Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc thiểu số từ năm 1996 đến 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.95 KB, 90 trang )

LUẬN VĂN:
Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo công tác đào
tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật người dân tộc
thiểu số từ năm 1996 đến 2004


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vấn đề dân
tộc là một trong những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng và thực hiện chính
sách dân tộc với những nguyên tắc cơ bản là: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ
nhau cùng phát triển”. Biểu hiện của nguyên tắc đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH là việc tập trung xây dựng vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh về kinh tế,
văn hóa, xã hội, vững mạnh về chính trị, an ninh-quốc phòng, xứng đáng với vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng của cả nước.
Để đưa vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh và bền vững tiến kịp miền xuôi,
làm cho đồng bào DTTS được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải có đội ngũ cán bộ. Việt Nam
đang ở trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH do đó KHKT là một
nguồn lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH. Điều này khẳng định, vận hội cũng như
nguy cơ của vùng dân tộc và miền núi gắn liền với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ DTTS nói chung và cán bộ KHKT người DTTS nói riêng đủ về số lượng đảm bảo
về chất lượng. Chính đội ngũ cán bộ này là lực lượng nòng cốt, hạt nhân đưa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, lãnh đạo đồng bào các
DTTS từng bước làm chủ quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Họ đem sự
hiểu biết KHKT của mình truyền bá rộng rãi cho đồng bào DTTS. Họ là những chiến sỹ
trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và KHKT; góp tài góp sức để cải tiến bộ mặt xã hội của
vùng đồng bào DTTS, làm cho đồng bào mình sản xuất và công tác theo khoa học và đời
sống của chính họ được văn minh. Cán bộ KHKT người DTTS còn là cầu nối giữa đảng
và dân, là một trong những “kênh” làm cho Đảng gắn bó với dân, gần gũi với dân. Vai trò


của cán bộ KHKT người DTTS không chỉ thể hiện trong phát triển kinh tế mà còn đảm
bảo cho việc giữ vững an ninh-quốc phòng.
ĐăkLăk là một tỉnh miền núi thuộc Tây Nguyên, tại thời điểm trước khi chia tách
thành hai tỉnh (ĐăkLăk và ĐăkNông) có 44 dân tộc anh em chung sống, chiếm 29,5%


tổng dân số cả tỉnh, trong đó 19,31% là đồng bào DTTS tại chỗ. ĐăkLăk có một vị trí
chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng.
Quán triệt chính sách dân tộc của Đảng cũng như nhận thức được tầm quan trọng
của KHKT đối với sự phát triển của tỉnh, trong quá trình lãnh đạo Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk
đã tập trung chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS nhằm khai thác có hiệu
quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, từng bước xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc, góp phần xây dựng CNXH
và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, từ năm 19962004 ở ĐăkLăk đã diễn ra hai cuộc bạo loạn chính trị năm 2001 và 2004, điều đó bộc lộ
một số tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở ĐăkLăk mà trước hết là
sự yếu kém về đội ngũ cán bộ DTTS nói chung và cán bộ KHKT người DTTS nói riêng.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ
KHKT người DTTS một cách khoa học, đúng đắn và toàn diện sẽ giúp chúng ta rút ra
được những kinh nghiệm có tính khả thi để lãnh đạo, chỉ đạo việc đào tạo nguồn nhân lực này
một cách có hệ thống nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH bảo đảm cho chính trị, an ninhquốc phòng được giữ vững, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống về vật chất và tinh thần
cho đồng bào DTTS.
Xuất phát từ những lý do trên, Tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo
công tác đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật người dân tộc thiểu số từ năm 1996 đến
2004” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài như:
- Bộ Khoa học công nghệ và môi trường (1996), Chiến lược CNH, HĐH đất nước
và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc
thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- PGS.TS. Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc
và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- PTS. Danh Sơn (1999), Quan hệ giữa phát triển khoa học công nghệ với phát
triển kinh tế-xã hội trong CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Ủy Ban khoa học xã hội Việt Nam, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân ĐăkLăk (1990),
Vấn đề phát triển kinh tế xã hội các dân tộc thiểu số ở ĐăkLăk, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
- TS. Lê Phương Thảo, PGS, TS. Nguyễn Cúc, TS. Doãn Hùng (2005), Xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH - Luận cứ
và giải pháp, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Một số luận văn, luận án chuyên ngành Triết học, Lịch sử có bàn đến nội dung của
đề tài:
- Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc), Luận án tiến sỹ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Ngọc Đại (2008), Quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng bộ các tỉnh Nam Tây Nguyên từ năm 2001-2006, Luận văn thạc sỹ Lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Nhị Hòa (2002), Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số trong hệ thống chính trị cấp cơ sở thời kỳ đổi mới (1986-2000), Luận văn
thạc sỹ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Đức Kiên (2006), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa
học, kỹ thuật ở miền Bắc 1960-1975, Luận văn thạc sỹ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Tứ (1993), Mấy vấn đề chủ yếu của chính sách giáo dục và đào tạo

đối với các đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Bài viết của nhiều tác giả được đăng tải trên các tạp chí như:


- Đặng Ngọc Dinh (1998), “Vấn đề định hướng chiến lược phát triển khoa học
công nghệ nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 35.
- Lại Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Mỹ Trang (2005), “Chính sách cử tuyển - Một chủ
trương đúng trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục,
đào tạo ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr. 27.
- Nguyễn Đình Hòa (2004), “Vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển của xã
hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (21), tr. 31.
- GS.VS. Đặng Hữu (1990), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa họccông nghệ”, Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 2.
- Nguyễn Hữu Ngà (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu số
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Tạp chí Dân tộc học, (3), tr. 50.
- Vũ Thị Hoài Nghiêm (2008), “Phát triển giáo dục và đào tạo trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số”, Tuyên giáo, (2), tr. 44.
Những tài liệu nêu trên chỉ đề cập đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS
nói chung ở các cấp và các địa phương khác nhau, cũng như vai trò của khoa học kỹ thuật
trong giai đoạn hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk đối với công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS từ năm 19962004. Tuy nhiên, những công trình khoa học, bài viết kể trên là cơ sở để tác giả tham
khảo và kế thừa trong việc thu thập, xử lý nguồn tài liệu và phương pháp luận trong quá
trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Tổng kết những kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn có thể bước đầu vận
dụng vào việc xây dựng nguồn nhân lực cán bộ KHKT người DTTS trên địa bàn tỉnh
ĐăkLăk đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Nhiệm vụ
- Trình bày một số quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam, Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk về công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS từ năm 1996
đến 2004.


