Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU (CHÂU ĐỐC, AN GIANG) LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ MỸ LIÊN

ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU
(CHÂU ĐỐC, AN GIANG)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
KHÓA HỌC: 2010 – 2014

AN GIANG, 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ MỸ LIÊN
LỚP: DH11CT

ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU
(CHÂU ĐỐC, AN GIANG)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH HỌC: SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
GVHD: Th.s NGUYỄN THỊ DIỆU LIÊNG
KHÓA HỌC: 2010 – 2014

AN GIANG, 2014




LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Đảng bộ xã Vĩnh Châu (Châu Đốc, An Giang) lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới” được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị
Diệu Liêng, được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của trường Đại học An
Giang, của văn phòng Tỉnh ủy An Giang, văn phòng Ủy ban nhân dân xã Vĩnh
Châu cùng các cơ quan ban ngành có liên quan đến đề tài.
Nhân đây tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị
Diệu Liêng - người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian qua, trường Đại học An Giang đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi xin được chân thành cám ơn văn phòng Tỉnh ủy An Giang,
văn phòng Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Châu cùng các cơ quan ban ngành đã nhiệt
tình giúp đỡ, cung cấp những tài liệu thiết thực và bổ ích góp phần thuận lợi cho
tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nguyễn Thị Mỹ Liên


MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 4
6. Đóng góp của đề tài ..................................................................................................... 4

7. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM ............................................................................................... 6
1.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới .............. 6
1.1.1 Vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong công cuộc giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước ...................................................................... 6
1.1.1.1 Vai trò của giai cấp nông dân ................................................................. 6
1.1.1.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn ....................................................... 9
1.1.2 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới ..... 10
1.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh An Giang về xây dựng nông thôn mới ................ 13
1.2.1 Khái quát về nông nghiệp, nông thôn và nông dân An Giang..................... 13
1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh An Giang về xây dựng nông thôn mới......... 16
CHƯƠNG 2. ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU (CHÂU ĐỐC, AN GIANG) LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI .................................................................... 21
2.1 Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị- xã hội trên địa bàn xã Vĩnh
Châu .......................................................................................................................... 21
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế........................................................................... 21
2.1.2. Điều kiện về chính trị- xã hội ..................................................................... 22
2.2 Đảng bộ xã Vĩnh Châu lãnh đạo xây dựng nông thôn mới ................................. 23
2.2.1. Chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ xã Vĩnh Châu ............. 23
2.2.2 Quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã ...................... 29


2.2.2.1 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí quy hoạch ...................................... 30
2.2.2.2 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí hạ tầng kinh tế - xã hội ................. 31
2.2.2.3 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất ............ 36
2.2.2.4 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí văn hóa–xã hội–môi trường .......... 38
2.2.2.5 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí xây dựng hệ thống chính trị........... 41
2.3 Những bài học kinh nghiệm ................................................................................ 45

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Việc tạo điều kiện phát triển nông nghiệp,
nông thôn và nông dân luôn là mục tiêu của Đảng và Nhà nước. Sau hơn 26 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta đã đạt
được những thành tựu khá toàn diện và to lớn: tăng trưởng bình quân trên 4% năm,
đến nay sản xuất nông nghiệp nói chung đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước
và đóng góp vào giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Sản xuất lương thực, đặc
biệt là lúa gạo tăng lên liên tục cả về diện tích gieo trồng và năng suất, đã đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu thế giới, kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; bộ mặt nhiều
vùng nông thôn thay đổi; đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng
nông thôn ngày càng được cải thiện; xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn; hệ thống
chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; dân chủ cơ sở ngày càng được phát
huy… Thành tựu trên chẳng những góp phần vào việc ổn định an ninh, chính trị, trật
tự xã hội mà còn tạo ra nền tảng vững chắc cho nền kinh tế phát triển, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát
triển còn kém bền vững, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc nhiều vào
tự nhiên, ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún không phù hợp với yêu cầu
của việc sản xuất hàng hoá lớn, sức cạnh tranh thấp, đầu ra sản phẩm thiếu ổn định ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập của nông dân, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng diễn ra

sâu rộng trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên
tiến còn diễn ra chậm chạp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản
xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất,
chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề
phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở
nông thôn. Môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai
còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ
lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy các
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện đường lối của Đảng, Chính
phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Đây là
chương trình mang tính tổng hợp, sâu rộng, có nội dung toàn diện bao gồm tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu chung của
chương trình được Đảng ta xác định là: xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng


2

kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển
nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.
Vĩnh Châu là xã vùng ven của thị xã Châu Đốc, được tách ra vào năm 2003 từ
xã Vĩnh Mỹ. Năm 2010 được đánh dấu mốc là năm đầu tiên triển khai thực hiện chiến
lược “Xây dựng nông thôn mới”, xã Vĩnh Châu được UBND tỉnh An Giang chọn là
một trong 17 xã chỉ đạo điểm về xây dựng nông thôn mới theo chương trình mục tiêu
quốc gia để rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng. Xã Vĩnh Châu là xã thuần nông, cơ
sở hạ tầng còn hạn chế, các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao kém

