều dòng họ,
có làng chỉ một dòng họ và khi ấy làng và dòng họ (gia tộc) đồng nhất với nhau. Điều đáng
1 GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, "Quan hệ Nhà nước - làng xã: Quá trình lịch sử và bài học kinh nghiệm",
đường link: />
5


lưu ý là mức độ liên kết huyết thống trong phạm vi làng Việt là hết sức rạch ròi, chi li với
những tên gọi cụ thể (cố - cụ - ông - cha - bản thân - con - cháu - chắt - chút…).
+ Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú): Làng phân thành nhiều xóm, xóm phân
thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều nhà… thành những khối dài dọc đường cái, bờ
sông, chân đê, những khối chặt kiểu ô bàn cờ, theo hình vành khăn từ chân đồi lên lưng
chừng đồi và phân bố lẻ tẻ, tản mát, xen kẽ với ruộng đồng… Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc
sống tương đối riêng. Mỗi làng có một địa vực nhất định coi như không gian sinh tồn gồm
khu cư trú, ruộng đất, đồi gò, núi sông, ao đầm... do cộng đồng làng hay các thành viên của
cộng đồng làng sử dụng.
+ Tổ chức làng theo nghề nghiệp, theo sở thích và lòng tự nguyện (Phe - Hội,
Phường nghề, ...): Mỗi làng có thể có nhiều Phe (một tổ chức tự quản dưới nhiều hình thức
câu lạc bộ): Phe tư văn quan trọng hơn; nhiều Hội: hiếu hỷ, mua bán, luyện võ, tập chèo, đấu
vật… các Phường nghề: mộc, nề, sơn, thêu, chèo, rối…
+ Tổ chức theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất mờ nhạt.
Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới, phụ nữ không

được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh, ngồi chiếu giữa làng, được
nâng dần địa vị, được lên lão… Nói chung, giáp gắn chặt với làng.
+ Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính: Làng có khi gọi là xã (có xã gồm nhiều
làng), có khi gọi là thôn (khi nhất xã nhất thôn). Tiêu chuẩn để phân định rõ nhất là chính cư
và ngụ cư (nội tịch và ngoại tịch) một cách rất rành mạch, nhiều khi cực đoan. Tuy nhiên, có
một điều mở là dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có điền có điền sản và sống (cư
trú) ở làng 3 đời trở lên. Dân cư trong làng được phân thành nhiều hạng, cơ bản là các hạng:
chức sắc (đỗ đạt hoặc có phâm hàm vua ban); chức dịch (có chức vụ trong bộ máy hành
chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh, trẻ con (trong các giáp)…
Về mặt văn hoá mỗi làng thường có đình làng thờ thành hoàng làng, có chùa, đền,
miếu, am, quán, có cơ sở sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng và lễ hội chung (riêng các làng theo
Thiên chúa giáo các sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng tập trung ở nhà thờ).
Về mặt quản lý thời kỳ đầu có thể chỉ là hội đồng già làng, chủ yếu tổ chức, quản lý
theo tục, sau đó đến Hội đồng kỳ mục rồi Hội đồng tộc biểu..., quản lý thông qua hương ước.
6


Từ những luận điểm tra, ta có thể định nghĩa "làng" như sau: làng (kẻ, thôn…) là một
thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt trên cơ sở địa vực, địa bàn
cư trú; là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng
trọt là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân,
ở đó họ sống, làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hoá với thiên nhiên, xã
hội và bản thân họ .
=> Tuy là một bước phát triển mới của công xã nông thôn nhưng làng đã có sự thay
đổi rõ rệt, đặc biệt là trong các cơ cấu tổ chức làng (theo huyết thống, địa vực,...), về văn
hóa và mặt quản lý. Có thể nói, mô hình của một xã hội tự quản trong phạm vi nhỏ đã được
hình thành, góp phần xây dựng những nét độc đáo, khác biệt, thế mạnh giữa những làng
khác nhau nhau, tạo tiền đề quan trọng cho vai trò giữ nước của dân tộc ta trong suốt chiều
dài lịch sử dân tộc từ thời Bắc thuộc.
2. Xã là gì?

Là đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước, lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào
đầu thế kỷ thứ VII dưới thời thống trị của nhà Đường. Tuy nhiên phải đến khi họ Khúc giành
được quyền tự chủ vào đầu thế kỷ thứ X, ý tưởng biến làng cổ truyền thành đơn vị hành
chính cấp cơ sở của Nhà nước trước đây mới được khẳng định và chính thống hoá.
Mặc dù vậy, vai trò của cấp xã thời kỳ này cũng chưa thật rõ. Thời kỳ đầu một xã chỉ
có một làng, nhưng dần dần trong quá trình phát triển, một xã có khi bao gồm vài ba làng,
thậm chí nhiều hơn nữa. Khi ấy sự khác nhau giữa xã và làng còn ở cả quy mô nữa.
Xuất hiện đồng thời với "xã" là "thôn", chính vì thế ta thường lầm lẫn giữa 2 khái
niệm này. Thôn cũng xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ X. Cấp thôn ra đời chính là do nhu
cầu quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Thôn là đầu mối giáp nối, gắn kết và điều hoà
hai hệ thống quản lý hành chính và tự trị, luật pháp và tục lệ, chính trị và xã hội.
Cả hai khái niệm “xã” và “thôn” đều có gốc từ Trung Hoa. Trung Hoa thời cổ đại
cũng đã từng lấy xã làm đơn vị hành chính cơ sở. Theo sách Từ hải thì thời cổ xưa ở Trung
Hoa cứ 25 nhà sinh sống trên một vùng đất vuông 6 dặm gọi là “xã”. Tuy nhiên cách tổ chức
này không được duy trì lâu dài. Sau này khi Trung Hoa mở rộng đất đai ra các vùng xung
7


quanh, họ lấy “thôn” làm đơn vị hành chính cấp cơ sở ở khu vực nội địa, còn “xã” là đơn vị
hành chính cấp cơ sở tương đương ở khu vực ngoại vi phụ thuộc. Như thế về hình thức mà
xét thì đã có cấp xã tức là không có cấp thôn và ngược lại 1.
=> Xã với thôn xuất hiện đồng thời, song hành và hỗ trợ cho nhau trong quản lý
nông thôn, tuy nhiên nội dung và mức độ có khác nhau. Xã là quản lý hành chính, bằng luật
pháp của Nhà nước; còn thôn là nửa hành chính, nửa tự trị, nó có chức năng tham gia giải
quyết các công việc hành chính dưới luật và nhất là phải xử lý các vụ việc xẩy ra mang tính
nội bộ của cộng đồng làng. Thôn có vai trò tổ chức và quản lý, tham gia giải quyết các công
việc hành chính sự vụ dưới luật trên quy mô làng. Trưởng thôn vừa chịu sự lãnh đạo của xã
trưởng vừa phải thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng làng (ở đây là Hội đồng kỳ mục) giao
phó. Dù xuất hiện muộn hơn làng nhưng xã đã trở thành một đơn vị tổ chức xã hội lớn hơn,
quy củ hơn và có sự phân chia quyền lực quản lý giữa các cấp theo hàng dọc. Tuy vậy, sự