- Phân tích và làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk chỉ đạo công tác đào
tạo cán bộ KHKT người DTTS thời kỳ 1996-2004.
- Nêu lên những thành tựu, hạn chế và tổng kết kinh nghiệm của Đảng bộ trong
quá trình lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS ở tỉnh ĐăkLăk thời kỳ
1996-2004.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2004.
Nội dung: Đường lối lãnh đạo và tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo cán
bộ KHKT người DTTS.
Địa bàn khảo sát chủ yếu: 2 cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk là Trường Đại
học Tây Nguyên và Trường Cao đẳng Sư phạm; cán bộ KHKT người DTTS có trình độ
từ cao đẳng trở lên đang công tác tại các sở, ban, ngành, viện, trường, các tổ chức, đoàn
thể xã hội, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk (trừ các đơn vị lực lượng vũ trang).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về
chính sách dân tộc, cán bộ dân tộc và KHKT, cán bộ KHKT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành như thống kê, so sánh, đồng đại,
lịch đại, phân tích, tổng hợp …
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Giải đáp những vấn đề còn tồn tại trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh ĐăkLăk về công tác đào tạo cán bộ DTTS và cán bộ KHKT người DTTS - Một vấn
đề chưa được nghiên cứu nhiều.
- Cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách của

Tỉnh ủy, UBND tỉnh ĐăkLăk nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung về công tác
đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS.


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Tổng kết những kinh nghiệm có tính định hướng để nâng cao nhận thức, chất
lượng và hiệu quả của công tác đào tạo cán bộ DTTS nói chung và cán bộ KHKT người
DTTS nói riêng ở ĐăkLăk.
- Kết quả của luận văn góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề
của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.


Chương 1
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐĂKLĂK VỀ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO CÁN BỘ KHOA HỌC - KỸ THUẬT
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (1996-2004)

1.1.

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ

HỘI CỦA TỈNH ĐĂKLĂK
Tỉnh ĐăkLăk nằm ở phía Tây Nam của dãy Trường Sơn, phía Bắc giáp với tỉnh
GiaLai; phía Nam giáp với hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước; phía Đông giáp với hai
tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, phía Tây giáp với Vương quốc Cămpuchia. ĐăkLăk có
nhiều tuyến giao thông quan trọng nối liền với các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền
Trung, miền Đông Nam Bộ và tỉnh Munđunkiri (Cămpuchia).

ĐăkLăk nằm ở trung tâm Cao Nguyên, với diện tích là 13.125 km2 và ở độ cao
trung bình là 500m so với mặt nước biển, trong đó diện tích đất lâm nghiệp có
1.019.847ha, đất nông nghiệp diện tích 28.906ha, đất trồng cây lâu năm 160.488ha và
hàng vạn hécta đồng cỏ, có nhiều cánh đồng cỏ chạy dài, nhiều đầm hồ rộng lớn (lớn
nhất là hồ Lăk với diện tích 750ha, hồ EaSoup với diện tích 400ha), Hệ thống sông suối ở
ĐăkLăk khá phong phú, lớn nhất là sông Sêrêpốc. Do đó, tiềm năng thủy điện cũng là
một thế mạnh của ĐăkLăk. Việc xây dựng các công trình thủy điện sẽ làm tăng sản lượng
điện, góp phần phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu trên địa bàn tỉnh theo hướng tăng
dần tỷ trọng công nghiệp, tạo tiền đề cho giao thông phát triển, giao lưu văn hóa xã hội, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho đồng bào các
dân tộc. Quan trọng nhất là nó mở ra cơ hội cho các dân tộc tiếp xúc với đời sống hiện đại và
dần từng bước xóa bỏ các thủ tục lạc hậu.
Vùng Cao Nguyên Buôn Ma Thuột và các khu vực phụ cận có địa hình tương đối
bằng phẳng, đất đai phì nhiêu. Diện tích đất đỏ bazan ở ĐăkLăk có hơn 704.000ha, có
diện tích rừng và đất rừng lớn nhất đất nước với 1.215.000ha (chiếm 62,2% diện tích đất
tự nhiên), có nhiều tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng như Vườn Quốc gia YokĐôn;
Với thế mạnh về tài nguyên đất đai, rừng, lâm sản, ĐăkLăk là vùng đất phù hợp cho phát


triển cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là các loại cây có giá trị xuất khẩu cao như cao
su, cà phê … chăn nuôi đại gia súc và kinh doanh tổng hợp nghề rừng.
Khí hậu ở ĐăkLăk tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình hàng năm là 240C.
Lượng chiếu sáng dồi dào với cường độ tương đối ổn định, lượng mưa trung bình 1700 2000mm/ năm. Độ ẩm trung bình 81%, khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11 chiếm trên 70% lượng mưa cả năm, thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh từ cấp 4
đến cấp 6, lượng bốc hơi lớn gây ra khô hại nghiêm trọng. Vì vậy, yếu tố giữ và cấp nước
trong mùa khô có vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
ĐăkLăk là tỉnh còn trữ lượng lớn tài nguyên, khoáng sản chưa được khai thác
nhiều như: chì, vàng, sét cao lanh, than bùn, … nhưng đáng kể nhất là quặng bôxít tự
nhiên có trữ lượng khoảng 5,4 tỷ tấn với hàm lượng ôxít nhôm khoảng 35-40%, sét cao

