Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.89 KB, 46 trang )

TÊN
NƯỚC
ÚC
MỸ
NHẬT
CHLB
ĐỨC
ĐÀI
LOAN

TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỞ
Sản xuất: dưới 100 LĐ
Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
- Doanh
nghiệp
dưới
LĐ nghiệp vừa và nhỏ
2.Tiêu
chínhỏ:
phân
loại100
doanh
các tiêu
chí vừa:
phân101-499
loại khác
- Doanh
nghiệp
LĐnhau. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số
I
ngành (Ib)


sogiới,
sánh định
đối chứng
giữa
các ngành
khác
Trênđếthế
nghĩaCHƯƠNG
về doanh
nghiệp
vừanhau.
và nhỏ được hiểu và
- Sản
xuất:đưới
300

hoặc
dưới
100
triệu
Yên
quy định
khác
theo
từng
nơi.
Các
tiêunhau
chí nên
đế phân

loại và
doanh
Vùng
lãnhnhau
thô:
do trình
độ
phát
triến
khác
sổ lượng
quy
SỞtuỳ
LUẬN
- Bán lẻ, NHŨNG
dịch vụ: Cơ
dưới
50LÝLĐ
hoặc CHUNG
dưới 10 CỦA
triệu DOANH NGHIỆP
nghiệp

hai
nhóm:
tiêu
chí
định
tính


tiêu
chí
định
lượng.
Nhóm
tiêu
mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) chí
đế
Yên
VỪA

NHỞ
- Dưới 500
định

tính
dựa
trên
những
đặc
trưng

bản
của
doanh
nghiệp
như
chuyên
đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ

môn
hoá
số dựng:
đầu moi
quản
ít, mức
phức tạp của quản lý thấp...
vùngnghiệp,
khácthấp,
nhau.
- Công
xây
vốn
góplý dưới
40 độ
triệu
Nhiều
chuyên
gia
kinh
tế

pháp
luật
của
cho đề
rằngnhưng
khái
NT$,
dưới

300

Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bảnViệt
chấtNam
của vấn
Bảng
:
Tham
khảo
về
tiêu
chí
doanh
nghiệp
vừa

nhỏ

một
số
nước
niệmkhoáng:
doanh
nghiệp
sau
khái
niệm doanh
nghiệp
- Khai
vốn

gópvừa
dướivà
40nhở
triệu
NT$,
dưới
500
thường
khó xác
định
trên
thực
tế.và
Do
đó đó
chúng
thường
được dùng
làmnhỏ
cơ và
sở

cực
nhỏ
đuợc
du
nhập
từ
bên
ngoài

vào
Việt
Nam.
vấn
đề
tiêu
chí
doanh
để thammại,
khảovận
trong,
kiểm
mà dưới
ít được
dụng để phân loại trong thực
- Thương
tải và
dịchchứng
vụ khác:
40 sử
triệu
nghiệp
vừa,
nhỏ

cực
nhỏ

trung
tâm

của
cuộc
về giá
sự
tế. Nhóm tiêu chỉNT$
địnhdoanh
lượngthu,
có thế dựa vào cácnhiều
tiêu chí
nhưtranh
số laoluận
động,
phát
củavốn,
khudoanh
vực này
trong
nhiều
nămđó:
qua. Định nghĩa về doanh
trị
tài triến
sản hay
thu, lợi
nhuận.
Trong
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rõ ràng phải dựa trước tiên
Số lao động: có thế lao động trung bình trong danh sách, lao động
vào quy mô doanh nghiệp. Thông thuờng đó là tiêu chí về số nhân công, vốn
thường xuyên, lao động thực tế;

đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đối theo tùng quốc gia, tùng
sảnphát
haytriển
vốn:khác
có thế
là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn)
chươngTài
trình
nhau.
cố định, giá trị tài sản còn lại;
ơ Việt Nam đã giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công
Doanh
thu: có thế
tổngngày
doanh
thu/năm,theo
tổngđógiádoanh
trị gia
tăng/năm
văn sổ 681 /CP-KTN
banlàhành
20-6-1998
nghiệp
nhỏ
(hiện
nay

xu
hướng
sử

dụng
chỉ
số
này).
và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh
Trong5 các
nước(tương
APECđương
tiêu chí
được sử
dụng
phổtỷbiến
số lao
doanh dưới
tỷ đồng
378.000
USD
- theo
giá nhất
giữa là
VND