gắn kết giữa các làng cùng một xã với nhau diễn ra không rõ nét và mạnh mẽ, khiến xã chỉ
mang tính hành chính nhiều hơn.
3. Làng xã:
Là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá cộng
đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở (ở đây ta chỉ nói về về trường hợp thời kỳ đầu một xã chỉ
có một làng). Cụm từ “làng xã” hết sức thông dụng, thậm chí nhiều người tưởng rằng làng
với xã chỉ là một và có cùng nguồn gốc rất lâu đời. Thật ra khái niệm “làng xã” chỉ xuất
hiện sớm nhất là từ thế kỷ VII, nhưng phải đến thế kỷ X, sau khi cấp xã chính thức xuất hiện
thì làng xã mới có điều kiện trở thành phổ biến trong xã hội 2.
=> Làng xã như một bước đầu hình thành nên xã, là một bước đệm chuyển giao từ
mô hình xã hội nhỏ của làng để tiến đến mô hình tập hợp các làng của xã với mô hình quản
ly cấp cao hơn. Tuy nhiên, do mỗi làng đều có thiết chế riêng và sự tách biệt mạnh mẽ giữa

1, 2 GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, "Quan hệ Nhà nước - làng xã: Quá trình lịch sử và bài học kinh nghiệm",
đường link: />
2
8


các làng, cho nên nghiên cứu này tập trung khai thác cả về khái niệm làng (nói riêng) và
làng xã (nói chung) khi đề cập đến cơ cấu tổ chức.
II. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM:
Do cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, nên người làm nông nghiệp
phải dựa vào nhau mà sống. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, đặc biệt là
nông nghiệp lúa nước, tính thời vụ càng cao, để kịp thời vụ con người buộc phải liên kết với
nhau. Chính sự liên kết, tương hỗ này tạo nên tình cộng đồng của làng xã Việt Nam. Tính
cộng đồng chú trọng nhấn mạnh vào sự đồng nhất: cùng họ là dòng tộc, cùng nghề là đồng
nghiệp, cùng làng là đồng hương… Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng
lại với nhau, mỗi người đều hưởng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng
ngoại.

Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào biết
làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến.
Mỗi làng là một "vương quốc" nhỏ khép kín với luật pháp riêng (mà các làng gọi là hương
ước) và "tiểu triều đình" riêng, trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ
quan hành pháp; nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ. Sự biệt lập đó tạo
nên truyền thống phép vua thua lệ làng. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt
giữa Nhà nước phong kiến với làng xã ở Việt Nam.
=> Tính cộng đồng và tính tự trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng
nhất của làng xã; chúng tồn tại song song như hai mặt của một vấn đề 1. Cả 2 đều có những
mặt ưu điểm và hạn chế khác nhau, chúng không tách biệt nhau mà tương hỗ, chi phối lẫn
nhau, tạo nên những đặc trưng thống nhất, gắn kết mạnh mẽ giữa 2 yếu tố cộng đồng và tự
trị. Đây là nhân tố tiền đề quan trọng nhất góp phần lí giải vai trò của làng xã Việt Nam
trong vấn để giữ nước.

1. Tính cộng đồng:
1 GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, "Cơ sở văn hóa Việt Nam", NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.

9


Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình - bến nước - cây đa. Làng nào
cũng có một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện. Trước
hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc quan trọng, nơi hội họp, thu
sưu thu thuế, nơi giam giữ và xử tội phạm nhân... Tiếp đến, đình là một trung tâm văn hóa,
nơi tổ chức các hội hè, ăn uống (do vậy mà có từ đình đám), nơi biểu diễn chèo tuồng. Đình
còn là một trung tâm về mặt tôn giáo, tình cảm.
Do ảnh hưởng của trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi nghi dần dần
chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ lại nơi bến nước (ở
những làng không có sông chảy qua thì có giếng nước) - chỗ hàng ngày chị em gặp nhau
cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò.

Cây đa cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương
nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần: thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây đề; Sợ thần
sợ cả lây da. Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với thế
giới bên ngoài.
1.1 Ưu điểm:
Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. Do đồng nhất (cùng hội cùng thuyền,
cùng cảnh ngộ) cho nên người Việt Nam luôn sẵn sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi
người trong cộng đồng như anh chị em trong nhà: tay đứt ruột xót, chị ngã em nâng; lá lành
đùm lá rách... Do đồng nhất (giống nhau) cho nên người Việt Nam luôn có tính tập thể rất
cao, hòa đồng vào cuộc sống chung. Sự đồng nhất (giống nhau) cũng chính là ngọn nguồn
của nếp sống dân chủ - bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn
cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.
1.2 Hạn chế:
Mặt khác, lại cũng chính do đồng nhất mà ở người Việt Nam, ý thức về con người cá
nhân bi thủ tiêu: Người Việt luôn hòa tan vào các mối quan hệ xã hội (với người này là em,
người kia là cháu, với người khác nữa là anh/chị...), giải quyết xung đột theo lối hòa cả làng.
Sự đồng nhất (giống nhau) còn dẫn đến chỗ người Việt Nam hay dựa dâm, ỷ lại vào tập thể:
10


Nước trôi thì bè trôi, Nước nổi thì thuyền nổ. Tệ hại hơn nữa là tình trạng "Cha chung không
ai khóc"; "lắm sãi không ai đóng cửa chùa"... Cùng với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởngcầu an
(an phận thủ thường) và cả nể, làm gì cũng sợ rút dây động rừng nên có việc gì thường chủ
trương đóng cửa bảo nhau… Một nhược điểm trầm trọng thứ ba là thói cào bằng, đố kị,
không muốn cho ai hơn mình (để cho tất cả đều đồng nhất, giống nhau). Những thói xấu có
nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở Việt Nam, khái niệm "giá trị" trở nên hết sức
tương đối (nó khẳng định đặc điểm tính chủ quan của lối tư duy nông nghiệp): Cái tốt,
nhưng mà tốt riêng rẽ thì trở thành xấu (khôn độc không bằng ngốc đàn); ngược lại, cái xấu,
nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình thường: Toét mắt là tại hướng đình, Có làng cùng toét,
riêng mình đâu!