lanh trữ lượng 60 triệu tấn phân bổ ở Ma’Đrắc, Buôn Ma Thuột, Sét làm ngói trữ lượng
trên 50 triệu tấn tập trung ở huyện KrôngAna, Buôn Ma Thuột, Ma’Đrắc và nhiều nơi
khác trong tỉnh. Ngoài ra còn có các khoáng sản khác như: vàng ở huyện EaKar, chì ở
huyện EaH’leo, phốtpho ở Buôn Đôn, than bùn chủ yếu ở CưM’Gar cùng các loại đá
quý, đá ốp lát, cát đá xây dựng có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh.
Điều kiện tự nhiên vốn có đã tạo ra thế mạnh cho tỉnh ĐăkLăk, nhưng do trình độ
còn nhiều hạn chế, nên các DTTS bản địa đã không khai thác được thế mạnh phục vụ cho
cuộc sống mà chủ yếu vẫn là dựa vào săn bắt, hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự
nhiên và canh tác sản xuất nhưng hiệu quả thấp nên đời sống của đại bộ phận các DTTS
bản địa còn hết sức khó khăn. Để phát huy được nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của
tỉnh, vấn đề căn cốt hiện nay là cần có một đội ngũ cán bộ KHKT đặc biệt là cán bộ
KHKT người DTTS để họ hướng dẫn cho DTTS bản địa, vận dụng những tri thức khoa
học vào việc khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của địa
phương mình.
Trước khi chia tách tỉnh (2004), ĐăkLăk gồm 18 huyện và 1 thành phố. Dân số
trên 1,7 triệu người, dân tộc kinh chiếm 44%, DTTS chiếm 56%, mật độ dân số là 135


người/ km2, trong đó số dân làm nông nghiệp và sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ khoảng
70%.
Kinh tế ĐăkLăk nhìn chung chậm phát triển, công nghiệp, dịch vụ manh mún
thiếu tập trung, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu GDP của tỉnh cao. Tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong 5 năm 2001-2005 đạt 8,05%. Kim ngạch
xuất khẩu tăng bình quân xấp xỉ 5,18%/ năm trong giai đoạn 2001-2005. Sản phẩm xuất
khẩu chủ lực của tỉnh gồm các mặt hàng nông sản như: cà phê, tiêu, điều, ong mật, gỗ,
cao su … trong đó, các mặt hàng cà phê, ngô, gỗ, bông có sản lượng đứng đầu cả nước,
đặc biệt sản phẩm cà phê ĐăkLăk là mặt hàng nổi tiếng trên thế giới đã xuất khẩu sang
83 quốc gia và vùng lãnh thổ, thâm nhập được vào cả những thị trường khó tính, có yêu
cầu cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như EU, Mỹ, Nhật … Tuy nhiên,
những mặt hàng xuất khẩu của ĐăkLăk đều ở dạng thô nên hiệu quả kinh tế không cao,

điều đó đòi hỏi cần đầu tư xây dựng những nhà máy chế biến những sản phẩm đó ở dạng
tinh để xuất khẩu. Muốn làm được vậy cần quan tâm đến chính sách đào tạo và thu hút
những cán bộ KHKT về lĩnh vực này.
Xã hội Tây Nguyên nói chung và ĐăkLăk nói riêng là sự đan xen giữa những
yếu tố của xã hội truyền thống với hiện đại. Tính chất cư trú đan xen giữa các tộc người
là một hiện tượng phổ biến ở ĐăkLăk, nó không chỉ dừng lại ở cấp độ xã, phường, thị
trấn mà còn xuống tận các buôn, làng, thôn, xóm. Và kéo theo là sự đa dạng, phong phú
về phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, truyền thống với đầy đủ tính chất hai mặt
của nó. Như vậy, sự đa dạng về thành phần dân tộc, sự đan xen về địa bàn cư trú là một
nét nổi bật của các DTTS ở ĐăkLăk.
ĐăkLăk là một trong những tỉnh có số lượng thành phần dân tộc đông nhất nước.
Hiện ĐăkLăk có 44 dân tộc anh em chung sống, chiếm 29,5% tổng dân số cả tỉnh, trong
đó 19,31% là đồng bào DTTS tại chỗ (Êđê, M’Nông, GiaJai). Êđê dân tộc bản địa chiếm
tỷ lệ cao nhất là 14,8% so với các DTTS khác. Trong các DTTS ở nhiều vùng khác nhau
di cư vào thì dân tộc Tày, Nùng chiếm tỷ lệ lớn nhất gần 6%. Có 7 dân tộc có số dân trên
1 vạn người là Êđê, M’Nông, GiaJai, Tày, Nùng, Thái, Mường.


Khoảng cách về trình độ phát triển giữa các dân tộc tương đối cao. Một số dân tộc
đã đạt tới trình độ tiên tiến, nhưng vẫn còn một bộ phận vẫn còn mới chỉ vừa qua giai
đoạn canh tác, đốt, phát, chọc, trỉa. Chính vì vậy, sự phân hóa giữa các dân tộc thể hiện
rõ nét hơn sự phân hóa trong nội bộ từng dân tộc, rõ nét nhất là giữa dân tộc kinh với các
DTTS bản địa. Sự phân hóa đang có xu hướng tăng dần không chỉ giữa các dân tộc và
trong nội bộ một dân tộc, mà còn giữa các khu vực và các vùng trong tỉnh.
Đặc điểm này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS ở nhiều trình độ
khác nhau, nhiều tộc người khác nhau và phải có khả năng nhạy cảm với các vấn đề về
dân tộc và quan hệ dân tộc, biết giải quyết nhanh, đúng đắn, có hiệu quả trong quá trình
chuyển đổi từ thói quen sản xuất lạc hậu sang vận dụng KHKT vào sản xuất không
ngừng nâng cao hiệu quả của sản xuất tăng năng xuất lao động. Có thể nói đây là một yêu
cầu không thể thiếu được đối với người cán bộ KHKT là người DTTS ở ĐăkLăk.