động.
Còn
một
số
tiêu
chí
khác
thì

tuỳ
thuộc
vào
điều
kiện
từng
nước.
USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng
một bức
tranh
chung
về cácloại
doanh
nghiệp
vừa theo
và nhỏ
Việtlại
Nam
phục chỉ
vụ
Tuy
nhiên
sự phân
doanh
nghiệp
quyở mô
thường
cho việc
chính
thực tế

chí này không cho phép
mang
tínhhoạch
tươngđịnh
đối và
phụ sách.
thuộc Trên
vào nhiều
yếutiêu
tố như:
phân biệt
cácđộdoanh
vừa,
nhỏ.trình
Vì vậy,
tiếp triên
theo càng
đó Nghị
Trình
phát nghiệp
triên kinh
tế nhỏ
của và
mộtcực
nước:
độ phát
cao
định
số
90/2001/NĐ-CP

đưa
ra
chính
thức
định
nghĩa
doanh
nghiệp
nhỏ

thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao
vừa như
sau: Nam
“Doanh
nghiệp
là CO'
sỏ’ vừa
sản xuất,
kinh
doanh
động
ở Việt
không
đượcnhỏ
coivàlàvừa
doanh
nghiệp
và nhỏ
nhưng
lại

độc lập,
kinh doanh
luậtcóhiện
có vốn
được
tínhđã
là đăng
SME ký
ở CHLB
Đức. Ớtheo
mộtpháp
số nước
trìnhhành,
độ phát
trienđăng
kinh
kýthấp
không
quáchỉ
10 số
tỷ về
đồng
laođểđộng
bình nghiệp
hàng năm
không
tế
thì các
lao hoặc
động,số

vốn
phântrung
loại doanh
vừa và
nhỏ
quá
300
ngưòi”.
Các
doanh
nghiệp
cực
nhỏ
được
quy
định


tù’
1
đến
9
sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
nhân công, doanh nghiệp có tù’ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh
Tỉnh chất ngành nghề: do đặc điếm của tòng ngành, có ngành sử dụng
nghiệp nhỏ.
nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn
như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này đế có sự so sánh đối
chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở
nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với

-


F(Sba): quy mô một doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một lãnh thố
cụ thể.
Ib,IaJd' tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh
nghiệp;
Sa: quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Các doanh nghiệp vừa và nhở có vai trò quan trọng trong nền kinh tế một
quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các ưu thế và nhược điểm của loại hình
doanh nghiệp này sẽ được trình bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhìn sâu
vào bản chất của loại hình này, cho phép ta định ra hướng đi rõ ràng trong
việc xác định hướng phát triến cho loại hình này.
3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:

Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng
thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh
hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình
thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các
nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước
vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn (do
quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất,
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn
không đáp ứng vì mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng
-----------------------------------*------------------------------------------------------------lớn.---------*------9
Doanh nghiệp
vừa và nhở là loại hình sản xuất có địa điểm sản xuất
(Nguôn : tông họp từ dữ liệu sưu tâm được qua các trang web trên
phân
tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điếm mạnh:

mạng)
Tỉnh lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng
Dê như
dàngvậy,
khởihiện
sự, tại
bộhoặc
máy tương
chỉ đạo
nhẹđược
và năng
nhạynhỏ.
bén
với quy- mô
laigọn
có thế
coi làđộng,
vừa hoặc
Nhưthay
vậyđôi
trong
xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng
với
củaviệc
thị trường.
trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này
Doanh
nghiệp
một
số mô

vốndoanh
hạn chế,
mặt cho
bằngcác
không
các
chỉ được
sử dụng
khichỉ
xáccần
định
quy
nghiệp
thời lớn,
kì khác
điều
nhau.kiện sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản
phấm nhanh
nên phân
có thếloại:
sử dụng
có, hoặc
vay vừa
bạn và
bè,nhỏ
người
thân
dễ
Mục đích
khái vốn

niệmtựdoanh
nghiệp
khác
nhau
tuỳ theo
công gọn
việc nhẹ
phânlinh
loại.hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng
dàng.
Bộmục
máyđích
tổ chức
vậychất
có thể
xác
định
đượcnhư
quyquy
mômô
doanh
và nhở
thuộccó
thời, Như
do tính
linh
hoạt
cũng
nhỏnghiệp
cảu nó,vừa