=> Từ đó ta có thể thấy, sân đình, bến nước, cây đa là biểu trưng cho tính cộng đồng
của làng xã, là nhân tố gắn kết những con người trong cùng một làng với nhau, góp phần
tạo nên sức mạnh cộng đồng mạnh mẽ, hễ việc của ai trong làng thì cả làng cùng quan tâm,
giúp đỡ, xem nhau như anh em một nhà. Khởi nguồn từ cuộc sống nông nghiệp, tính cộng
đồng làng xã đã trở thành ý thức cộng đồng trong phạm vi quốc gia: Bầu ơi thương lấy bí
cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người
trong một nước phải thương nhau cùng. Tính cộng đồng trong phạm vi làng là cơ sở tạo nên
tính đồng nhất trong hàng loạt lĩnh vực: đồng tộc, đồng niên, đồng nghiệp, đồng hương... và
tất yếu dẫn đến sự đồng nhất trong phạm vi quốc gia: đồng bào (sinh ra từ cùng một bọc
trứng). Vậy nên, tinh thần "toàn dân đoàn kết" từ đó mà ra, là một trong những yếu tố chính
thúc đẩy vai trò giữ nước của làng xã.
2. Tính tự trị:
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kín quanh làng, trở
thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào
đường hầm thì vướng rễ không qua (chính vì vậy mà tiếng Việt gọi rặng tre là luỹ, thành luỹ).
Luỹ tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung
Hoa có thành quách đắp bằng đất bao bọc.

11


Nền tảng của tính tự trị trong làng xã đó chính là sự cố kết chặt chẽ, không thể tách
rời khỏi thực thể làng của các bộ phận, tổ chức, cá nhân trong làng. Làng là tập hợp của một
đơn vị cư trú, một tổ chức sản xuất, tổ chức xã hội, tổ chức quân sự. Sự đan xen nghề
nghiệp; nông, công, thương và mối quan hệ đa dạng phường hội, họ hàng, xóm, giáp; sự
dung hợp các hệ tư tưởng và tôn giáo… đã tạo cho làng cổ truyền một cơ sở vững chắc. Mỗi
cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức, phe giáp, và là thành viên của cộng đồng
làng, là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt chẽ với tổ chức làng. Tâm lý cộng đồng là một
trong những đặc trưng của văn hoá làng. Kết cấu đa dạng và chặt chẽ của làng đã tạo ra một
định hướng hành vi hành động của cá thể và toàn thể, đã tạo ra một sự thống nhất tương đối,

đồng thời có sự tự điều chỉnh và ổn định. Chính sự liên kết bền vững này là "nội lực" cho
làng xã có thể duy trì được tính tự trị của mình, nó tạo cho làng xã "sức mạnh" để chống lại
mọi sự thâm nhập từ bên ngoài.
Với chế độ quân điền, ruộng đất của mỗi làng do làng ấy tự phân chia và sử dụng,
Nhà nước phong kiến không trực tiếp phân chia ruộng đất. Chính điều này đã làm cho tính tự
trị của làng xã tiếp tục tồn tại và càng được củng cố.
Thực chất, Nhà nước cũng không thể kiểm soát được việc thực hiện quân điền của
làng xã. Việc chia ruộng đất đòi hỏi phải có tổ chức đại diện các giáp, các họ cùng với hội
đồng chức dịch bảo đảm sự phân chia cho hợp lý, tương đối công bằng. Việc phân chia này
có lệ riêng của làng, có khi không theo đúng thể lệ quân điền của Nhà nước. Chế độ quân
điền thời Gia Long đề ra 3 năm một lần chia lại ruộng đất công, nhưng nhiều làng xã kéo dài
tới 4 năm, thậm chí có làng 6 năm mới chia lại ruộng công. Có năm Nhà nước đề ra phép
chia ruộng theo số dân. Nhưng tới làng xã thì thực hiện lại khác. Vì ngoài việc chia ruộng
theo suất đinh, làng còn những loại ruộng khác cho giáp, chùa, hội tư văn, cho các chức dịch
từ xã trưởng đến mõ 1…
=> Tính chất tự trị của làng xã tồn tại lâu đời là do nhiều nguồn nuôi dưỡng nó,
nhưng cho rằng chính việc sử dụng quân điền và cách phân chia ruộng công trong thời kỳ
phong kiến là nền tảng kinh tế vững chắc nhất cho tính chất độc lập của làng xã được duy
trì. Tính tự trị này chính là nguyên nhân chính, là sức mạnh chủ lực trong vai trò giữ nước
1 Huyền Diệu Thu, "Tính tự trị của làng xã Việt Nam trong lịch sử", đường link: />name=tintuc&file=newsdetail&id=7781

12


của làng xã trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc từ thời Bắc thuộc cho đến kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ cứu nước.
2.1 Ưu điểm:
Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt. Khởi đầu là sự khác biệt của cộng
đồng (làng, họ) này so với cộng đồng (làng, họ) khác. Sự khác biệt - cơ sở của tính tự trị tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mỗi việc. Vì phải
tự lo liệu, nên người Việt Nam có truyền thống, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho

trời. Nó cũng tạo nên lết sông tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống
của làng mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá - tự đảm bảo nhu cầu về ăn; có bụi tre,
rặng xoan, gốc mít - tự đảm bảo nhu cầu về ở.
=> Mỗi làng như một đơn vị xã hội thu nhỏ, có thể tự cung, tự cấp, không lệ thuộc
vào sự biến đổi, áp đặt từ bên ngoài, chính vì lẽ đó, những chính sách đồng hóa, cai trị, cải
cách của các thế lực ngoại xâm rất khó tiếp cận được, hơn thế, những chính sách ấy còn dễ
dàng bị chuyển hóa, thay đổi sao cho chỉ còn những yếu tố phù hợp với văn hóa, xã hội, nề
nếp làng xã Việt Nam mới được cư dân trong làng phần nào chấp nhận.
2.2 Hạn chế:
Mặt khác, cũng chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt - cơ sở của tính tự trị - mà
người Việt Nam có thói xấu là óc tư hữu ích kỷ: Bè ai người nấy chống; Ruộng ai người nấy
đắp bờ; Ai có thân người nấy lo, ai có bò người nấy giữ, Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu...
Óc tư hữu ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã Việt và đã luôn bị chính người Việt phê
phán: Của mình thì giữ bo bo. Của người thì để cho bò nó ăn; Của người bồ tát, lúa mình
buộc lạt...
Thói xấu thứ hai có nguồn gốc từ tính tự trị là óc bè phái, địa phương cục bộ, làng nào
biết làng ấy, chỉ lo vun vẹn cho địa phương mình: Trống làng nào làng nấy đánh, Thánh làng
nào làng nấy thờ; Trâu ta ăn cỏ đồng ta; Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn...
Một biểu hiện thứ ba của tính khác biệt - cơ sở của tính tự trị - là óc gia trưởng - tôn
ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó
13


không phải là xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí "quyền huynh thế
phụ", áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lí: Sống lâu lên
lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển
xã hội, nhất là khi mà thói gia đình chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn.
=> Bên cạnh ưu điểm, tính tự trị của làng xã Việt Nam còn có những mặt hạn chế, đó
là óc tư hữu ích kỷ, óc bè phái, óc gia trưởng, nó khiến con người trong làng xã chỉ nghĩ đến
lợi ích riêng, củng cố thêm quyền hạn riêng cho bản thân mình. Bởi, trong một cộng đồng tự