phát triển; đời sống vật chất và tinh thần của người dân còn gặp nhiều khó khăn; tỷ lệ
hộ nghèo (theo chuẩn nghèo mới năm 2010) còn 5,41%; thu nhập bình quân đầu người
năm 2009 chỉ đạt 7,4 triệu đồng/người/năm.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, qua 3 năm đi vào thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, xã Vĩnh Châu đã đạt được nhiều kết quả:
cán bộ xã đạt chuẩn 100%; 6 năm liên tục (từ năm 2006 đến 2011) Đảng bộ đạt Trong
sạch vững mạnh, riêng năm 2012 đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh xuất sắc. Hầu
hết chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch, kinh tế nông nghiệp phát triển,
sản lượng lúa tăng hằng năm, phát triển nhiều mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao,
nông dân tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, cơ sở hạ tầng
giao thông, thủy lợi, điện nước sinh hoạt được đầu tư cơ bản. Hệ thống cơ sở hạ tầng
được đầu tư xây dựng khang trang. Việc chăm lo đời sống tinh thần cho người dân và
sự nghiệp giáo dục của xã cũng được quan tâm, 100% các cháu đến tuổi được vào lớp
1. Phong trào khuyến học được duy trì và đẩy mạnh. Các hoạt động văn hóa, thể dục
thể thao đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và khích lệ toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cũng
được quan tâm đúng mức, phong trào văn hóa văn nghệ trong các năm qua có bước
chuyển biến. Đến nay toàn xã đã có 89,17% hộ gia đình đạt chuẩn văn hoá. Tỷ lệ hộ
nghèo hằng năm giảm, thu nhập bình quân đầu người đạt 22,9 triệu đồng/người/năm.
100% hộ sử dụng điện, 96% hộ sử dụng nước sinh hoạt, tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh
86%. Diện tích đất được tưới tiêu bằng hệ thống bơm điện đạt tỉ lệ 97,7%, diện tích
gieo trồng lúa bằng cơ giới đạt 71,4%. Đến 8/2013, Vĩnh Châu là một trong những đơn
vị đầu tiên của tỉnh được công nhận “Xã đạt chuẩn nông thôn mới”, đạt 19/19 tiêu chí,
37/37 chỉ tiêu theo bộ tiêu chí quốc gia; đạt 20/20 tiêu chí và 57/57 chỉ tiêu của tỉnh.
Vậy, những nhân tố nào tạo nên những thành quả to lớn mà xã Vĩnh Châu đạt được?
Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã đối với quá trình xây dựng nông thôn mới? Những
kinh nghiệm nào cần được nhân rộng ?


3


Với những câu hỏi trên, tôi quyết định chọn đề tài “ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH
CHÂU (CHÂU ĐỐC, AN GIANG) LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn được nhiều nhà khoa học đầu tư
nghiên cứu. Có thể kế đến một vài công trình nghiên cứu sau đây:
- Những vấn đề nổi bật của sản xuất trong khu vực nông nghiệp và khuyến
nghị chính sách của tác giả TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn thuộc Viện Chính sách và chiến
lược phát triển nông nhiệp nông thôn.
- Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam của tác giả Vũ Văn Nâm (luận
văn Ths ngành Kinh tế chính trị, trường Đại học kinh tế, 2009)
- Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Lý luận và thực tiễn
của tác giả Đỗ Mai Thành (Tạp chí cộng sản online, 2012).
- Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới
do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn biên soạn (2011).
Các công trình nghiên cứu đã trình bày khái quát về quá trình xây dựng nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam, đồng thời nêu lên những định hướng cho sự phát triển
nông thôn. Tuy nhiên, tìm hiểu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã Vĩnh Châu về vấn
đề xây dựng nông thôn mới thì chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng biệt, chủ
yếu mới được đề cập khái quát qua các nghị quyết, báo cáo của Đảng ủy xã, Uỷ ban
nhân dân xã. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU (CHÂU ĐỐC,
AN GIANG) LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI” là cần thiết, có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những nhân tố góp phần xây dựng thành công nông thôn mới của xã
Vĩnh Châu.
- Khóa luận làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã Vĩnh Châu trong xây dựng
nông thôn mới.

- Những thành tựu đạt được, kinh nghiệm và bài học rút ra từ thực tiễn của quá
trình xây dựng nông thôn mới.


4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở xã Vĩnh Châu, những nhân tố tác động
đến quá trình xây dựng nông thôn mới.
- Nghiên cứu vai trò lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ xã
Vĩnh Châu.
- Nghiên cứu những thành tựu và hạn chế, những bài học kinh nghiệm trong quá
trình xây dựng nông thôn mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Là khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, khóa luận tâp trung nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã
Vĩnh Châu, những thành tựu, hạn chế, những nhân tố tác động trong xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn xã.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm cơ sở nghiên cứu.
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các phương pháp phổ biến như: phương pháp lịch
sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, ….
6. Đóng góp của đề tài
Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền trong quá trình lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn tỉnh An Giang.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu

trúc đề tài gồm 2 chương 5 tiết:
CHƢƠNG 1. ĐƢỜNG LỐI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới
1.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh An Giang về xây dựng nông thôn mới
CHƢƠNG 2. ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH CHÂU LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI
2.1 Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội xã Vĩnh Châu
2.2 Đảng bộ xã Vĩnh Châu lãnh đạo xây dựng nông thôn mới
2.2.1 Chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ xã Vĩnh Châu
2.2.2 Quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã


5

2.2.2.1 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí quy hoạch
2.2.2.2 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí hạ tầng kinh tế - xã hội
2.2.2.3 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất
2.2.2.4 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí văn hóa – xã hội – môi trường
2.2.2.5 Lãnh đạo thực hiện nhóm tiêu chí xây dựng hệ thống chính trị
2.3 Những bài học kinh nghiệm


6

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1 Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới
1.1.1 Vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong công cuộc giải

phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc
1.1.1.1 Vai trò của giai cấp nông dân
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông
nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề khác mà
tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông
dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có
vị trí, vai trò nhất định trong xã hội. Giai cấp nông dân bao gồm những tập đoàn người
sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ và cho phú nông trong nông nghiệp dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất. Tính chất "tự túc, tự cấp", "tự sản, tự tiêu" và
sự giới hạn phạm vi địa lí trong làng xã, nông trại địa phương chính là đặc tính của
nông nghiệp sản xuất nhỏ và của giai cấp nông dân. Họ lao động rất cần cù, chịu khó,
tạo ra lương thực thực phẩm nuôi sống con người, cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp và hàng xuất khẩu. Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan
trọng, là lực lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng xã hội hủ
nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao
động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra lịch sử xã hội. Vận dụng
quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Đảng và Bác
Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng cách mạng to lớn, là người bạn đồng minh
tự nhiên, tin cậy, trung thành của giai cấp công nhân. Nông dân và công nhân là đội
quân chủ lực của cách mạng “là gốc cách mệnh”. Từ những năm 20 của thế kỷ XX,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định cần phải thu hút đại bộ phận giai cấp
nông dân vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tại Hội nghị Quốc tế
Nông dân lần thứ nhất (1923), Người nói rõ: “Tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng
Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế thật sự khi mà không những nông
dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là
những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc
tế…”.[14, tr.212] Năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người còn nêu ra:

“Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh.