doanh
nghiệp
ngành
địa bàn
côngnhanh
thức sau:
thể dễ dàngmột
phát
hiện hoặc
thay một
đổi nhu
cầu cụ
củathể
thịtheo
trường,
chóng chuyển
đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng
động
sáng
tạo, Id
tự chủ, nhạy bén
F(Sba)
= Ib*
Ia*sa/
Trong đó:


trong lựa chọn thay đối mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống
động trong phát triển kinh tế.
- Săn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro


cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhở, sử
dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiếm sẵn sàng mạo hiếm. Trong
trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh
nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về
quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh
doanh mạo hiểm.
- De dàng đôi mới trang thiết bị, đôi mới công nghệ, hoạt động hiệu

quả với chi phỉ cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản
cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đối mới trang thiết bị khi điều kiện cho
phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế
vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn
lực của mình, các doanh nghiệp vừa và nhở có thể đạt được hiệu quả kinh tế
- xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có
sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người

lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. số
lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động
trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động
và người lao động khá gắn bó. Neu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn
xếp.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ


Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các
hạn chế khách quan đến tù’ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến tù' chính


TÊN NƯỚC

THU HÚT LAO ĐỘNG
(%)

Singapore
Malaysia
Hàn Quốc
Nhật Bản

GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)

35.2
26.6
47.8
36.4
các
lợi
thế
của
doanh
nghiệp
vừa


nhỏ.
tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải
quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm
37.2
21.1
dòng người
vềtiên
thành
- Hạnchuyến
chế đầu
vàphố
lớn tìm
nhấtviệc
củalàm.
SMEs nằm trong chính đặc điểm
55.2
38.8
do mô
tínhnhỏ,
linh vốn
hoạt,ít,uyến
chuyến
dễ thích
ứng với
thay lâm
đôi
của nó,Thứ
đó hai,
là quy
do đó

các doanh
nghiệp
này các
thường
của
vừa khi
và nhỏ.
trường
có biến
vào thị
tìnhtrường
trạng của
thiếucác
vốndoanh
trầm nghiệp
trọng mồi
muốnTrong
mở rộng
thị hợp
trường,
hay
động
xảy đổi
ra, các
lớnthiết
sẽ đối
tiến hành
mới,doanh
nâng nghiệp
cấp trang

bị. phó khá chậm chạp, không phải vì
cấp quản
lý bất
tài mà
bởi vìvừa
doanh
nghiệp
lớn thì
xoayvào
trở doanh
nhanh.nghiệp
Họ sẽ
- Các
doanh
nghiệp
và nhỏ
thường
phụkhó
thuộc
gặp
rấtcung
nhiềucấp
khó
trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động
mà nó
sảnkhăn
phẩm.
đế cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc
cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thế thích ứng

biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, tù’ đó ảnh hưởng đến năng suất lao
nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thế
động, chất lượng sản phấm và tính cạnh tranh trên thị trường.
tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp,
thiếu
bí quyết
trợ giúp
kỹ thuật,
không
có kinh
nghiệm
kế sản
Bảng
: Tỷ và
trọng
thu hút
lao động
và tạo
ra giá
trị giatrong
tăng thiết
của các
doanh
nghiệp
vừa cứu
và nhỏ
ở một
số nước
Á là không

phẩm, thiếu đầu
tư cho
nghiên
và phát
triển,...
nóiChâu
cách khác
đủ năng lực sản xuất đế đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao
được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường->các doanh nghiệp

vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập

và mở rộng quan hệ họp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương
doanh nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong

thiết lập chồ đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp

Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương
pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết
thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất. do đặc tính phân bổ rải rác của chúng. Các doanh nghiệp
loại này thường phân tán nên chúng có thế đảm bảo cơ hội việc làm cho
nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu,
vùng xa, vùng chưa phát triến kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ



c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh

Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn
làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng đế tiện đường
vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ
trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói chung
đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoít của tỷ phú Bill
Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là
một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học đế mở doanh nghiệp riêng
của mình. Chưa đầy 30 năm sau đã trở thành người giàu nhất thế giới, là một
điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình.
Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các
công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý
rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh

Quan hệ với khách hàng

Kiểm soát và quản lý nhân viên

Quy định xuất nhập khẩu

Quản lý thời gian

Công nghệ thông tin hiện đại

Điều hành văn phòng

Các quy định về thuế


Hậu cần

Hệ thống cung cấp và phân phối

Bán hàng và tiếp thị
Luật lệ công ty
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động
Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ
Bán hàng
của tự’ do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh,
1996) Định giá và lợi nhuận
Quan hệ với quan chức chính phủ
h. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đảng kể về cá chất
lượng,
chủng
Đâysốlàlượng
các kỹvànăng
cầnloại
thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào
Cáccho
côngngười
ty, doanh
nghiệp
nhỏ thu
một nghiệp
lượng lớn
tạo chúng
lao động
cầnvừa

thờivàgian.
Cáchút
doanh
nhỏlao
sẽ động
thực

nguyên
hội viên
để sản
xuất
hoá. thời
Đe có
sức cạnh
hiệntài“hộ”
khâucủa
này.xãNhân
công
ty ra
nhỏhàng
sau một
gianthêm
có được
kinh
tranh
trực
với các
nghiệm
rồitiếp
sẽ được

các công
công ty và
lớntập
thuđoàn
nhận.lớn, hàng hoá của họ nói chung
thiên
về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có
d. Tăng nguôn tiết kiệm và đâu tư cho dàn địa phương
nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phưong nào
nhỏ mà các công ty lớn bở qua vì doanh thu tù' đó quá nhỏ.
đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các


doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có
công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Ket cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư
của địa phương đó được bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quá hơn

Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của
các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô
của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì
quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng
thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì
càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên
vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp
và phản ứng kịp với các thay đối trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế
có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn”
hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao.
f. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau

g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng

trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng
xa”. Đó là các khu vục địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát
triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường
bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng
nguồn lợi thu được tù' nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là
chi phí cơ hội của vùng đó cao. Neu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp
lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng,
không
tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng
như
gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được,
xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có
các chính sách un đãi thích hợp của chính quyền địa phương.
h. Giữ gìn và phát huy các ngành nghê truyên thông, thê hiện bản

sắc dân tộc


Tên của luật và
chính
Nghị
định
số
90/NĐCP về chính sách
trợ
giúp phát triến các

doanh
nghiệp
nhỏ
Luât Doanh
nghiêp
(1999)

Luật
Phá
sản
Doanh
nghiệp (1993)
Luật Thuế giá trị
gia
tăng
Luật Thuế thu
nhập
doanh
nghiệp
(1999)

Bộ luật Lao động
(1999),' Nghị định
77/2000/NĐ-CP có
hiệu lực tù- ngày
1-12001
Luật khuyến khích
đầu
tư trong nước
(1994)

Luật Thương mại
(1997)
Sắc lệnh về hợp
tác
chuyển giao công
nghệ
(1998). Nghị đĩnh

Luật bị thav
thế

Nội dung chính
Nghị định đưa ra một chính sách đặc
biệt
đối với doanh nghiệp nhở và vừa, là
chính
sách hồ
bô sung
phát
triên
thống
đang
đứng
sự
cạnh
tranhcho
khốc
liệt,
giữavà
chếnhỏ

tạo sản
phẩmNam
thủ
6. Pháp luậttrước
chi trợ
phối
doanh
nghiệp
vừa
ở Việt
doanh
Luật
Công
ty
Luật
Doanh
nghiệp
1999

Nghị
côngvà
với sản
dâycác
chuyền
loạt. luật
Mộtpháp
vísố
dụtrực
như:tiếp
thợ liên

đóng
giày có
Bảng
: Hệxuất
thống
nhómhàng
văn bản
quan
định
thế đóng
những02/2000
đôi giàyhướng
rất bềndẫn
dùngviệc
đượcthực
hàngthinăm không hỏng . Nhưng
Luật
Doanh
doanh nghiệp vừa và nhỏ
nghiệp

nhân
Luật
trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm
(21-12-1990), Doanh nghiệp, đưa ra khuôn kho
không
bền
đối mới theo mùa và giá rẻ hơn lý
so với giày thủ công. Một
Nghị