trị, thì những người có tư hữu và quyền lực cao nhất mặc nhiên mang trong mình những lợi
thế và ưu tiên nhất định, và điều đó khiến những mặt hạn chế có cơ hội phát huy và khiến
cho trong nội bộ cộng đồng làng xã có sự tách biệt dần rõ nét.
Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy. Cả hai quy định tính cách của
dân tộc. Cuộc sống nông nghiệp lúa nước và lối tư duy biến chứng, như ta đã biết, dẫn đến
sự hình thành nguyên lí âm dương và lối ứng xử nước đôi. Cho nên tính chất nước đôi chính
là một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt. Người Việt đồng thời vừa có tinh thần đoàn kết
tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ và thói cào bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa
có óc bè phái, địa phương; vừa có nếp sống dân chủ bình đắng lại vừa có óc gia trưởng tôn
ti; vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân; vừa có tính cần cù và nếp sống tự
cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại. Tất cả những cái tết và cái xấu ấy cứ đi thành từng
cặp và đều tồn tại ở người Việt Nam; bởi lẽ tất cả đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái
ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ
được phát huy: Khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe doạ sự sống còn của
cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy
qua đi rồi thì thói tư hữu và óc bè phái địa phương có thể lại nổi lên.
Tuy thế, hai đặc trưng là tính cộng đồng và tự trị của làng xã vẫn góp phần quan
trọng trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc ta. Nó góp phần tạo nên nguồn lực, cơ sở và
điều kiện để tiến hành cách cuộc khởi nghĩa và hình thành các cuộc chiến tranh nhân dân
trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Để hiểu rõ hơn về nội dung này,
chúng tôi xin được trình bày ở phần vai trò của làng xã trong vấn để giữ nước theo tiến trình
lịch sử từ thời Bắc thuộc (179 TCN) đến thời kỳ Pháp thuộc (1945).
14


III. VAI TRÒ CỦA LÀNG XÃ TRONG VẤN ĐỀ GIỮ NƯỚC:
Trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, chúng ta
đã trải qua sự xâm lược của phong kiến Phương Bắc, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kèm
theo đó là những chính sách thống trị, đồng hóa và khai thác thuộc địa. Nhưng tất cả dường
như đều vô ích khi cố gắng xâm nhập một cách gượng ép, ràng buộc vào bộ phận làng xã

Việt Nam. Bởi, với tính cộng đồng, tự trị của mình, làng xã Việt Nam như một bộ phận quan
trọng góp phần bảo tồn và phát huy những đặc điểm, tinh hoa trong lối sống, văn hóa, hương
ước, lệ tục của làng mình mà không chấp nhận những thay đổi, chính sách chuyển hóa từ bên
ngoài (ở đây là từ Nhà nước phong kiến và các nước xâm lược), hơn thế, nó còn chuyển hóa,
tiếp biến những thay đổi, chính sách đó theo cách riêng sao cho phù hợp với làng xã của
mình. Để hiểu rõ hơn những luận điểm trên, ta sẽ cùng phân tích vai trò của làng xã Việt
Nam qua 3 thời kỳ chính, đó là: thời Bắc thuộc, thời phong kiến độc lập và thời Pháp thuộc,
trên cơ sở những đặc điểm của tính tự trị của làng xã Việt Nam.
1. Thời Bắc thuộc (179 TCN - 938):
Sau thất bại của An Dương Vương trước Triệu Đà, cơ đồ của Âu Lạc đã bị chìm đắm,
đất nước rơi vào thảm cảnh hơn 1000 năm bị Bắc thuộc. Trong thời kỳ này, phong kiến
Trung Hoa đã tìm mọi cách vươn xuống tận cơ sở để nắm lấy và sử dụng làng Việt truyền
thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và đồng hoá của chúng. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là việc Khâu Hoà (Giao Châu Đại Tổng quản của nhà Đường) đầu thế kỷ
thứ VII đã đề ra chính sách khuôn làng xã Việt Nam vào mô hình thống trị của Trung Hoa:
Đặt ra hương (trong đó tiểu hương có từ 70 đến 150 hộ và đại hương có từ 160 đến 540 hộ)
và dưới hương là xã (gồm tiểu xã từ 10 đến 30 hộ và đại xã từ 40 đến 60 hộ) 1. Nhưng trong
thực tế phong kiến Trung Hoa đã không thành công và buộc phải từ bỏ chính sách đồng nhất
dân tộc của hai quốc gia.
Tuy từ đầu Công nguyên, chế độ Lạc tướng đã bị xoá bỏ và chính quyền đô hộ đã
nắm giữ được cấp huyện, nhưng nó vẫn không thể khống chế nổi cơ sở hạ tầng của xã hội
Việt cổ là các công xã (tức là các xóm làng). Người Việt suốt thời kỳ thống trị của phong
kiến phương Bắc đã không ngừng bảo tồn và củng cố cộng đồng xóm làng, biến xóm làng
1 Cao Hùng Trưng, "An Nam chí nguyên", bản chữ Hán.

15


của mình thành những pháo đài chống Bắc thuộc, chống đồng hoá, dựa vào làng và xuất phát
từ làng mà đấu tranh giành lại nước. Công xã nông thôn Việt Nam với kết cấu bền chặt của

nó không những không bị giải thể mà trái lại có mặt còn được củng cố trong nghìn năm
chống Bắc thuộc.
Đến đầu thế kỷ X, một mặt chính quyền tự chủ của họ Khúc bước đầu xác lập quyền
sở hữu trên danh nghĩa của Nhà nước đối với ruộng đất công xã, mặt khác, tích cực thi hành
chính sách cải cách hành chính, biến làng thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước,
gọi là "xã" 1. Khái niệm "làng xã" như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và
sinh hoạt văn hoá cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở như ta hằng quan niệm xưa nay
được hình thành trong thời điểm lịch sử này. Đây cũng chính là bước chuyển biến rất quan
trọng của nông thôn Việt Nam truyền thống. Thời kỳ Bắc thuộc kết thúc với chiến thắng lịch
sử của Ngô Quyền trên dòng sông Bạch Đằng, đánh đuổi quân Nam Hán năm 938.
=> Có thể nói, trong suốt hơn 1000 năm mất chủ quyền, chịu sự đô hộ của phong kiến
phương Bắc (từ 179 TCN đến năm 938), nước ta không những không bị đồng hóa mà còn có
thể giành lại được nước. Trong lịch sử khu vực, Việt Nam là đại diện cuối cùng và duy nhất
còn sót lại của đại gia đình Bách Việt vừa giành lại được độc lập, giữ được truyền thống văn
hóa của người Việt, vừa hiên ngang trong tư thế của một quốc gia tự chủ, tự cường, tự lập.
Đó là chưa nói đến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nhân dân khi bnản thân mỗi làng
xã như một thế trận, làng xã là nơi sản sinh ra nguồn nhân tài, sức lực, của cải, vật chất để
thực hiện các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đó. Trong đó không thể không kể đến cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43), Bà Triệu (249), Lý Bí (542), Mai Thúc Loan (722).
Dù thắng có, thất bại có, nhưng quy chung lại, làng xã đã góp phần quan trọng trong việc
khảng định chủ quyền quốc gia và giữ vững tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc trong
suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc.
Về mặt chủ quan, làng xã Việt Nam bước vào thời Bắc thuộc không phải từ hai bàn
tay trắng, không phải từ con số không, mà là từ những đặc điểm, đặc trưng vốn có của tính
cộng đồng (gắn liền với tinh thần yêu nước, yêu đồng bào) và tính tự trị của mình (gắn liền
với lối sống khép kín, những lệ tục, nền nếp trong nội bộ làng xã). Ở đây, làng xã Việt Nam
1 Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, tập I, Nxb Giáo dục, H., tr 218.