7

1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn. 2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức
mạnh hơn hết. 3. Là vì công nông là người tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất
một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Vì những cớ ấy,
nên công nông là gốc cách mệnh”[15, tr.266]. Đến năm 1930, trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng do Người soạn thảo cũng xác định rõ: “Đảng phải lôi cuốn đại đa số dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng, đồng thời phải
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ đi cùng giai cấp vô sản. Đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản chưa rõ mặt phản cách mạng thì cũng phải lợi
dụng, ít ra cũng phải làm cho họ trung lập. Trong khi liên lạc với các giai cấp, không
được nhân nhượng lợi ích của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Chủ trương trên
cho thấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đã nắm chắc tình hình thực tiễn Việt
Nam, đánh giá đầy đủ và đúng đắn vị trí, vai trò, khả năng của các giai cấp, tầng lớp
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhưng trong điều kiện như nước ta, một nước thuộc địa, phong trào cách mạng
thực sự phải là một phong trào dân tộc mà trong đó đội quân chủ lực phải bao gồm hai
lực lượng cơ bản là công nhân và nông dân. Có dựa trên lực lượng cơ bản vững chắc
đó, Đảng ta mới có khả năng mở rộng đội ngũ cách mạng tới các giai cấp và tầng lớp
khác có tinh thần yêu nước trong dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm nông dân nước ta,
Đảng rất quan tâm giáo dục nông dân, lãnh đạo họ đi theo cách mạng, từng bước đem
lại quyền lợi thiết thân cho nông dân, xây dựng củng cố khối liên minh công nông
thành đạo quân chủ lực của cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi
hướng mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc và tay sai, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến
quyền lợi của nông dân. Trong những năm 1945-1952, Đảng dùng biện pháp cải cách
từng bước để đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân theo một đường lối riêng biệt

của Việt Nam. Đến năm 1953, Đảng chủ trương phát động nông dân triệt để giảm tô
và tiến hành thí điểm cải cách ruộng đất ở một số xã trong vùng tự do ngay trong
kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Năm nay, chúng ta phải kiên quyết thực
hiện triệt để giảm tô. Muốn vậy, phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm cho
quần chúng tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô… Sau khi giảm tô,
giảm tức, quần chúng đã được phát động, tổ chức đã vững chắc, lực lượng đã đầy đủ,
ưu thế chính trị đã về tay nông dân lao động, đa số nông dân đã yêu cầu thì sẽ thực
hiện cải cách ruộng đất”. Từ Thông tư giảm tô 25% của Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ ngày
20-11-1945 đến Sắc lệnh giảm tô của Chính phủ ngày 14-7-1949, đã đem lại cho nông
dân 177.000ha ruộng, trong đó có 18.400ha ruộng tịch thu của thực dân Pháp,
39.600ha ruộng của địa chủ và 119.000ha ruộng đất công. Cuối năm 1955, Đảng ta đã
phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất, đem lại cho giai
cấp nông dân nước ta 456.000ha ruộng và xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ


8

phong kiến. Cũng trong thời kỳ ấy, từ Quảng Trị, Thừa Thiên đến Nam Bộ, nông dân
được chia cấp trên 750.000ha ruộng đất. Ở nhiều nơi địa tô phong kiến đã giảm 25%
so với mức cũ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng miền Nam sở
dĩ có sức mạnh to lớn là vì nhân dân miền Nam mà lực lượng đông đảo là nông dân đã
được hưởng những quyền lợi của cách mạng đưa lại, là vì Đảng đã kết hợp một cách
sáng tạo hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong điều kiện chống chủ nghĩa thực dân
mới của đế quốc Mỹ.
Nắm vững vai trò và khả năng cách mạng của giai cấp nông dân nước ta, Đảng
ta chẳng những có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, mà còn sáng tạo ra
phương pháp cách mạng thích hợp với khả năng và truyền thống cách mạng của nông
dân nước ta. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng
minh rằng, liên minh công nông đã làm cho uy tín và sức mạnh của giai cấp công nhân
vượt xa số lượng; làm cho giai cấp nông dân phát huy mạnh mẽ truyền thống và khả

năng cách mạng của mình; là cơ sở củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; là
nền tảng vững chắc để xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân; là cơ sở để xây dựng
quân đội nhân dân; là điều kiện cần thiết để chuyển cách mạng dân tộc dân chủ lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta, hai nhiệm
vụ phản đế và phản phong có quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không thể tiến hành
song song nhất loạt ngang nhau. Khăng khít với nhau là vấn đề chiến lược, không tiến
hành song song nhất loạt ngang nhau là vấn đề sách lược. Giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược nói trên đảm bảo cho Đảng ta ngăn ngừa và kịp
thời sửa chữa những sai lầm “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh” trong việc thực hiện
đường lối cách mạng; đồng thời cũng tránh được sự rập khuôn máy móc kinh nghiệm
của nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng phát triển thắng lợi.
Từ cuối năm 1954, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và nhất là sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta nhận định rằng, nếu trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, liên minh công nông có nhiệm vụ lịch sử là đánh thắng đế quốc xâm lược và
giai cấp địa chủ phong kiến, thì trong cách mạng xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ lịch sử
mới là chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, đưa đất nước tiến lên con đường xã hội chủ
nghĩa. Có nắm vững mục đích ấy mới giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân. Quá độ
lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là con đường mới mẻ chưa có tiền lệ trong lịch sử. Muốn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử
đó, Đảng phải biết phát huy những nhân tố quyết định nhất cho thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó vấn đề nông dân có tầm quan trọng đặc
biệt.[4, tr.245]
Và ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp
nông dân ngày càng có vai trò quan trọng góp phần vào việc thực hiện công cuộc đổi