định
sốlắm,pháp
66/HĐBT
hiện
đại
đầu
tiên
cho
tất
cả
các
thợ thủ công hay vài người thì không thể đương đầu được với các doanh
ngày 2doanh
nghiệp
Muốn tồn
tại ký
đượckinh
các doanh
thợ thủ trong
công phải hợp nhau lại thành
3-1992
cholớn
cácđó. nghiệp
đăng
hộlập
kinh
doanh
nước:
Luật
quy

cơ cáo
sở đế
các đến các khách hàng tiềm
doanh
nghiệp,
sau
đóđịnh
quảng
xa đánh
rộng giá
đế tìm
doanh
năng của các sản
phấmbịthủ
xã tục
hội yêu
luôn tồn tại nhu cầu đối với
nghiệp
phácông.
sản, Trong
các thủ
Luật
Thuế
xác định
mức
thuế làm
giá trị
các sản
phẩm Luật
truyềnnày

thống,
vấn đề
là phải
cho những khách hàng đó
doanh
gia
tăng,
biếtthu
đến sản phấm
của mình.
là mức
thuế tính trên giá trị hàng
hoá
Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thế và
nói là rất thích hợp cho sản
Luật Thuế lợi Các
dịch vụ
trìnhthuế
sản thu
xuất,nhập
lưu
đốitrong
tượngquáchịu
xuấttức
thủ công. của
Các ngành nghề truyền thống có thế dựa vào đó đế sản xuất,
doanhcáo.
nghiệp
định bởi
luật

kinh doanh, quảng
Bên được
cạnh quy
đó công
nghệ
tiên tiến cũng sẽ dần tiếp
này

cận vào các ngành
nghề của
này.tôVàchức
đó cũng
một có
điều cần phải xẩy ra trong
thu nhập
và cálànhân
hoạt
thời đại công nghiệp.
động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ
Cụ thể hơnthuế
ta hãy
nhưcác
sau: một số thợ đóng giày
Bộ
luật hình
Lao dung
độngmột
điềucảnh
chỉnh
mối

quan
họp
hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức
nhau lại thành một
doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có
lương
tối thiểu
trong
cácloại
doanh
một số nhỏ khách
hàng ưa
thích
giày nghiệp
đóng thủở công và sẵn sàng trả giá
Việt định những uu đãi đầu tư trong
Xác
(dù là cao) đế đi loại giầy này -^cầu nhở. Doanh nghiệp đó đáp ứng được
nước
nhu cầu đó. Sau
doanh
tiếnkhăn
hànhvềmột
chiến dịch quảng cáo trên
vàođócác
vùngnghiệp
có khó
kinh
tế-xã
hội

các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các
và cácbản
hoạtluật
động
kinhquy
tế chiến
Văn
pháp
định lược,
hoạt
khách hàng có động
nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước liên
thương
mại
tạipháp
Việtkhách
Nam
Khuôn
khốlà

đầu
tiênnước
chongoài ưa thích kiểu dáng
lạc đặt mua. Tiếp
sau nữa
các
hàng
hoạt
động
giày quảng cáochuyển

trên Internet
cũng nghệ,
liên lạcquy
đặt định
mua. Bên cạnh đó các nghệ
giao công
những
nhân cũng sử dụng
thêm một số công nghệ mới đế hỗ trợ thêm cho việc chế
tạo giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình
phát triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới.
Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn
cầu chiếm một lượng đủ đế họ tồn tại được trước thách thức của những đôi
giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN
TẠI VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ
khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường
khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính
là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm
chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống
trị của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh
nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào
các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng

giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu
cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí
nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy
giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả
nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn
tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã
đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa
đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây
dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất
nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối
chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích
phát
triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân thì bị loại trừ, trong
khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII.
Điểm
đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư
I.


khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác
như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một
bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác
nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi
trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản
xuất

tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương
mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể,
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là
Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định
27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình;
Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số
681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát
triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư
nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999),
Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư
trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và
nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư
(MPI),
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và
công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt
Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách
hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các
dự
án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich
Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản
(JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp
tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về


Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy

Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất
lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ
DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội(
HASMEC) ở số 418 Bạch Mai...
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp
không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày
23/11/2001 về chính sách trọ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ
khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan
trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và
các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn
giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa
phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách
phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và
phê duyệt.
Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh
nghiệp
vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch - Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển
DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khícli phát triển DNVVN” làm nhiệm
vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát
triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc các cơ
quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực
hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến
khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã
có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các
hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp một cách
thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị 1Ĩ1Ở rộng
thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các DNV VN.

Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN
trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực
tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng


Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
Đ
v 1996
1997
1998
1999
2000
t
1. Số lượng đơn vị
D
20.2
21.0
20.5 22.767
29.5
1.1 .Doanh nghiệp
N
72
32
78
19
của tư nhân
D
5.832
6.073

5.927
6.049
6.979
lao
tổng :số,
và tỷvực
trọng
trong
Sôđóng
liệu góp
kinhcho
tê GDP
về khu
kinh
tế tổng
tư đầu tư xã
N động trênBảng
- Công nghiệp
nhân
D cũng
12.6
13.010 12.494 14.234 17.506
- Thương nghiệp dịch hội
N
95tăng nhanh (Xem bảng 5). Ọuan niệm về kinh tế tư nhân cũng có
vụ
D 1.745
2.157
2.484
5.034

1.949
nhiều
N đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư
- Các ngành khác
h 2.016.
1.981 coi 2.054
tưởng
giáo điều1.949
và tả khuynh,
kinh tế tư2.13
nhân là một loại hình kinh tế
ộ 259
.836
.306
.178
7.71
1.2. Hộ cá thể
3 bám..., Đến nay, kinh tế tư
tiêu
là tàn 608.2
dư của chế
độ cũ, là608.
bóc lột,645.
ăn
h cực,
616.
583.3

855
50

52
314
801
- Công nghiệp
thực sự đã1.022
được coi
là “raợí1.088
bộ phận 1.10
cấu thành quan trọng của nền
h 1.102.
1.058
- Thương nghiệp dịch nhân
ộ 619
.385
.542
.606
9.29
vụ
3
kinh
Việt nam319.2
h tế 296.
339.4
357.
382.

785
01
12
258

619
- Các ngành khác
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư
2. Lao động
nhân
và hộ cá thể,
đã trải3.816
qua 2 bước
ngoặt tính
ng 3.865.
3.666
4.097
4.64từ giai đoạn đổi mới. Bước
ườ
163
.825
.942
.455
3.84
- Tổng số
i% 11,2
4
ngoặt
thứ nhất 10,3
có thể xem
trói cho 12
doanh
nghiệp là vào cuối thập
10,3như cởi
10,9

- Tỷ lệ so với tông lao niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước
động xã
ngoài(1989),
khích 539.
đầu tư trong
D 354. Luật
395.7khuyên
435.9
841. nước(1994), Luật doanh
2.1.Doanhhội
nghiệp của
N
328
05
07
533
787
tư nhân
nghiệp
tư nhân,252.6
Luật công
ty(1990),
tạo cơ498.
sở pháp lý cho sự ra đời của
D 233.
273.8
322.
N
078
57

19
496
847
- Công nghiệp
nhiều
VCCI thì
trong giai đoạn 1991-1999,
D loại
60.9hình doanh
63.0 nghiệp.
62.4 Theo96.7
151.
- Thương nghiệp dịch
N
36
50
70
20
433
vụ
mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
D
60.3
79.9
99.6
120.
191.
N
14 thể xem
98 xét tình18hình tổng

317họp của
507
- Các ngành khác

khu vực kinh tế tư nhân (đại
D 3.510.
3.271
3.381
3.557
3.80
N cho
835các DNVVN)
.120
.035một số
.922
diện
qua
các chỉ2.05
2.2 Hộ cá thể
7tiêu chính như số lượng các
D 1.524.
1.403
1.350
1.464
1.62
N 708
doanh
nghiệp tư.205
nhân, số.152
lượng và.013

tỷ lệ lao 2.38
động
- Công nghiệp
1 so với xã hội, mức đóng
D
1.531.
1.388
1.455
1.501
1.58
- Thương nghiệp dịch góp
N vào
638
.351nội (GPP),
.636 đầu 4.39
tổng sản.701
phẩm quốc
tư1 phát triển mức độ đóng góp
vụ
D 454.
479.2
575.5
592.
595.
N đầu489
14 cả nước
32 trong273
vào
tư phát triển
vài năm285

gần đây theo bảng dưới đây.
- Các ngành khác
Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức
3. Tổng sản phẩm
riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư
trong nước
t
272.
313.6
361.0
399.
444.
nhân
thể xem như
DNVVN,
ỉ có036
23 đại diện
17 cho các
943
140vì như nói từ phần đặc điểm
(GDP)
- Tống số toàn quốc
đồ DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu
các
ngt
77.4 87.475 98.625
106.
119.
nói
vực ngoài337

quốc doanh.
ỉ đến các
81 doanh nghiệp thuộc khu 029
Trong đó doanh
đồ
nghiệp của tư
ng
Tỷ lệ trong tổng GDP
toàn quốc
% 28,48 27,89
27,32
26,51
26,87
t
19.6
21.9
25.3
31.7
3.1 Doanh nghiệp