16



đóng vai trò như cái nôi nuôi dưỡng những lệ tục, lối sống của cộng đồng cư dân của riêng
mình với tinh thần yêu nước nồng nàn, bước đầu xác lập cơ sở về ý thức quốc gia, dân tộc.
Về mặt khách quan, nền đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong thời Bắc thuộc tuy
hết sức tàn bạo và nguy hiểm nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều chỗ yếu căn bản của
nó. Tuy kéo dài hơn 1000 năm nhưng lại có nhiều lần gián đoạn bởi nhân dân ta liên tục
vùng lên đấu tranh và nhiều lần đã giành lại được độc lập tạm thời. Kẻ thù chúng ta không
có thời kỳ ổn định lâu dài để cai trị và thực hiện âm mưu đồng hóa. Đây là một trong những
yếu tố giúp cho làng xã Việt Nam dễ dàng triệt tiêu những yếu tố đồng hóa của phong kiến
phương Bắc, giúp duy trì và bảo tồn những giá trị truyền thống trong đơn vị xã hội của
mình, thể hiện được vai trò quan trọng của làng xã trong vấn đề giữ nước.
Từ đó, ta có thể kết luận rằng, về mặt cấu trúc xã hội, sau khi cướp nước ta, kẻ thù đã
chủ động thủ tiêu chủ quyền quốc gia, xóa bỏ thể chế Nhà nước của các vua Hùng, vua
Thục, nhưng trong suốt thời Bắc thuộc chúng không thể nào với tay tới và can thiệp làm biến
đổi được cơ cấu làng xã cổ truyền của ta. Các làng xã dựa trên cơ sở nông thôn vẫn tồn tại
như thế giới riêng của người Việt, là nơi nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa của văn
hóa truyền thống, làm cơ sở nền tảng cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa.
Nhân dân ta đã giữ được làng, bảo tồn làng, dựa vào làng và xuất phát từ làng mà đấu
tranh bền bỉ, kiên cường để giành lại độc lập cho đất nước.
2. Thời kì phong kiến độc lập (938 - 1858):
Suốt trong thế kỷ X và thậm chí sang cả thế kỷ XI, XII làng xã vẫn còn tồn tại phổ
biến và giữ vai trò hạ tầng cơ sở bền vững của xã hội với quyền sở hữu trên thực tế đại bộ
phận ruộng đất và quyền tự trị khá lớn. Nhà nước trung ương tập quyền với tư cách là người
chủ sở hữu tối cao về ruộng đất bóc lột tô thuế và lao dịch đối với làng xã. Lúc này chế độ tư
hữu ruộng đất mới phôi thai và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, tuy nhiên nó càng ngày càng phát
triển nhanh.
Cũng trong buổi đầu của thời kỳ độc lập, khi cấp xã được Nhà nước chính thống hoá
trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn thì cấp thôn cũng dường như đồng thời
xuất hiện.
17



Vấn đề đặt ra là từ khi nông thôn Việt Nam xuất hiện thêm hệ thống quản lý hành
chính là xã, trong khi hệ thống tự trị vẫn còn rất mạnh và giữ vị trí chi phối thì có nghĩa là cả
hai hệ thống hành chính và tự trị cùng tồn tại trong một đơn vị làng xã. Trong quá trình vận
hành không phải lúc nào hai hệ thống này cũng thống nhất với nhau, mà nhiều khi chúng
mâu thuẫn, thậm chí còn rất trái ngược và đối lập nhau. Bởi, tính tự trị đã hình thành nên bản
thân mỗi làng xã tính độc lập trong việc giải quyết các vấn đề trong lối sống, phong tục tập
quán, v.v... nó không chấp nhận cũng như không chịu sức ép từ cấp hành chính cao hơn (ở
đây là xã), từ đó, sự va chạm chắc chắn sẽ xảy ra và hệ thống hành chính sẽ khó thể nào thực
hiện tốt chức năng của mình. Đây cũng là một minh chứng cho câu "phép vua thua lệ làng"
của ông cha ta.
Tư liệu lịch sử cho phép đoán định rằng ngay từ khi mới thoát ra khỏi ách đô hộ của
Phương Bắc, các chính quyền tự chủ của người Việt lấy làng truyền thống làm đơn vị hành
chính cấp cơ sở của Nhà nước (tức là cấp xã) thì cấp thôn cũng xuất hiện ở trong các làng xã
đó. Cấp thôn ra đời chính là do nhu cầu quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước
thông qua xã để quản lý dân làng, nhưng xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành chính
của mình nếu như không thông qua một cấp trung gian khác là thôn. Thôn vì thế đã trở thành
đầu mối giáp nối, gắn kết và điều hoà hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và
tục lệ, chính trị và xã hội.
Vào đầu đời Trần, năm 1242 Trần Thái Tông tiến hành phân chia ra các xã lớn, xã nhỏ
mà đặt các chức đại tư xã, tiểu tư xã là các xã quan thay mặt Nhà nước trực tiếp quản lý từ 1
đến 2, 3, 4 xã 1. Có khả năng đây là một hệ thống chính quyền cơ sở do nhân dân tự đề cử
lên, được chính quyền Nhà nước duyệt.
=> Mô hình xã xuất hiện như một đơn vị hành chính của Nhà nước, nhằm thay mặt
Nhà nước quản lí các làng, thực hiện những quy định, chính sách của Nhà nước phong kiến
với, nhằm vận dụng tính hành chính để kìm hãm tính tự trị trong bản thân mỗi làng. Sự mâu
thuẫn trong việc vận hành hai hệ thống quản lý là làng và xã của Nhà nước là một điều tất
yếu khi tính tự trị của mỗi làng vốn đã rất chặt chẽ và ổn định. Dù sự ra đời của thôn phần
nào đáp ứng được nhu cầu quản lý hành chính của cấp xã nhưng khó thể nào chi phối, gây

ảnh hưởng hoặc kìm hãm sức sống mạnh mẽ của tính tự trị trong bản thân mỗi làng. Việc
1 "Đại Việt sử ký toàn thư", bản dịch, tập III, Nxb Khoa học xã hội, H., 1993, tr 19.