9

mới. Nông dân không chỉ là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải cho xã hội, nuôi

sống xã hội mà còn là động lực cho sự phát triển của xã hội, là nhân tố cơ bản cho quá
trình tiến hành thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nước
Việt Nam ngày một phát triển và giàu mạnh .
1.1.1.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để
trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao
động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống có từ lâu đời của nước ta, bao gồm nhiều
ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản, lâm nghiệp, thủy sản. Nông thôn là phần
lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã. Nơi đây có sự đa dạng về thành phần dân
tộc, lưu giữ và bảo tồn các phong tục tập quán của cộng đồng người. Nông nghiệp,
nông thôn ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là yếu tố cơ
bản góp phần phát triển đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với nhận
thức sâu sắc về đặc điểm của nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Ngay từ khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến kinh tế nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm
điểm xuất phát. Bởi “nước ta là nước nông nghiệp…, muốn phát triển công nghiệp,
phát triển kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”.
Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) khẳng định: “Trong nền kinh tế quốc dân miền
Bắc, nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng; nông dân lao động là một lực lượng
sản xuất to lớn. Muốn đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải đi từ
nông nghiệp, phải dựa vững vào lực lượng của nông dân lao động và phát huy tính tích
cực cách mạng của họ”[30, tr.3]. Đến Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982), Đảng tiếp
tục đề ra chủ trương: “Tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Đại hội
coi việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ là tạo tiền đề, điều kiện cho công

nghiệp hóa. Để tạo động lực cho người nông dân trong quá trình sản xuất nông nghiệp
và kinh tế nông thôn, Đảng ta đã có những bước đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Đặc biệt, “Khoán 100” (theo chỉ thị 100 của Ban Bí
thư, 1981) và “Khoán 10” (theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, 1988) đã động viên
giai cấp nông dân hăng hái thi đua sản xuất, đưa năng suất, sản lượng lương thực lên
cao chưa từng có. Khoán đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng không chỉ trong nông
nghiệp, mà còn có tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nước


10

ta. Thực tiễn cho thấy, nông nghiệp phát triển đảm bảo cung cấp lương thực, thực
phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, góp phần nâng cao
đời sống người dân. Nông nghiệp, nông thôn còn là nơi tập trung phần lớn lao động và
dân cư, do đó, đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp,
nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất như: thiết bị nông
nghiệp, điện năng, phân bón, thuốc trừ sâu... càng tăng, đồng thời các nhu cầu về dịch
vụ cho sản xuất nông nghiệp như: vốn, thông tin, giao thông vận tải, thương mại...
cũng ngày càng tăng. Mặt khác, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức
sống, mức thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên và nhu cầu của họ về các loại sản
phẩm công nghiệp như ti vi, tủ lạnh, xe máy, vải vóc... và nhu cầu về dịch vụ văn hoá,
y tế, giáo dục, du lịch, thể thao ngày càng tăng lên. Chính vì vậy, nông nghiệp, nông
thôn góp phần đáng kể mở rộng thị trường cho công nghiệp và dịch vụ.
Trong quá trình phát triển, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục
phát triển, đạt được nhiều thành tựu lớn. Sản lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật
nhất là sản lượng lương thực tăng với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là
năm đầu tiên sản lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn
gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Đến năm 2007 sản lượng lương thực đã đạt đến
con số kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD.
Năm 2010, tổng sản lượng lương thực của Việt Nam đạt 44,6 triệu tấn, tăng 1,27 triệu

tấn và tăng 2,9% so với năm 2009; đạt kỷ lục về số lượng và giá trị xuất khẩu gạo với
6,88 triệu tấn kim ngạch xuất khẩu là 3,32 tỷ USD, tăng 15,4% về lượng, trên 21% về
giá trị so cùng kỳ năm 2009. Năm 2011 xuất khẩu 7,2 triệu tấn gạo và các mặt hàng
nông sản nhiệt đới.
Những thành tựu trong nông nghiệp, phát triển nông thôn không chỉ góp phần
quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân
trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp còn góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh
tế, tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
1.1.2 Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể
của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công


11

nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện,
hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều
kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao độ nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà

nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông
nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng
đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định kinh tế - xã hội đất nước. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn
mới là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
phát triển ngày càng hiện đại”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) ra
Nghị quyết số 26-NQ/TW, 05/08/2008 đã nêu một cách toàn diện quan điểm của Đảng
về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn
có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp,
nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu quả.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông
dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với
điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ là nhiệm vụ
của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở
nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xây dựng giai
cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, đảm bảo sự phát
triển hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến
trong khu vực, đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nghị quyết 26/NQTW ngày 05/08/2008 đã nêu một cách tổng quát về mục tiêu,
nhiệm vụ và phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông thôn mới, phù hợp với



12

điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và
phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động
mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện Nghị quyết 26/NQTW, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ về xây
dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh, hiện
đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn,
thị tứ. Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương trình
mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu chung của chương trình
được Đảng ta xác định là: xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị
theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh
thần của người dân ngày càng được nâng cao. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta
khẳng định xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu
rõ phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp tục triển
khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các
bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét văn hóa bản

sắc của nông thôn Việt Nam. Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, chính vì vậy nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới
là sự vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng
bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao
động trí óc để đi đến kết quả cuối cùng là giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ
trở thành những người lao động của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Với những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước cùng với sự phối hợp thực
hiện của các bộ, sở, ban ngành và toàn xã hội đã đưa tiến trình xây dựng nông thôn
mới thực sự trở thành cuộc vận động cách mạng rộng lớn nhằm tạo ra những giá trị