02
20
04
27.975
33
đồ
ng
t

4.6

5.27
6.36
7.17
- Công nghiệp
09
8
7
9
đồ
8.62
ng
6
t

- Thương nghiệp dịch
7.5
8.56
10.2
11.2
12.3
vụ
65
4
38
03
97
đồ
ng
t


7.4
8.07
8.69
9.59
10.7
- Các ngành khác
28
8
9
3
10
đồ
ng
- Tỷ lệ trong tổng
7,2
GDP
%
1
6,44
7,01
6,99
7,14
t
i
57.
65.5
73.3
78.0
87.6
3.2 Cá thể

879
55
21
54
04
đồ
ng


- Công nghiệp
- Thương nghiệp dịch
vụ
- Các ngành khác
- Tỷ lệ trong tổng
GDP
4. Vốn đầu tư
phát triển
- Tống số toàn xã hội
Trong đó: Doanh
nghiệp cùa tư
Tỷnhân
lệ trọng
tổng
thể số
toànvà
xãcáhội
4.1 Doanh nghiệp của
tư nhân
% Trong tống số
toàn xã hội

4.2. Cá thể
Tý lệ trong tổng số
toàn xã hội

Loại
DN

Cty
TNHH
Cty cổ
phần
DNTN
Tổng số

t

9.2 10.6
11.8
15.4
61
58
04
91
đồ
12.6
ng
62
t
17.
19.7

22.8
24.8
27.3

381
28
78
65
93
đồ
ng
t
31.
35.1
38.6
40.5
44.7
i
237 nqoặt
69 thứ hai39bắt đầu 27
Bước
kể từ khi20Luật doanh nghiệp được ban
đồ
hành vào 1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có
ng
%
21,
20,9
20,3
19,5

19,7
hiệu 28
0
1
2
2
lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến
t 24.000 tỷ (tương đương với 1,65
131.tỷ USD,
147.trong đó 17.000 là vốn đăng
hơn

171
633
đồ
ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang hoạt
ng
t
31.5về số 35.8
động,
tức là tăng hơn ba lần nếu xét
lượng

42
94 doanh nghiệp và hộ kinh
đồ
doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001,
ng
24,0
24,3

có% thêm hơn 21.000 doanh nghiệp
5 đăng ký1 hoạt động theo Luật doanh
t
5.62 tổng6.62
nghiệp,
tăng 1,46 lần so với năm 2000,
số

8
7 vốn huy động được của các
doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm
đồ
ng%
4.29
4.49
2000. Có thể thấy tình hình năm 2001
như sau:
t Bảng : Tổng hợp sô doanhnăm
25.92001
29.2
nghiệp
vực kinh tê tư nhân dến

14 khu67
đô
ng%

31/12/
99


31/12/
98

9.375
582
18.75
1
28.70
8

13.85
0
933
22.79
4
37.57
7

Đên 31/12/2000
Tổn
g
số
đăng
21.0

31
1.71
8
28.7
19

51.4
68

Đan
g
hoạt
độn
20.2
g
55
1.66
8
27.2
77
49.2
00

19,7
19,8
6
2
Đến 30/9/2001

Bá Tổn
o
g
ngh
số

đăn

77
29.1
KD
g
6
60
50 2.98
6
1.4 33.9
42
25
66.0
2.268 71

Nguồn: Tông cục Thống kê

Đang
hoạt
động
28.35
6
2.928
32.45
9
63.74
3

Báo
ngh


KD
804
58
1.4
66
2.32
8


Doanh nghiệp trong
công
Doanh nghiệp nhà
nước
Doanh nghiệp ngoài
quốc
Doanh nghiệp có vốn
nước
Tổng