18


Nhà nước để nhân dân các chức xã tự đề cử các chức đại tư xã, tiểu tư xã cho thấy phần nào
sự nhượng bộ của chính quyền Nhà nước phong kiến. Vai trò của làng xã Việt Nam trong
giai đoạn này đã phát triển đến mức độ cao hơn, gây khó khăn cho Nhà nước trong công tác
quản lý, như câu "phép vua thua lệ làng".
Sau khi nhà Hồ sụp đổ do cuộc xâm lược của nhà Minh, Đại Việt đã rơi vào ách đô hộ
của phong kiến phương Bắc trong hai thập kỷ (từ 1407 đến 1427). Chiếm được nước ta, nhà
Minh muốn áp đặt trọn vẹn mô hình nông thôn Trung Hoa vào nông thôn Việt Nam. Chúng
tiến hành chia dân ta ra thành từng “lý”, mỗi lý gồm 110 hộ (tương đương với một làng lúc
đó) và đứng đầu lý là lý trưởng. Đây là lần đầu tiên xuất hiện chức danh lý trưởng với tư
cách là người đứng đầu đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn Việt Nam. Dưới lý là giáp.
Cứ 10 hộ họp thành một giáp, do giáp thủ đứng đầu. Những chức lý trưởng, giáp thủ đều
luân phiên nhau làm trong thời hạn 1 năm với nhiệm vụ thu thuế và bắt phu dịch. Tuy nhiên
tổ chức này chưa bao giờ được thực hiện trên phạm vi cả nước 1.
Ngoài ra, nhằm đẩy mạnh thủ đoạn đồng hóa, giặc Minh còn bắt nhân dân ta phải từ
bỏ những phong tục tập quán cổ truyền vốn là đặc điểm của nền văn minh Nam Á bản địa,
để tuân theo những phong tục tập quán Trung Hoa thuộc văn minh Đông Á. Chúng cấm dân
ta không được nhuộm răng, để tóc chỏm đào, mặc váy mà phải tết tóc dài, mặc quần dài như
người Trung Hoa. Mặt khác, chúng còn mở nhiều trường dạy học chữ Hán để đào tạo tay sai,
đưa vào nhiều sách kinh, tạo điều kiện cho nền văn hóa Đông Á Nho giáo xâm nhập vào xã
hội Đại Việt 2.
Hai mươi năm, dưới sự đô hộ của mình, quân Minh đã để lại những hậu quả xã hội văn hóa lâu dài và sâu đậm trong đời sống Đại Việt. Tuy nhiên, đây vẫn là sự cưỡng bức và
áp đặt văn hóa còn nhiều hạn chế. Sách "An Nam chí nguyên" thừa nhận: "Còn các nơi biên
cương, hương lý xa xôi vẫn giữ tục cũ, chưa bỏ hẳn được". Cuộc đấu tranh văn hóa và chính
trị của người Việt chống đô hộ không ngừng tiếp diễn.

=> Từ đó có thể thấy, làng xã Việt Nam trong giai đoạn đô hộ của quân Minh đã phải
chịu sự cưỡng chế bởi chính sách đồng hóa một cách mạnh mẽ với những quy định, hình
thức mang đậm yếu tố Trung Hoa, nhằm giúp nhà Minh dễ dàng thống trị dân tộc ta hơn.
1 Tham khảo Phan Huy Lê: "Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam", Tập II, Nxb Giáo dục, H., 1960.
2 Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), "Tiến trình lịch sử Việt Nam", NXB Giáo dục, năm 2000.

19


Làng xã Việt Nam dù vẫn phần nào buộc phải tuân theo những quy định trong chính sách
đồng hóa của quân Minh (trong đó có lập Tăng Đạo ty giảng Phật Lão theo lối Trung Hoa,
từ Bụt đổi sang Phật, thuế má nặng, thuế ruộng, thuế muối, bắt dân đi khai mỏ, mò ngọc, tìm
sừng tê ngà voi, cống tiến về Trung Hoa hồ tiêu, quế…) nhưng trong tư tưởng của dân tộc ta
khi đó vẫn một lòng hướng về cội nguồn của dân tộc - là yếu tố gốc mà quân ngoại xâm
không bao giờ thay đổi được. Chính vì thế, bộ máy thống trị chưa thật sự chạm tới được gốc
rễ mà chỉ phần nào làm thay đổi những hình thức của làng xã một cách cưỡng chế, áp bức
và bốc lột.
Nghịch lý là chính sự áp bức bóc lột đã gián tiếp nâng cao tính cộng đồng Việt: hàng
chục cuộc chiến và nổi dậy đã khiến cho dân tộc đoàn kết mạnh mẽ. Hơn nữa, qua cuộc cọ
sát, xung đột với văn hóa Hán, bản sắc dân tộc Việt đã được mài dũa để tự khẳng định mạnh
mẽ, đối lập Nam (Việt) với Bắc (Hán). Khổng giáo và Phật giáo du nhập có mặt phá hoại tín
ngưỡng bản địa Việt, nhưng dần dần kết hợp với nó, do vậy mà củng cố thêm tính cộng đồng
người Việt.
Chính tinh thần yêu nước, yêu đồng bào xuất phát từ tính cộng đồng và những lệ tục,
hương ước, nếp sống xuất phát từ tính tự trị trong bản thân mỗi làng đã giúp cho nhân dân
ta vẫn giữ được những yếu tố truyền thống của mình, đồng thời chống lại những chính sách
đồng hóa đó một cách liên tục, không ngừng nghỉ trong thời gian dài. Vai trò của làng xã
Việt Nam trong vấn đề giữ nước được khẳng định với những biểu hiện khá rõ nét như đã nêu
ở trên.
Ngay sau khi chiến thắng quân Minh, vào tháng 11 năm 1428, Lê Lợi tiến hành tổ

chức lại làng xã. Ông phân ra làm 3 loại xã theo số đinh: loại nhỏ từ 10 đến 49 đinh, loại
trung bình từ 50 đến 99 đinh và loại lớn từ 100 đinh trở lên 1. Theo cách phân loại này,
những xã loại vừa và nhỏ trong thực tế chỉ là thôn. Thôn cũng được chia ra thành nhiều loại,
trong đó có những thôn phụ thuộc xã và những thôn độc lập. Trên cơ sở phân loại như vậy,
ông lại đặt các xã quan tuỳ theo từng loại xã: Xã nhỏ chỉ đặt 1 viên, xã trung bình đặt 2 viên
và xã lớn đặt 3 viên xã quan. Các xã quan trên nguyên tắc vẫn là các viên chức của Nhà
nước, do Nhà nước cử ra để quản lý làng xã, nhưng thực tế vào đầu thời Lê sơ họ đã là người
quản lý trực tiếp từng làng xã, thậm chí là từng thôn xóm nhỏ. Với cách tổ chức này, việc
1 "Đại Việt sử ký toàn thư", bản dịch, tập II, Sđd, tr 297.