ĐăkLăk là một vùng văn hóa giàu bản sắc và phong phú của nhiều dân tộc anh
em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nó vừa đa dạng đan xen; vừa thống nhất, kết
hợp hài hòa với nhau tạo nên một bản sắc độc đáo, tinh tế, một phong cách đặc thù với 3
dòng văn hóa chính:
- Văn hóa bản địa của các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên
- Văn hóa của các DTTS phía Bắc
- Văn hóa của dân tộc Việt, mang đủ sắc thái 3 miền Bắc - Trung - Nam.
Cả ba dòng văn hóa này đang phát triển, giao thoa, đan xen, bồi đắp cho nhau tạo
nên nền văn hóa ĐăkLăk phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa làng
buôn ở ĐăkLăk là sự hội tụ của văn hóa nhà dài (Êđê, M’Nông), văn hóa nhà rông
(GiaJai, XêĐăng), văn hóa nhà sàn của các DTTS phía Bắc và văn hóa đình làng của
người Việt. Nơi đây vừa có hương ước (quy ước) làng thể hiện sự gắn bó trong cộng
đồng từ lâu đời, vừa thể hiện sự giao kết giữa các cộng đồng trong việc thực hiện nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Nói đến văn hóa các dân tộc ĐăkLăk không thể không nói đến văn hóa cồng
chiêng hết sức độc đáo, với sự hội nhập của các dàn chiêng Knar (Êđê), GôngPế


(M’Nông), Aráp (XêĐăng, GiaJai) tạo nên một bản hợp sướng giàu âm điệu của núi rừng
Tây Nguyên.
Là một trong những dân tộc bản địa lâu đời ở ĐăkLăk, người Êđê có một hệ thống
lễ hội dân gian hết sức phong phú, đa dạng và độc đáo. Đặc biệt là lễ nghi nông nghiệp
theo nông lịch chu kỳ hàng năm như lễ ăn cơm mới, cúng bến nước, cầu mưa, lễ đâm
trâu, lễ mừng được mùa … Vấn đề đặt ra ở đây là, hệ thống lễ hội phong phú như vậy
vừa chứa đựng những quan niệm mê tín dị đoan cần được xóa bỏ nhưng cũng bao hàm
chứa đựng ý nghĩa nhân văn, giáo dục đạo đức và ý thức cộng đồng của các thành viên
buôn làng, cần được tiếp tục nghiên cứu và cải biến cho phù hợp với nhu cầu đời sống
văn hóa mới.
Một nét đặc sắc trong văn hóa các dân tộc ở ĐăkLăk là các Sử thi. Nội dung của
các Sử thi mang đậm tính lịch sử, trong đó các sinh hoạt xã hội, tín ngưỡng, phong tục

tập quán được miêu tả cụ thể và sinh động bằng những lời văn vần xúc tích, trau chuốt và
mang tính nghệ thuật cao. Các Sử thi thường được kể trong các lễ hội cầu chúc sức khỏe,
lễ cơm mới, các lễ hội sau mùa gặt hái … phản ánh khát vọng tự do của con người hướng
về cội nguồn tổ tiên, cội nguồn dân tộc; về ý thức cộng đồng buôn làng. Các nội dung
này có ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa con người với thiên nhiên một cách hài hòa, góp phần
trong việc tạo dựng phẩm chất khoan dung, sự đoàn kết gắn bó và tính cộng đồng bền
chặt xây dựng quê hương giàu đẹp hơn.
Người Êđê theo chế độ mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, lấy họ mẹ. Trong cuộc
sống gia đình, vai trò của người phụ nữ trở thành chính yếu, từ việc nắm giữ kinh tế, nuôi
dạy con cái, tổ chức cuộc sống, còn người đàn ông chỉ lo nương rẫy. Chính sự phân công
xã hội từ bản sắc văn hóa cộng đồng này đã ảnh hưởng đến nhân cách của người DTTS
hiện nay theo hai chiều: tâm lý tự ti thụ động. Mặt khác, tuy người vợ có vị thế quan
trọng trong gia đình nhưng trong quan hệ xã hội thì người đàn ông vẫn giữ vị trí quan
trọng. Cho nên nam giới vẫn dễ thoát ly, nữ giới vẫn dễ bị cột chặt vào công việc gia
đình, dòng họ. Thực tế này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ người
DTTS.


Sống trong một xã hội mà ý thức cộng đồng bao giỡ cũng là tính trội so với ý
thức sống và làm việc theo pháp luật; những tàn tích của gia đình mẫu hệ vẫn còn tồn
tại; những thói quen và tập tục lạc hậu từ ngàn đời vẫn níu kéo con người làm cho
người cán bộ DTTS bàng quang trước cái mới và ngại thay đổi.
Yếu tố xã hội truyền thống này ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân
cách, tâm lý của người cán bộ DTTS, chỉ dừng lại ở tư duy trực quan, cảm tính mà không
vươn tới tư duy lý luận, tư duy khoa học, làm cho năng lực cá nhân chưa được phát triển
một cách đầy đủ.
ĐăkLăk chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm tình hình của một địa bàn miền
núi, biên giới, nơi có nhiều thành phần dân tộc và tôn giáo đang hoạt động; là địa bàn tập
trung đầy đủ các yếu tố về dân tộc, tôn giáo, biên giới hết sức phức tạp và nhạy cảm.

Tỉnh có 10 xã của 6 huyện tiếp giáp với tỉnh Munđunkiri với 193km đường biên giới. Có
24,6% dân số theo tôn giáo, trong đó Công giáo 214.425 người, Phật Giáo 123.619
người, Tin lành 135.836 người, Cao Đài 4.200 người, Hòa Hảo 175 người; có mối liên
quan và ảnh hưởng mật thiết với yêu cầu xây dựng và bảo vệ khu vực Tây Nguyên cũng
như của cả nước. Sự ổn định và phát triển của ĐăkLăk gắn liền với sự ổn định và phát
triển của cả khu vực Tây Nguyên và trong cả nước.
Với vị trí chiến lược của mình, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, ĐăkLăk luôn là một
trong những địa bàn mà các lực lượng thù địch chống phá quyết liệt, tìm cách chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, làm suy yếu chế độ XHCN do Đảng ta lãnh đạo. Trong thời
gian gần đây, các thế lực phản động quốc tế đã và đang lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
để đẩy mạnh việc thực hiện diễn biến hòa bình kết hợp với âm mưu bạo loạn lật đổ ở
ĐăkLăk bằng nhiều thủ đoạn chống phá trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn
hóa, gia tăng việc truyền đạo tin lành trái phép. Núp dưới danh nghĩa dân tộc, tôn giáo,
các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chia rẽ tổ chức đảng, chính quyền với đồng bào các
dân tộc, lừa gạt, dụ dỗ, kể cả đe dọa để lôi kéo đồng bào nhằm gây ra sự mất ổn định về
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Vụ bạo loạn mang tính chất chính trị diễn ra vào năm 2001 và 2004 nhằm mục
đích công khai cái gọi là “Nhà nước Đềgar độc lập”. Việc phát triển tổ chức “Tin lành