13

mới về kinh tế, văn hóa, xã hội… góp phần thực hiện vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh An Giang về xây dựng nông thôn mới
1.2.1 Khái quát về nông nghiệp, nông thôn và nông dân An Giang
An Giang là tỉnh nằm phía Tây Nam của Việt Nam, là vùng đất đầu nguồn sông
Cửu Long. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, Đông Nam giáp Cần Thơ, phía Tây giáp
Kiên Giang và Tây Bắc giáp Campuchia.
An Giang nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long, là cửa
ngõ giao thương giữa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh với
các nước tiểu vùng sông Mekong, là một trung tâm phát triển kinh tế năng động ở Tây
Nam Bộ. An Giang có nước ngọt quanh năm, nguồn lao động dồi dào. Hai nhánh sông
Tiền và sông Hậu của sông Cửu Long chia phần đồng bằng An Giang thành những cù
lao đất đai màu mỡ. Với diện tích đất nông nghiệp gần 248.000 ha, trong đó, đất trồng
lúa chiếm 91,6% và trồng màu các loại chiếm 8,4%, có thể nói, An Giang là một tỉnh
phát triển nông nghiệp rất thuận lợi. Vì vậy, đối với An Giang, nông nghiệp có vai trò

rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân và bảo đảm
an ninh lương thực quốc gia. Khác với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh
vùng đồng bằng phù sa, An Giang còn có một dãy Thất Sơn hùng vĩ dài 30km, rộng
13km ở các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Nơi đây rất thích nghi cho chăn nuôi gia súc
như bò, dê,... cho phát triển lâm nghiệp. Rừng An Giang có vị trí rất quan trọng trong
việc duy trì môi trường sinh thái ổn định. Rừng tập trung chủ yếu ở hai huyện Tri Tôn,
Tịnh Biên. Có 255 ha rừng tự nhiên thuộc vùng ẩm nhiệt đới, đa số loài cây lá rộng với
154 loài cây quý hiếm thuộc 54 họ phân bổ tự nhiên. Ngoài ra, An Giang còn có hơn
4.000 ha rừng tràm.
Cũng như các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu long, An Giang nằm trong vùng
nhiệt đới gió mùa, có nguồn năng lượng tự nhiên phong phú và nguồn mưa ẩm dồi
dào, có nhiều yếu tố thuận lợi đối với sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Nhiệt độ trung
bình năm 27ºC, cao nhất 35ºC – 36ºC vào tháng 4 – 5, thấp nhất từ 20ºC – 21ºC vào
tháng 12 và tháng 1. Lượng mưa trung bình 1400 – 1500mm, có 2 mùa rõ rệt: mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Điều kiện địa
lý tự nhiên, khí hậu và thủy văn đã ảnh hưởng ít nhiều đến sự phân bố dân cư, đặc
điểm nhân văn và xã hội. Là tỉnh có dân số đông nhất ở đồng bằng sông Cửu Long,
tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh là 2.151.000 người, mật độ dân số 608 người/km².
Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiếu số (dân tộc Khmer, dân tộc Chăm, dân tộc Hoa)
với 114.623 người, chiếm 5,17 % tổng dân số toàn tỉnh đã làm nên một bức tranh tổng
thể đa dạng về văn hóa, phong tục tập quán với những sắc màu riêng, đặc trưng của
từng dân tộc. Là một tỉnh thuần nông, hình ảnh nông dân An giang siêng năng, cần cù


14

và chăm chỉ luôn gắn liền với cây lúa. Bên cạnh đó nông dân An Giang còn mang đậm
nét đặc trưng của người dân vùng Nam bộ đó chính là sự thân thiện, cởi mở và hiếu
khách. Ngày nay nông dân An giang còn là những người năng động, sáng tạo, xóa bỏ
thói quen canh tác theo cảm tính nông dân, hăng say nghiên cứu và biết cách ứng

dụng khoa học – kỹ thuật trong lao động, sản xuất. Vì thế sản lượng làm ra luôn đảm
bảo về số lượng lẫn chất lượng.
Sản xuất nông nghiệp có những chuyển biến tích cực, phát triển tương đối toàn
diện theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh tiếp tục khẳng
định vai trò nền tảng đối với sự phát triển chung của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng khu vực
nông nghiệp bình quân 5 năm giai đoạn 2006 – 2010 đạt 3,77%, riêng năm 2010 đạt
4,19%. Từ sự chủ động hợp tác, liên kết “đi tắt đón đầu” nhận chuyển giao tiến bộ
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học trong lai tạo giống cây, con. Các
trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống cây trồng, giống thủy sản của tỉnh đã lai tạo
thành công nhiều giống lúa, giống thủy sản có năng suất, chất lượng cao, phục vụ yêu
cầu phát triển sản xuất. Chương trình “3 giảm - 3 tăng” trong sản xuất lúa được triển
khai nhân rộng ra trên địa bàn , đến năm 2011 diện tích ứng dụng đạt gần 89% tiến tới
nhân rộng chương trình “1 phải – 5 giảm”. Song song đó, nhiều mô hình, dự án sản
xuất tiên tiến được triển khai thực hiện như: Dự án sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn quốc tế
(GLobalGAP); mô hình canh tác lúa ít thải khí nhà kính; phát động nhân rộng mô hình
“ ruộng lúa bờ hoa”; dự án sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn chất lượng quốc gia(
VietGAP); mô hình nhân nuôi nấm xanh trừ rầy nâu; dự án chăn nuôi gia cầm an toàn
sinh học; đào tạo huấn luyện kỹ năng nuôi thủy sản an toàn chất lượng….Ngoài ra,
thông qua việc thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển, bằng việc hỗ trợ vốn
tín dụng, ngân sách tỉnh cấp bù lãi suất hoặc hỗ trợ một khoảng kinh phí trong thời
gian nhất định, đã góp phần đẩy nhanh tiến độ cơ giới hóa nông nghiệp; khâu làm đất,
tưới tiêu bằng động lực, khâu suốt lúa đã cơ bản thực hiện cơ giới hóa cho toàn bộ
diện tích đất sản xuất; thu hoạch lúa bằng cơ giới phát triển nhanh, đến năm 2010 có
42% diện tích lúa được thu hoạch bằng máy (năm 2007 chỉ đạt 5%); sản lượng lúa
thông qua công nghệ sấy đạt trên 50% sản lượng. Đặc biệt trong 3 năm (2008 – 2010),
số lượng trạm bơm điện đầu tư mới tăng nhanh, diện tích ứng dụng đạt 56% (năm
2007 chỉ đạt 21,7%). Ngoài ra, An Giang còn ban hành nhiều chính sách khuyến khích
và ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn trên cơ sở cụ thể hóa cơ chế, chính
sách của Trung ương (hệ thống cung cấp nước sạch, giáo dục, y tế, văn hóa, chợ…).
Chủ trương trên đã góp phần đáng kể cho việc thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát

triển.
Trong những năm qua, từ nguồn vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ, tỉnh đã bố
trí ngân sách và huy động xã hội hóa nguồn lực đầu tư triển khai thực hiện tốt các
chương trình, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như: đầu tư xây dựng hệ thống


15

thủy lợi; giao thông nông thôn; công nghiệp hóa, hiện đại hóa trường, lớp học; xây
dựng hệ thống y tế tuyến cơ sở; xây dựng cụm, tuyến dân cư để bố trí sắp xếp lại dân
cư vùng nông thôn; đầu tư đưa bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin về đến
nông thôn; xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao xã; xây dựng hệ thống nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn; tăng cường công tác đào tạo dạy nghề cho lao động nông
thôn; tăng cường giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nhờ đó, nông
thôn An Giang phát triển rõ rệt: 58,82% số xã có đường giao thông đến trung tâm đạt
chuẩn; hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và dân sinh; 100%
số xã sử dụng điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng điện thường xuyên
đạt 95%; 97,1% số xã đạt phổ cập giáo dục trung học, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở được tiếp tục học đạt 85%; 98,33% y tế xã đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ người
dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 32,1%; 93,65% số xã có điểm phục vụ
bưu chính viễn thông, 58,82% số xã có internet phủ kín địa bàn tạo điều kiện cho hộ
dân đăng ký nối mạng, truy cập thông tin; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt gần 34%,
trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 23% (tăng 5,9% so năm 2008); tỷ lệ số ấp,
khóm đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định đạt 74%; tỷ lệ người dân nông thôn sử
dụng nước hợp vệ sinh đạt 67,2%, trong đó sử dụng nước sạch theo quy chuẩn của Bộ
Y tế đạt 48,24% (tăng 3,9% so năm 2008); các chỉ tiêu về hệ thống chính trị - xã hội
cơ bản đạt yêu cầu. Công tác đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
được đặc biệt quan tâm. Tính từ năm 2008 đến tháng 6/2010, đã tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng cho 4.243 cán bộ, công chức; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nông
thôn được giữ vững; công tác hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được

các ngành, các cấp tập trung giải quyết kịp thời, thấu tình đạt lý.
Cùng với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần
của người nông dân cũng không ngừng được nâng cao. Thu nhập GDP bình quân đầu
người năm 2010 đạt gần 1.141 USD tăng 24,8% so với năm 2008; trong đó, thu nhập
bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 14,1 triệu đồng/năm, tăng 18,5% so với
năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm, đến cuối năm 2010 còn 3,59%. Công tác
đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn được triển khai thực hiện tốt: tỷ lệ lao động
qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt gần 34% (tăng 6,9% so với năm 2008); trong đó
qua đào tạo nghề đạt 23% (tăng 5,9% so với năm 2008); thông qua đào tạo, tập huấn,
trình độ sản xuất của nông dân từng bước được nâng lên và sản xuất có hiệu quả hơn,
nhiều lao động nông thôn chuyển sang làm việc ở các ngành nghề kinh tế khác; góp
phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông
nghiệp, đến năm 2010 còn 57,8% (giảm 2,2% so với năm 2008), tăng lao động cho các
ngành kinh tế khác. Chính sách an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, kịp thời, tâp
trung lo cho các đối tượng nghèo, rủi ro, đối tượng bảo trợ xã hội. Chính sách hỗ trợ
về nhà ở và hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc nghèo


16

theo chủ trương cùa Chính phủ được triển khai thực hiện tốt. Các chương trình mục
tiêu quốc gia về giáo dục, y tế được tăng cường, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao ở
nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và
tinh thần của nông dân.
Tuy đạt được những kết quả trên, song An giang còn tồn tại nhiều mặt hạn chế
và khó khăn như:
Sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự phát, chất lượng hàng hóa nhìn chung
còn thấp, sức cạnh tranh kém.
Đối phó với lũ lụt hàng năm ở An Giang hiện đang còn là vấn đề hết sức bức
xúc, có liên quan đến sự phát triển các mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Chống lũ,