20


quản lý xã thôn được quy định cụ thể hơn trên cơ sở quản lý dân đinh chứ không phải là
quản lý hộ như dưới thời Minh thuộc.
=> Trải qua nhiều triều vua khác nhau trong suốt thời kỳ phong kiến độc lập, làng xã
Việt Nam đã có những sự chuyển biến, thay đổi mạnh mẽ và rõ nét thông qua các chính sách
tổ chức làng xã khác nhau của Nhà nước nhằm để dễ cai trị hơn, nhưng thực tế là ngày càng
khiến làng xã xa rời Nhà nước. Tuy nhiên, tính cộng đồng và tính tự trị trong bản thân mỗi
làng, mỗi xã đều thể hiện được những mặt ưu điểm của mình và được duy trì, củng cố trong
quá trình chống ngoại xâm của dân tộc ta.
3. Thời Pháp thuộc (1858 - 1945):
Kể từ khi thực dân Pháo nổ tiếng súng xâm lược đầu tiên tại bán đảo Sơn Trà - Đà
Nẵng vào rạng sáng 1/9/1858, nước ta chính thức bước vào thời kỳ Pháo thuộc, gắn liền với
các cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Sau khi chiếm được nước ta, thực dân Pháp đã chọn phương án không những không
thủ tiêu tổ chức xã thôn cổ truyền mà còn tìm mọi cách duy trì nó, nuôi dưỡng nó thông qua
bọn địa chủ phong kiến và hội đồng kỳ mục, biến nó thành công cụ hữu hiệu cho chính sách
thống trị và khai thác thuộc địa.
=> Nhưng sự thực lại diễn ra hoàn toàn trái ngược với những tính toán của bọn thực

dân. Thôn làng cổ truyền chính là nơi nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia dân
tộc, nhiều làng xã đã trở thành những pháo đài, những căn cứ chống Pháp mà chúng không
thể đàn áp nổi. Vai trò của làng xã đóng vai trò tiên quyết trong việc chống lại chính sách
thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Để bảo đảm cho nền thống trị của mình, thực dân Pháp buộc phải tiến hành cải tổ lại
tổ chức xã thôn cổ truyền, hướng hoạt động của bộ máy này vào việc phục vụ ngày một đắc
lực cho chính sách đô hộ của thực dân Pháp. Một trong những thành công của người Pháp
trong cuộc "Cải lương hương chính" là đã lợi dụng được truyền thống quản lý làng xã của
người Việt thông qua hương ước, khôn khéo đưa luật pháp của Nhà nước bảo hộ vào lệ làng,
lệ làng hoá phép nước, khuôn tất cả các hương ước vào một khuôn mẫu chung có lợi cho
thực dân Pháp và buộc các làng phải nghiêm luật thực hiện.
21


Chính sách "Cải lương hương chính" gồm các điểm chính:
+ Viên chức người Pháp đứng đầu tỉnh (Khâm sứ ở Trung Kỳ công sứ Bắc Kỳ; quan
chủ tỉnh ở Nam Kỳ), nắm quyền giám sát, kiểm soát và lựa chọn nhân sự cấp xã.
+ Lí trưởng (đối với các xã Bắc Kỳ và Trung Kỳ), xã trưởng (đối với các xã Nam Kỳ)
có quyền bàn trong Hội đồng kì mục và quyết định việc làng xã theo quy định.
+ Chính quyền quy định rõ nhiệm vụ, cách hoạt động, khen thưởng, kỷ luật đối với
từng thành viên bộ máy quản trị xã và đối với từng bộ phần cấu thành ban quản trị xã.
+ Điền sản là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc lựa chọn người vào bộ máy quản lý cấp
xã 1.
=> Dù chịu áp lực bởi chính sách "Cải lương hương chính" nhưng làng xã Việt Nam
vẫn không hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân Pháp, với tinh thần yêu nước, yêu đồng bào
sẵn có từ tính cộng đồng và tinh thần gìn giữ những nếp sống, văn hóa truyền thống của dân
tộc từ tính tự trị, những ngôi làng kháng chiến mọc lên trên khắp cả nước, đóng vai trò làm
tan rã âm mưu thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, khiến chính sách "Cải
lương hương chính" không phát huy được tác dụng của nó đối với tầng lớp nhân dân sinh
sống trong nội bộ các làng xã.

Đó là chưa kể đến các cuộc đấu tranh do bản thân các làng xã thực hiện trong thời kỳ
này. Chính vì tính tự trị nên mỗi làng đều có phần không gian cách biệt với các làng khác và
thế giới bên ngoài, đó là điều kiện cốt yếu để hình thành nên thế thủ hiểm, khiến cho thực
dân Pháp không thể tiếp cận được.
Có thể thấy tác dụng tích cực nhất của tính tự trị làng xã là làm cho nội bộ làng xã có
một sự cố kết chặt chẽ mà khó có thế lực nào có thể phá vỡ. Nó làm nên sức sống lâu bền
của làng. Điều này có ý nghĩa lịch vô cùng lớn lao, thể hiện rõ nhất là khi đất nước bị nạn
ngoại xâm, các đô thị nhanh chóng rơi vào tay giặc, nhưng làng thì không. Có thể nói mỗi
làng xã Việt Nam là một pháo đài kiên cố chống giặc. Làng xã hoàn chỉnh như một cơ thể.
Cơ thể này không những có "cá tính" như trên chúng ta đã nói mà nó còn biết và chủ động tự
bảo vệ mình khỏi các thế lực khác. Trong lịch sử Việt Nam đã có hàng ngàn làng chiến đấu
điển hình. Giáo sư Trần Quốc Vượng nói: "1000 năm Bắc thuộc, ta giành lại được độc lập là
1 "Cải lương hương chính ở Việt Nam", đường link: />
22


do ta mất nước nhưng không mất làng". Để minh chứng cho câu nói đó, ta có thể đề cập đến
các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ Bắc thuộc đã nêu ở giai đoạn trên.
Đến thời Pháp thuộc, nhà cầm quyền thực dân cũng xác định rõ rằng làng xã là nơi
chúng không thể "đụng chạm" tới. Toàn quyền P.Pasquier nhận định: "Làng xã là nước cộng
hoà nhỏ… một tổ chức phức tạp như thế, dân chủ như thế, một tổ chức mà trong đó không
bao giờ kỳ mục được phép hành động đơn độc, một tơ chức đã tồn tại theo truyền thống từ
thời rất xa xưa, tổ chức đó chúng ta không nên đụng chạm tới kẻo làm xứ sở rối loạn…".
Nhờ làng xã có tính tự trị tương đối góp phần làm cho đất nước có một nền văn hoá
phong phú, đa dạng. Chúng ta đã có những làng văn hoá với những nét văn hoá đặc trưng nổi
bật. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nó không bị văn hoá của tổ chức xã hội khác đồng
nhất. Nó không bị xoá bỏ bởi văn hoá làng khác, vùng miền khác, hay sự can thiệp của chính
quyền trung ương, thậm chí là chính quyền của ngoại xâm. Tiêu biểu là thời Bắc thuộc hàng
ngàn năm. Đó là thời kỳ bọn phong kiến phương Bắc tiến hành đồng hoá văn hoá Việt Nam
một cách ồ ạt, dữ dội (bắt dân ta để tóc, mặc đồ Trung Hoa, dùng chữ Hán, tổ chức những