Đềgar”, lôi kéo kích động lừa phỉnh đồng bào vượt biên trái phép sang Cămpuchia, phát
tán tờ rơi, viết khẩu hiệu chống chính quyền, chống Đảng … đều nằm trong âm mưu nói
trên.
Đặc điểm này đòi hỏi và yêu cầu trong quá trình xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ
DTTS nói chung, đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS nói riêng phải hết sức chú ý vấn đề
rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, đề
cao cảnh giác, nắm vững và quán triệt các quan điểm của đảng về chính sách dân tộc, tôn
giáo, độc lập dân tộc với an ninh biên giới, phát triển kinh tế gắn liền với ổn định xã hội
và giữ vững chính trị, an ninh, quốc phòng, có khả năng nhạy bén chính trị, khôn khéo và
kiên quyết trong xử lý, giải quyết công việc khi có “điểm nóng chính trị” xảy ra. Hơn bao

giờ hết trong những hoàn cảnh có vấn đề đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk vốn rất phức tạp bởi âm mưu diễn
biến hòa bình của các thế lực thù địch.
Tất cả những vấn đề trên cho thấy, cùng với việc học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn trong nhà trường thì việc giữ vững bản lĩnh chính trị, không ngừng rèn luyện
tu dưỡng đạo đức và tư cách có ý nghĩa hết sức quan trọng để đội ngũ cán bộ KHKT
người DTTS ở ĐăkLăk đủ sức vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh ĐăkLăk là
cơ sở thực tiễn của một trong năm tỉnh ở Tây Nguyên để Trung ương Đảng đề ra đường
lối lãnh đạo khu vực Tây Nguyên phát triển bền vững và ổn định chính trị.
1.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
CÁN BỘ KHOA HỌC-KỸ THUẬT NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã và sẽ tiếp tục chứng minh KHKT luôn chứa
đựng trong bản thân nó một sức mạnh tiềm tàng, KHKT có thể mang lại cho con người
những lợi ích to lớn, song cũng có thể đặt con người trước những nguy cơ, hiểm họa
khôn lường. Mác đã từng nhấn mạnh đến những hậu quả, đặc biệt là về mặt xã hội do sự
phát triển của KHKT dưới chủ nghĩa tư bản mang lại. Ngày nay, khi phải đối mặt với
những hậu quả do sự lạm dụng KHKT vì những toan tính vụ lợi, ích kỷ của con người
gây ra như ô nhiễm môi trường sống, ngộ độc thực phẩm, bệnh tật … chúng ta càng cảm


nhận rõ hơn chiều sâu trong tư tưởng của Mác về vấn đề này. Hơn lúc nào hết, trong thời
đại ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ cần phải có
đội ngũ cán bộ KHKT để biến sức mạnh tiềm tàng vốn có của KHKT thành hiện thực
phục vụ cho cuộc sống của con người đồng thời chính họ cũng là những người tham gia
vào công việc ngăn ngừa, khắc phục những hiểm họa mà chính KHKT tạo ra.
Kế thừa những tư tưởng của Mác và Ăngghen, sau khi giành được chính quyền, để
đáp ứng được yêu cầu của công cuộc bảo vệ và xây dựng CNXH, và trong sự nghiệp
công nghiệp hóa XHCN, một nhiệm vụ rất mới mẻ đặt ra trước công nhân và Đảng của
giai cấp công nhân đó là nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế nhằm xây dựng

thắng lợi CNXH. Lênin đã tiến hành đánh giá, sắp xếp lại, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Lênin rất chú ý đến việc rèn luyện,
đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ, đó là những người có khả năng tiếp thu nhanh kiến
thức về KHKT, quản lý kinh tế-xã hội, quản lý nhà nước, là những người kế thừa sự
nghiệp lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cách mạng trong tương lai, đó là nhiệm vụ chiến lược
của Đảng và Nhà nước Xôviết. Lênin nêu rõ: Tiến tới xóa bỏ sự phân công giữa người và
người, đồng thời giáo dục, huấn luyện và trau dồi nên lớp người có tri thức về mọi mặt,
nghĩa là những người có khả năng làm được tất cả mọi việc. Chủ nghĩa cộng sản đang đi
theo hướng ấy.
Còn J.Stalin thì cho rằng: Bản thân chúng ta cần phải trở thành những nhà chuyên
môn, những người làm chủ công việc; chúng ta cần phải hướng về phía những trí thức kỹ
thuật; đấy là phía mà cuộc sống đang đẩy chúng ta đi tới … Đã đến lúc gấp rút chúng ta
phải hướng về kỹ thuật … bản thân chúng ta phải trở thành những nhà chuyên môn,
những người thông hiểu kỹ thuật, bản thân chúng ta phải trở thành những người hoàn
toàn làm chủ được công tác kinh tế.
Bình đẳng dân tộc là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong Cương lĩnh về vấn
đề dân tộc của Lênin. Đây là một sự bình đẳng hoàn toàn, một sự bình đẳng toàn diện
giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, Lênin đã chỉ rõ rằng: Người
nào không thừa nhận và không bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc và bình đẳng
giữa các ngôn ngữ, không đấu tranh chống mọi áp bức hay mọi bất bình đẳng dân tộc,


người đó không phải là người mácxít, thậm chí cũng không phải là người dân chủ nữa.
Bình đẳng văn hóa có nghĩa là các dân tộc có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường
học … Mặt khác, Lênin cho rằng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa sẽ đòi hỏi các dân
tộc sống trong một quốc gia phải học tiếng của dân tộc đa số.
Có thể thấy, theo Lênin vấn đề cán bộ có tri thức về mọi lĩnh vực và đặc biệt là
lĩnh vực KHKT được quan tâm hàng đầu trong công cuộc bảo vệ và xây dựng chính
quyền Xôviết và Người cũng quan tâm đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc trên mọi
phương diện cũng như việc phải đoàn kết dân tộc để chung tay xây dựng chính quyền