tránh lũ, né lũ hay sống cùng lũ là việc phải giải quyết vô cùng khó khăn, gian khổ và
phức tạp.
Các hình thức sản xuất còn chậm đổi mới. Các mô hình liên kết sản xuất theo
cánh đồng mẫu tuy đem lại hiệu quả cao nhưng còn chậm nhân rộng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi đó nhiều công trình
cấp thiết, thuộc diện đầu tư của ngân sách nhà nước như đường giao thông, nhà văn
hóa, hệ thống điện, nước, xử lý rác thải đang thiếu vốn trầm trọng nên chưa triển khai
được.
Công tác xóa đói giảm nghèo tuy đã được đảm bảo, tỷ lệ hộ nghèo có giảm
nhưng thiếu vững chắc. Tình hình tái nghèo, phát sinh nghèo còn cao. Thu nhập bình
quân đầu người khu vực nông thôn tuy có tăng, nhưng nhìn chung còn thấp; khu vực
nông thôn tuy có phát triển, nhưng còn nhiều tiêu chí chưa đạt hoặc mức độ đạt được
còn thấp. Thu nhập người dân tuy có nâng lên nhưng chưa cao, đời sống còn gặp nhiều
khó khăn, vất vả.
Chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng vận động cộng đồng của một số cán bộ,
công chức còn những mặt hạn chế. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn hạn hẹp. Mặt khác, việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư
hàng năm còn dàn trải, thiếu tập trung. Một số cơ chế, chính sách chưa kịp thời điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Vấn đề đặt ra ở đây cho Đảng bộ và nhân dân An Giang đó là làm sao để phát
huy tối đa những thuận lợi và từng bước khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu
kém để mang lại sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế- xã hội. Tạo tiền đề, nền tảng để An
Giang xây dựng thành công nông thôn mới.
1.2.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh An Giang về xây dựng nông thôn mới
Xuất phát từ thực tiễn địa phương và bám sát tinh thần Nghị quyết số 26NQ/TW ngày 05/08/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X "Về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn"; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16-4-2009 của Thủ tướng


17


Chính phủ về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về "Xây dựng nông thôn mới" và
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Tỉnh ủy An Giang
đã tập trung chỉ đạo các cơ quan hữu quan lập chương trình, kế hoạch, đề án sao cho
phù hợp với thực tiễn của địa phương. Trong đó kế hoạch số 18-KH/TU đã khẳng định
vị trí chiến lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; giải quyết đồng bộ vấn đề tam nông gắn với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, Kế hoạch cũng nêu rõ quan điểm: “Gắn phát triển kinh tế với xây
dựng nông thôn mới dựa trên cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trên cơ
sở sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, vốn, lao động, phát huy cao nội lực và huy
động các nguồn lực xã hội; tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh,
trong đó chú trọng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đào tạo dạy nghề, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, vị thế của nông dân”, “xây dựng xã hội
nông thôn ổn định, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc”
[19]. Ban chấp hành Đảng bộ cũng đã đề ra trong Kế hoạch những mục tiêu phát triển
cụ thể đến năm 2020: tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn;
xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hoàn chỉnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp chế biến, ngành nghề, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch, môi trường
sinh thái được bảo vệ; xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về chính trị, tổ chức và
là lực lượng nòng cốt trong phong trào nông dân [19].
Cùng với việc ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 15-9-2011 về "Xây
dựng nông thôn mới", Tỉnh ủy An Giang đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn xây dựng "Chương trình nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2015"
và "Đề án xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020" (trong đề án này tỉnh đã bổ
sung thêm 1 tiêu chí là "ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, thực hiện cơ giới hóa
nông nghiệp" để sát với thực tiễn địa phương). Việc lập đề án và lập quy hoạch xây
dựng nông thôn mới được thực hiện đúng theo quy trình, dân chủ, công khai.

Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX xác định mục tiêu tổng quát trong 5
năm (2010 - 2015): tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý
của Nhà nước, phát huy thế mạnh về dịch vụ và kinh tế biên giới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tạo nền tảng để đến năm 2015 An Giang phát
triển toàn diện, đạt mức trung bình của cả nước. Đại hội khẳng định quan điểm phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, nhưng phải lấy “công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn làm nền tảng”, “phát triển mạnh dịch vụ và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp”, cần phải “ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật,


18

trước hết là hạ tầng giao thông, hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”
[20, tr.35]. Để phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với thực hiện có hiệu quả chương trình “Tam nông”, Đại hội chủ trương phải
xây dựng, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển nông thôn mới phù
hợp với thế mạnh của từng vùng, hình thành vùng chuyên canh; xây dựng và triển khai
chương trình “Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn” gắn với lộ trình xã đạt
chuẩn nông thôn mới, hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp; sớm
tổ chức lại sản xuất với các hình thức liên kết thích hợp theo chuỗi giá trị từ sản xuất
đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng; phát triển mạnh 03 nhóm sản
phẩm chiến lược của tỉnh là gạo, cá nước ngọt và rau màu; đẩy mạnh đầu tư cơ giới
hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ nhất là công
nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; triển khai có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho
lao động nông thôn; tập trung và từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn [20, tr.40-42]. An Giang cần tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nhất là tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học-công nghệ, hoàn
thiện cơ sở hạ tầng, phục vụ sản xuất, bảo quản, chế biến sau thu hoạch. Ðổi mới quan
hệ sản xuất, thúc đẩy phát triển mạnh các hình thức kinh tế: tập thể, doanh nghiệp cổ
phần trong nông nghiệp, nông thôn để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và kinh

tế ở nông thôn. Tỉnh cần đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế-xã hội, quy hoạch về sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị, gắn với quy
hoạch phát triển nông thôn mới. Tập trung đầu tư hoàn thiện từng bước hiện đại hóa
kết cấu hạ tầng, nhất là nâng cấp mở rộng các tuyến giao thông nội tỉnh, gắn kết với
giao thông liên tỉnh, tạo điều kiện mở rộng liên kết với các tỉnh, thành trong cả nước
và tăng cường hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh phát
triển thương mại-dịch vụ và công nghiệp.
Huy động nhiều nguồn lực để giảm nghèo một cách bền vững; gắn việc giảm
nghèo với việc xây dựng nông thôn mới, nếp sống mới. Mở rộng hệ thống y tế, đặc
biệt là y tế ở cơ sở để chăm lo tốt hơn sức khỏe cho cộng đồng tại địa bàn dân cư, chú
ý thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh cho người nghèo, người già, trẻ em, đối tượng
chính sách, đồng bào các dân tộc thiểu số. An Giang cần chăm lo phát triển giáo dụcđào tạo, nâng cao dân trí. Phải xây dựng Ðảng từ tỉnh đến cơ sở trên cả ba mặt: chính
trị, tư tưởng và tổ chức thật sự vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX tiếp
tục xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, hướng đến
một nền kinh tế xanh, sạch. Trong đó, coi trọng kinh tế biên mậu, xuất khẩu, du lịch,