ngày lễ tết của người Hán…) nhưng cuối cùng chúng đã thất bại trước hàng ngàn làng văn
hoá truyền thống nước Nam. Truyền thống đó được gìn giữ lâu đời và vô cùng vững chắc
nhờ làng xã, văn hoá ngoại lai khó có thể xâm nhập.
Với tính cộng đồng, tự trị của mình, làng xã là nơi bảo lưu tốt nhất những giá trị văn
hoá truyền thống tốt đẹp, đáng quý để cho con cháu đời sau noi gương học tập như: truyền
thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, truyền thống giữ đạo hiếu, nhân nghĩa, truyền thống
học tập…
V. HẠN CHẾ CỦA LÀNG XÃ TRONG VẤN ĐỀ GIỮ NƯỚC:
Bên cạnh những ưu điểm của mình, làng xã Việt Nam vẫn còn đó những hạn chế nhất
định, được biểu hiện trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của đất nước ta.
Làng xã luôn có xu hướng hoạt động độc lập hoàn toàn, xa rời quỹ đạo quản lý của
Nhà nước. Trong thời kỳ phong kiến, như trên đã nói, khi có giặc ngoại xâm, sự cố kết các
làng xã là cao nhất để cùng nhau chống giặc, bảo vệ đất nước. Nhưng kết thúc chiến tranh,
sự phân rã vô cùng lớn hơn lúc nào hết. Có thể nói, trong thời bình, sự cố kết giữa các làng
xã rất lỏng lẻo, mà khi đó chính quyền trung ương tập quyền lại suy yếu, không đủ sức kiểm
23


soát nổi làng xã thì điều tất yếu là trong nước sẽ sinh biến loạn. Ví dụ như cuối thời Trần
(cuối thế kỷ XIII - XIV), xã hội có nhiều rạn nứt. Mô hình tập quyền thân dân của nhà Trần bị
khủng hoảng. Chính quyền trung ương không thể kiểm soát được làng xã, hậu quả là triều
Trần sụp đổ.
=> Sự lòng lẻo trong mối liên hệ giữa các làng xã vào thời bình là một trong những
điểm hạn chế của làng xã trong vấn đề giữ nước, là "yếu điểm" mà các nước có thể nắm bắt,
khaa thác để sang xâm lược nước ta.
Tính tự trị của làng xã là nguồn gốc và là kẻ nuôi dưỡng chủ nghĩa địa phương, cục
bộ. Vì bản chất của làng xã là "một sự cố kết có tính chất địa phương" như Ph.Ăng-ghen
nhận định. Nó hình thành "tâm lý làng", "giá trị làng" và chỉ có làng mình là hơn cả. Nó
không dễ gì chấp nhận những văn hoá tiến bộ từ bên ngoài. Ta còn thấy nhiều xung đột, mâu
thuẫn gay gắt giữa các làng vì làng nào cũng chỉ biết đến lợi ích trước mắt của làng mình,

không quan tâm tới lợi ích làng khác. Nguy hiểm hơn là trường hợp chủ nghĩa địa phương
của làng nhiều khi không biết tới lợi ích của đất nước, gây ra sự phân rã lớn trong nội bộ đất
nước.
=> Việc gây ra sự phân rã lớn giữa các làng xã Việt Nam trong nội bộ đất nước sẽ
tạo cơ hội hiếm có cho các nước xâm lược thực hiện các chính sách cai trị và khai thác
thuộc địa một cách hiệu quả hơn.
Làng xã bảo lưu rất tốt các giá trị truyền thống nhưng đồng thời nó cũng lưu giữ
những hủ tục "thâm căn cố đế", không dễ dàng xoá bỏ vì Nhà nước có muốn can thiệp vào
cũng không đơn giản. Như những hủ tục về khao vọng, cưới xin, ma chay cỗ bàn đình đám,
trọng nam khinh nữ, đông con nhiều của…
=> Với việc nắm bắt những hủ tục của các làng xã Việt Nam, các nước xâm lược có
thể khai thác, khuyến khích và đẩy mạnh nó, khiến cho trật tự xã hội trong các làng bị xáo
trộn, ảnh hưởng, dẫn đến sự suy yếu những giá trị văn hóa truyền thống, những lệ tục,
hương ước tốt đẹp của làng xã Việt Nam, gây khó khăn trong việc giữ nước của dân tộc ta.
VI. TỔNG KẾT:

24


Làng xã Việt Nam là nơi bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản xuất và tổ chức
mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố kết quan hệ dòng tộc, xóm
giềng. Làng xã không những là mô hình để người xưa theo đó mà mở rộng ra xây dựng tổ
chức quốc gia, đô thị mà còn là pháo đài để chống giặc ngoại xâm cùng mọi yếu tố ngoại lai,
bảo vệ sự bình yên cho dân tộc, cho đất nước. Có thể nói, làng xã Việt Nam đóng vai trò cực
kì quan trọng trong vấn đề giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Với hai đặc trưng là tính cộng đồng và tự trị của mình, làng xã không những góp phần
nâng cao tinh thần cố kết cộng đồng thành tinh thần yêu nước mãnh liệt, mà còn phát huy
tính tự quản, tự cung - tự cấp của mình thành sự tự chủ trong việc giữ gìn văn hóa, truyền
thống, hương ước làng xã nói riêng và dân tộc nói chung trước các thế lực xâm lược với
những "chiêu bài" đồng hóa, khai thác thuộc địa, v.v...

Ngày nay, với định hướng "công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn",
"đô thị hóa" của đất nước và xu thế "toàn cầu hóa" của thế giới, làng xã Việt Nam ngày càng
bị thu hẹp, có nơi bị mất hẳn, nhưng không vì thế mà tinh thần yêu nước, giữ nước của dân
tộc ta bị mất đi. Dù thực tế hiện nay đa phần chúng ta sống với tính cách cởi mở hơn, tiếp thu
những nền văn hóa bên ngoài nhiều hơn, nhưng truyền thống văn hóa của dân tộc ta vẫn còn
đó, ta sẽ dễ dàng chấp nhận những gì tích cực, tốt đẹp và sẵn sàng tẩy chay những gì tiêu
cực, lạc hậu. Chính những đặc trưng của làng xã đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của từng
con người Việt Nam ta, nó xây dựng cho ta những sứ mệnh mới, vai trò mới phù hợp hơn với
yêu cầu của thời đại, vốn đã gắn liền với xu thế chung của toàn cầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách tham khảo gồm:
1. Sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" - GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 2004.
2. Sách "Tiến trình lịch sử Việt Nam" - Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), NXB Giáo dục,
2003.
3. Sách "Việt Nam sử lược" - Trần Trọng Kim, NXB Đà Nẵng, 2002.

25


×