Xôviết vững mạnh. Tuy nhiên, Lênin chưa đề cập rõ nét về việc đào tạo đội ngũ trí thức
DTTS chính là tạo điều kiện để các dân tộc vượt lên thực hiện quyền bình đẳng.
Bình đẳng dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh có 3 cấp độ: bình đẳng giữa các
quốc gia dân tộc; bình đẳng giữa dân tộc đa số và các DTTS, bình đẳng giữa các DTTS
với nhau trong một quốc gia đa dân tộc; bình đẳng giữa các cá nhân, giữa các công dân,
giữa các thành viên trong xã hội, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, địa vị cao
hay thấp trong xã hội …
Hồ Chí Minh coi thời đại của chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa
là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại XHCN. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ nhất của Hội nghị phổ biến KHKT Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
không phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm
nâng cao năng xuất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, đảm bảo
cho CNXH thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục
KHKT cho nhân dân, coi việc cung cấp tri thức KHKT là một nội dung cơ bản của giáo
dục. Người quan tâm đến việc tập hợp trí thức, trọng dụng nhân tài, chăm lo xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ KHKT. Bởi vì, theo Người muốn phát triển văn hóa thì phải cần
thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát
triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư. Chính vì thế, Người đã khẳng định một cách dứt khoát
rằng, cách mạng XHCN phải gắn liền với sự phát triển của KHKT, với sự phát triển văn
hóa của nhân dân; đồng thời tin tưởng rằng, CNXH cộng với khoa học chắc chắn sẽ


mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho dân tộc Việt Nam nói chung và cho đồng bào
các DTTS nói riêng.
Để cho đồng bào DTTS có cuộc sống ấm no, Hồ Chí Minh khẳng định phải làm
cho miền núi tiến kịp miền xuôi, Người chỉ rõ Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch dài
hạn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi. Đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ đồng
bào miền núi. Đồng thời các DTTS cũng phải không ngừng vươn lên. Động viên đồng
bào miền núi tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Xây dựng hệ thống giao thông, liên
lạc thuận lợi hơn. Phát triển nông nghiệp toàn diện, tùy theo điều kiện của từng địa

phương mà phát triển cây lương thực hay cây ăn quả, cây công nghiệp. Đưa tiến bộ
KHKT vào các ngành nông, lâm nghiệp, đẩy mạnh phong trào cải tiến công cụ, chống xói
mòn đất trồng. Kết hợp chặt chẽ công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp và nông
nghiệp; sản xuất và chế biến, thương nghiệp … Muốn vậy, phải đào tạo được đội ngũ cán
bộ DTTS và cán bộ DTTS làm KHKT.
Đào tạo DTTS là sự thể hiện nội dung của tư tưởng bình đẳng và chiến lược con
người của Hồ Chí Minh. Trong Hội nghị Tuyên giáo miền Núi (1963), Người nói: Hiện
nay, lại có hơn 30 trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm, để đào tạo cán bộ địa
phương, vừa có văn hóa, vừa có kỹ thuật, vừa giỏi lao động. Loại trường đó rất tốt, cần
giúp cho trường đó phát triển đúng phương hướng … đây là trường học để đào tạo cán
bộ. Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến khâu bồi dưỡng cán bộ miền núi về chính trị,
văn hóa và nghiệp vụ bằng nhiều hình thức, phương pháp bồi dưỡng đa dạng. Cử đi học
văn hóa để nâng cao trình độ, từ bổ túc, các trường phổ thông, rồi đại học, trên đại học.
Cử đi học các trường kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sơ cấp, trung cấp kỹ thuật đến đại học
kỹ thuật.
Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng to lớn của lực lượng cách mạng trong vùng
đồng bào các dân tộc, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chính sách
dân tộc đúng đắn, động viên và tập hợp lực lượng các DTTS tiến hành cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc và ngày nay là sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong 79 năm lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) đến Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991). Chính sách dân tộc của Đảng


được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn cách mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nội dung chủ yếu, xuyên suốt và nhất
quán trong chính sách dân tộc của Đảng ta là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và phát triển bền vững. Đây là một trong những đặc trưng
cơ bản thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta.
Tinh thần cơ bản trên đã được thể chế vào Hiến Pháp năm 1946, được cụ thể hóa
trong Hiến Pháp năm 1959 và được khẳng định lại ở Hiến Pháp năm 1992:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính
sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; nghiêm cấm mọi hành vi
kỳ thị, chia rẽ dân tộc … Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS [25, tr.
255-256].
Để chính sách dân tộc thực sự đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực, Đảng ta đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị, đề cập đến việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội
ngũ cán bộ DTTS.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, ngày 27/ 11/
1989 và Quyết định 72 của Hội đồng bộ trưởng, ngày 13/ 3/ 1990 đều đề cập đến vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng và các chính sách đối với đội ngũ cán bộ DTTS. Để thực hiện trên
thực tế quyền bình đẳng, giữa các dân tộc, một mặt pháp luật phải bảo đảm quyền bình
đẳng đó, mặt khác phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi
vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng xuất lao động,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân
tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của
các dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát
huy bản sắc văn hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác và góp
phần phát triển văn hóa chung của cả nước.
Ngày 16/ 5/ 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37/ CT-TW, Chỉ thị
nêu cụ thể: Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT, kinh tế, pháp luật, hành chính, quản


lý nhà nước … cán bộ nữ, dân tộc ít người, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa. Trong các trường
đại học cần xây dựng một số trường đại học và một số ngành trọng điểm có đủ năng lực
đào tạo được các nhà khoa học và kỹ thuật giỏi cho đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng đã xác định
phương hướng đến năm 2000 trong việc thực hiện chính sách dân tộc của đảng là, bằng
nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, phải thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xóa