19

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn làm nền tảng phát triển kinh
tế-xã hội bền vững, phát triển mạnh dịch vụ và công nghiệp phục vụ nông nghiệp, phát
triển công nghiệp phục vụ tiêu dùng, du lịch và xuất khẩu. Nghị quyết số 05-NQ/TU
ngày 15-9-2011 về "Xây dựng nông thôn mới" đã đặt ra những mục tiêu, chỉ tiêu cụ
thể như sau:
Đến năm 2015 tăng mức thu nhập người dân vùng nông thôn lên gấp 02 lần so
với năm 2010; giảm tỉ lệ hộ nghèo bình quân 2%/năm đến năm 2015 còn 5%; 100% số

xã, thị trấn có đường giao thông về đến trung tâm đạt chuẩn; hoàn thiện hệ thống giao
thông - thủy lợi nội đồng phục vụ cho 40% diện tích đất sản xuất; nâng tỉ lệ trường học
các cấp có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia đạt 50%...
Đến năm 2020, tăng mức thu nhập người dân vùng nông thôn lên gấp 4,5 lần so
với năm 2010; giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3% (theo tiêu chí hộ nghèo tại thời điểm);
50% số đường giao thông từ xã về đến ấp, đường liên ấp đạt chuẩn; diện tích sản xuất
có hệ thống giao thông - thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh đạt tỷ lệ 50%; 100% số trường
học các cấp có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia…Phương hướng xây dựng nông thôn
mới theo hướng văn minh, hiện đại; phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, bền
vững; nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất hiệu quả; củng cố thành quả "đi tắt đón
đầu" nhận chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, tiếp cận thận trọng và bài bản
việc ứng dụng khoa học công nghệ cao nhằm mở trần tăng trưởng mới trong nông
nghiệp…
Để việc thực hiện đạt được hiệu quả các mục tiêu, chỉ tiêu trên, Đảng bộ đã đề
ra các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, bền vững: chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng dịch vụ, nông nghiệp và công nghiệp; xây dựng hoàn chỉnh, quản lý tốt
quy hoạch sử dụng đất, nhất là, quy hoạch sử dụng đất lúa; thực hiện đầu tư thâm
canh, tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu sản xuất vụ lúa hè thu ở những vùng trồng lúa kém
hiệu quả, chú trọng phát triển sản xuất vụ thu đông ở những vùng có điều kiện; đẩy
mạnh tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp; củng cố, đổi mới hoạt động các hợp tác
xã và tổ chức hợp tác hiện có; phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng phát triển
công nghệ cao, tạo ra số lượng hàng hóa đảm bảo chất lượng, sức cạnh tranh cao với
hàm lượng giá trị trí tuệ trong sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng; triển khai thực
hiện tốt các Đề án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
nông thôn đến năm 2020; Đề án phát triển thương mại nông thôn đến năm 2020;
chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề đến năm 2020…
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn từng bước hiện đại: làm tốt
công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới, phù hợp, đồng bộ với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Triển khai thực hiện tốt Đề án xây dựng nông



20

thôn mới đến năm 2020; xây dựng Quy hoạch bố trí dân cư đến năm 2015; tiếp tục
triển khai thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn, thực hiện chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư xây dựng hệ
thống cấp nước sạch…
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân: quan tâm phát triển
nguồn nhân lực cho nông thôn qua nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp
học, bậc học; chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn; thực hiện tốt công tác
bảo hiểm y tế toàn dân đến năm 2015 đạt 90%, tiến tới công bằng trong chăm sóc sức
khỏe, giảm tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh tật, tăng tuổi thọ…
Tăng cường công tác giáo dục, vận động, tuyên truyền: Tiếp tục triển khai thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Kế
hoạch số 18-KH/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về "nông nghiệp, nông dân,
nông thôn"; gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới và Chương trình trọng điểm
của tỉnh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về "phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn"…
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và
phát huy vai trò các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội: Công tác lãnh đạo của Đảng
và quản lý của chính quyền ở nông thôn phải được bàn bạc dân chủ, công khai, giáo
dục thuyết phục, hướng dẫn nhân dân thực hiện và chấp hành các chính sách của
Đảng, luật pháp của Nhà nước; chính quyền ở nông thôn thực hiện tốt chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chăm lo các phúc lợi xã hội, giải quyết
việc làm, chỉ đạo quy hoạch làng xã, xây dựng kết cấu hạ tầng, giữ gìn trật tự trị an và
xây dựng ngân sách xã ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới;
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã đạt chuẩn; xây dựng đủ các tổ chức trong hệ
thống chính trị, có năng lực hoạt động tốt, đáp ứng được yêu cầu phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới…

Những chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp mà Đảng bộ đã đề ra tại Đại hội
Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX và Nghị quyết 05-NQ/TU về xây dựng nông thôn
mới đã thể hiện việc nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn của Đảng bộ tỉnh An Giang
về vai trò của nông thôn mới. Những chủ trương, định hướng này là điều kiện cần
thiết, tạo nên môi trường thuận lợi để thực hiện thắng lợi Chương trình miêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới. Đồng thời đây chính là cơ sở để mỗi địa phương xác định
phương hướng xây dựng nông thôn mới đúng đắn và thực sự phù hợp.


×