được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào
các DTTS; nâng cao trình độ dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt
đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các
DTTS ở các vùng, các cấp trong sạch vững mạnh.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ
cán bộ KHKT, trong đó có cán bộ DTTS. Xuất phát từ đặc điểm riêng của đồng bào
DTTS nên chủ trương của Đảng là có chính sách bảo đảm cho con em các gia đình trong
diện chính sách, gia đình nghèo được đi học và mở thêm các trường phổ thông dân tộc
nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào thiểu số, coi đây là một bộ phận quan
trọng trong đường lối cách mạng của Đảng. Đối với việc phát triển kinh tế-xã hội ở miền
núi và vùng đồng bào DTTS, Đại hội VIII đặt ra chương trình mục tiêu: khai thác mọi
tiềm lực ở địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước phát triển nhanh hơn về
kinh tế-xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh … tăng trưởng kinh tế
phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội, văn hóa, bảo đảm quốc phòng an ninh, phấn
đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội.
Từ các mục tiêu nêu trên, Đảng ta yêu cầu đội ngũ cán bộ KHKT cần phát huy
sáng tạo trong nghiên cứu, đề cao trách nhiệm trước xã hội. Về phía Đảng và Nhà nước:
Có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần của
người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng khoa học, công nghệ; bảo hộ quyền sở
hữu trí tụê; ưu đãi nhân tài có cống hiến quan trọng; khuyến khích cán bộ khoa
học làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”.
[18, tr. 106, 107]


và khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công
nghệ.
Nhằm từng bước đổi mới giáo dục, Đại hội VIII của Đảng xác định đổi mới hệ
thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn
nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đổi mới giáo dục chúng ta

cũng tính đến hiệu quả của việc sử dụng đội ngũ cán bộ được đào tạo và từ khâu sử dụng
cán bộ cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển giáo dục về các lĩnh vực chuyên
môn cần chú ý đào tạo cho trước mắt cũng như lâu dài: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa
đào tạo với sử dụng. Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công
nghệ” [18, tr. 109]
Hội nghị Trung ương lần thứ Hai khóa VIII của Đảng cũng đã nhấn mạnh đến việc
nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường phát huy cao độ trí tụê và nguồn lực nội
sinh, lấy phát triển GDĐT, khoa học và công nghệ làm yếu tố cơ bản coi đó là then chốt
đột phá để tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thực tế đã chứng minh rằng, khoa học và
công nghệ muốn phát triển là do con người, do đội ngũ trí thức. Con người được GDĐT
sẽ là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Khoa học công nghệ đã đưa GDĐT lên vị
trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH ở mỗi quốc gia. Chính vì vậy, xu thế đi lên
bằng giáo dục, bằng khoa học công nghệ đã và đang trở thành xu thế của thời đại.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phát triển
kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa số 135, ngày
31/ 7/ 1998 chỉ rõ nhiệm vụ của chương trình 135 là phải đào tạo cán bộ xã, bản, làng,
phum, sooc, giúp cán bộ cơ sở nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế để
phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương. Nhà nước sẽ có chính sách
phát triển nguồn nhân lực như hỗ trợ kinh phí để mở lớp dạy nghề cho con em đồng
bào dân tộc nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ, phát triển các ngành nghề phi nông
nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy
tính tích cực sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Đổi mới


chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài”. Về
công tác cán bộ, Đại hội IX tiếp tục khẳng định quan điểm đổi mới mà Đại hội VI, VII,
VIII đã nêu và nhấn mạnh, có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài và làm tốt công tác quy hoạch và
tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các DTTS, chuyên gia trên các lĩnh vực.

Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và
sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; có phương pháp khoa học, khách quan,
công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và nhân dân để
tuyển chọn cán bộ. Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ
tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.
Đại hội IX một mặt tiếp tục khẳng định làm cho văn hóa, giáo dục và khoa học
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nhu cầu của từng cá nhân, từng cộng
đồng của toàn xã hội. Mặt khác, các lĩnh vực đó phải là một bộ phận, một nội dung quan
trọng hàng đầu trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, từng khu
vực và từng địa phương bởi vì đầu tư cho chúng không phải vì sự phát triển của bản thân
chúng mà chính vì sự phát triển bền vững của toàn xã hội của đất nước. Vì vậy, phải có
chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học xuất sắc, khuyến khích cán bộ
KHKT bám sát cơ sở sản xuất, phục vụ các vùng khó khăn, vùng nông thôn.
Để triển khai các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã có quyết định số 168-QĐ/
TTg ngày 30/ 10/ 2001 về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những
giải pháp cơ bản phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên; trong đó về GDĐT phải
phấn đấu đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở cho toàn vùng vào năm 2010. Đầu tư xây
dựng đủ phòng học kiên cố và bán kiên cố cho các cấp học, trong đó có khoảng 50%
trường học được trang bị các đồ dùng dạy học, thí nghiệm, thư viện, sân chơi và khu thể
thao theo tiêu chuẩn tối thiểu; 80 - 90% các trường có trang thiết bị đạt chuẩn vào năm
2010. Hoàn thành xây dựng trường phổ thông dân tộc nội trú cho tất cả các huyện, tăng
cường cơ sở vật chất cho các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tỉnh. Phát triển
các trường bán trú, các trường nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật ở các tỉnh. Củng cố và phát
triển các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo. Tập trung đầu tư, tăng cường khả năng và quy mô đào


tạo cho Trường Đại học Đà Lạt và Trường Đại học Tây Nguyên. Mở khoa Dự bị Đại học
dành cho học sinh dân tộc đặt tại Trường Đại học Tây Nguyên.
Nhằm thực hiện công bằng trong giáo dục, Kết luận số 14 – KL/ TW, ngày 26/ 7/
2002 của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về tiếp tục thực hiện

Nghị quyết Trung ương Hai khóa VIII đã khẳng định: ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng
sâu, vùng xa, vùng DTTS. Chú trọng đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính
quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lên và cán bộ KHKT). Củng cố và tăng cường hệ thống
trường nội trú, bán trú cho học sinh DTTS; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp
ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh các
trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo
theo địa chỉ đối với vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn. Có chính sách bổ
túc kiến thức cần thiết cho số học sinh DTTS đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp để các em trở về địa phương tham gia
công tác ở cơ sở.
Kết luận số 14 còn khẳng định việc hình thành hệ thống trường đào tạo kỹ thuật
thực hành với nhiều trình độ, đẩy nhanh tiến độ xây dựng một số trường đại học, trường
dạy nghề trọng điểm. Tiếp tục sắp xếp, củng cố mạng lưới các trường, nhất là các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đẩy nhanh cơ sở xây dựng Đại
học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, một số trường trọng
điểm khác đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ.
Từ năm 2002 thực hiện chính sách giáo dục đối với con em là người DTTS ở Tây
Nguyên là: Miễn đóng góp xây dựng trường, học phí, hỗ trợ sách giáo khoa và giấy vở
học tập. Nhà nước chi phí toàn bộ tiền ăn ở, học tập cho học sinh DTTS tại các trường
dân tộc nội trú. Đối với con em thuộc diện học ở trường nội trú nhưng không ở nội trú mà
tham dự học ở các trường công lập, bán công thì được cấp học bổng bằng 50% số học
bổng nội trú. Thực hiện chính sách cử tuyển và sử dụng con em đồng bào dân tộc đi đào
tạo nghề, học trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, ưu tiên các đối tượng tự
nguyện đi học trở về quê hương công tác. Các cấp chính quyền phải có kế hoạch đào tạo


và sử dụng, bố trí người dân tộc tại chỗ có đủ điều kiện vào làm việc ở các cơ quan nhà
nước, tổ chức đoàn thể, chính trị-xã hội ở địa phương. Từng bước tiến tới đại bộ phận cán
bộ làm công tác y tế, GDĐT ở nông thôn vùng đồng bào dân tộc là người DTTS. Đặc

biệt, Chính phủ nhấn mạnh có chính sách thu hút cán bộ KHKT đến Tây Nguyên công
tác.
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10 - NQ/ TW, ngày 18/ 1/ 2002 về phát triển
kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2005.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng là đặc biệt chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS
tại chỗ. Cần phát huy tối đa các nguồn lực, chủ yếu là nguồn lực trong nước, trước hết
là nguồn lực tại chỗ để đầu tư phát triển, khai thác tốt nhất các tiềm năng, lợi thế của
vùng nhằm phát triển kinh tế-xã hội nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Đó là biện pháp
cơ bản để phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Tây Nguyên
trong 10 năm tới cũng như lâu dài phải quán triệt sâu sắc chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước.
Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh, tích cực đưa tiến bộ KHKT và công nghệ vào sản
xuất, bảo đảm hiệu quả và tính cạnh tranh cao. Chủ trương phát triển các ngành và lĩnh
vực trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch chung. Coi trọng chuyên môn hóa sản xuất từng
vùng, Đảng đã nhấn mạnh: phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa có chất
lượng cao. Phát huy thế mạnh về rừng, có chính sách để đồng bào, nhất là đồng bào
DTTS tại chỗ có thể sống tốt, ổn định và làm giàu bằng nghề rừng. Có các cơ chế, chính
sách đối với công tác khuyến nông khuyến lâm, hình thành đội ngũ cán bộ chuyển giao
công nghệ cho nông dân, nhất là đối với đồng bào các DTTS.
Bên cạnh coi trọng chuyên môn hóa sản xuất từng vùng, Đảng ta cũng khẳng định
vai trò của việc ứng dụng công nghệ sinh học tại các tỉnh Tây Nguyên nên đã chủ trương
xây dựng các trung tâm phát triển giống cây trồng, vật nuôi (cà phê, cao su, chè, bông,
mía, bò lai, lợn hướng nạc, cây lâm nghiệp …) và làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ cho cơ sở sản xuất và các hộ gia đình, nhất là chuyển giao công
nghệ, hướng dẫn ứng dụng tiến bộ KHKT cho đồng bào các DTTS. Tăng cường năng lực
cho Trường Đại học Đà Lạt và Trường Đại học Tây Nguyên trở thành trung tâm vừa đào


tạo, vừa nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển Tây Nguyên; huy động các cơ quan
nghiên cứu khoa học công nghệ trong cả nước nghiên cứu các vấn đề công nghệ phục vụ

sản xuất cho Tây Nguyên.
GDĐT cũng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của Tây Nguyên do đó, cần
phải xây dựng các trung tâm dạy nghề đào tạo ngắn hạn và các trường đào tạo nghề cho
thanh niên DTTS và phải đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức thích hợp; sắp xếp, bố
trí, sử dụng và tạo điều kiện cho cán bộ người DTTS tại chỗ đảm nhận tốt trách nhiệm
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Bảy khóa IX,
khẳng định:
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, giữ gìn và
phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các DTTS trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất [4, tr.
44]
Để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc và sự phát triển đồng đều giữa các vùng
miền trong cả nước nên Đảng đã chủ trương:
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế-xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền
vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của
đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương
và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước [4, tr. 44, 45]
Để phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi bền vững phải có
chiến lược về công tác cán bộ, Hội nghị cũng khẳng định thực hiện tốt công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người DTTS cho từng vùng, từng dân
tộc. Trong những năm trước mắt cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm
chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an


ninh, quốc phòng; coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo để bổ sung cán bộ cho cơ sở từ

các đối tượng là thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; nghiên cứu sửa đổi
tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở
vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng
cao.
Bên cạnh công tác cán bộ cần có những biện pháp trước mắt giải quyết những vấn
đề đang tồn tại ở vùng cao, vùng sâu nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, đẩy mạnh
công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của DTTS, trọng tâm là đồng bào dân
tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng
bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình
trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất,
dụng cụ sinh hoạt tối thiểu, xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Kết hợp những biện pháp nêu trên để phấn đấu đến năm 2010 theo tinh thần của
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, các vùng
dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần
khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các dân tộc, các vùng.
Qua các văn kiện của Đảng và Nhà nước như Nghị quyết số 22 (1989) và Nghị
quyết số 10 (2002) của Bộ chính trị, Chỉ thị số 37 ( 1994) của Ban Bí thư, Nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương Ba khóa VIII, Trung ương Bảy khóa IX và Quyết định số 135
(1998) và 168 (2001) của Thủ tướng Chính phủ, chúng ta thấy rõ vai trò, vị trí, tầm quan
trọng đặc biệt của khoa học và công nghệ cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng đội ngũ cán bộ DTTS được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS tức là thực hiện bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Quan điểm về xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ DTTS của đảng ta là rõ ràng và
nhất quán nhằm phát huy tính tích cực cách mạng và khả năng to lớn của các dân tộc, bồi
dưỡng lực lượng các DTTS, nâng cao trình độ mọi mặt để thực hiện sự đoàn kết chặt chẽ.
Bên cạnh sự quan tâm, giúp đỡ không thể thiếu của cán bộ người kinh, phải tạo mọi điều



×