Tổng số
Khu vực doanh
nghiệp
Trung
Nhà nước
ương
Địa Phương
Khu vực ngoài
quốc
doanh
Khu vực

cỏ vốn
đầu tư
Dầu
và khí
nướcmỏ
ngoài
đốt
Các ngành khác

Tổng số
(Tỷ đồng)
69.588,4

Ước tính phần của DNVVN
trong
20%
12.917,7

33.148,2
60%
19.888,9
hình
đóng
góphộicủa
các
DNVVN
qua
tình
hìnhtâm.
đóng

góp
của
các
doanh
của
quá
nhập
được
đặc
biệt
Chúng
cần được
phân
nghiệp
tưtrình
nhân,
kinh
tế cần
hộ
gia
đình,
kinh
tếquan
quốc
doanh.
Số lượng
DNVVN
nghiệp
doanh
8 tháng

2002quả
nhưđể
sau:
công
vàngoài
họp
tác một
cách
khoa đầu
họcnăm
và hiệu
tham gia nhiều nhất
cũng
tăng
dần.quốc
47.948,0
5%
2.397,4
Bảng
: Đóng
góp
củacạnh
vực
kinh
têvà
ngoài
vàotrung
mức ỏ
nguồn
lực

vàocấu
quá
trình
tranh
khu
vực
quốcquốc
tế chủdoanh


phân
bôkhu
theo
vùng:
Các
DNVVN
yếu tập
tăngNam
Vê lao
động:
quy mô
nhỏ, phần
lớn các
DNVVN
công
Miền
Việt
namCó
(81%),
Số khá

DNVVN
tập trung
ở miền
Bắc có
chỉsốchiếm
150.684,6
31% công
46.712,04
___________sán
lượng
nghiệp
8nghiệp.
tháng
đầucủa
năm
2002___________
nhân<
100 người(
chiếm
hơn
90%).
Theo
con số
tổng
cục thống kê thì
12,6%
tổng
số các DNVVN
trong
công

Thựclĩnh
hiện
(Tỷsản
đồng)
Thá
8DNVVN
tháng
trong
vực
xuấtkinh
cơ bản
các
DNVVN
chiếm
36%công
tổngnghiệp
số laotồn
động.
Về
ngành
nghề
doanh:
Các
trong
tại
ng
đầu
Trong
lĩnhngành
vực xây dựng


4 nhóm
saulàlà51%.
8/2002
7 tháng
ước tínhchính
Cộng
năm
VêNhóm
công nghệ:
cũng
không
khác
sotruyền
với tình hình chung của các doanh
+
ngành
thủ
công
mỹ
nghệ
so
đầu
tháng
dồn
8
2002 sothống: ngành này trong thời
nghiệp
nói chung
là lạc

hậu, lỗi thời,giá
tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp.
gian
quaViệt
đã nam,
có những
thay đổi
mạnh
vói mẽ, các
năm
8/2002
tháng
vói trị công nghiệp và văn hóa
Trình
độthành,
công nghệ
lạcmặt
hậu,hàng
yếu114.2
kémngành
thể 114.0
hiện ở đã
năng lực vận hành, tiếp thu
đã
hình
những
của
149219
23636
172855

tháng
2002
đầu
cùngnày
kỳ trở thành một trong các
công
nghệ,
công
nghiên
cứu
khaithống
tạo sản
mặt
hàng
cóđổi
thếmới
mạnh
củanghệ
Việtthấp.
nam.Khả
Tuynăng
nhiên
do góc
độtriển
truyền

Phân
theo
khu
vục

phần
và thành
kinh tế
phẩmhóa,
mớisự
cũng
không
tốt.nhóm111.1
văn
hội nhập
của
ngành này111.7
hạn chế bởi tính chất manh mún,
59798
9379
69177
hiệukhác
quảbiệt
sảnvăn
xuấthóa,
kinh
doanh:
bộ xuất
các DNVVN
( cả khăn
Nhà
quy môVềnhỏ,
cho
nên thịToàn
trường

khẩu rất khó
nước
như
quốc

kể thị
các
các doanh
nghiệp có vốn đầu tư
đòi
hỏicũng
phải
tìmngoài
được45846
nhữngdoanh
phân
đoạn
trường
ngách.
39634
6212
111.7
112.6
nướ ngoài) tạo ra
khoảng
tổng
sảnsản
lượng
công
hàng năm.

khai31%
thácgiá
vàtrị
sản
xuất
phẩm
thô:nghiệp
như khoáng
sản,
20164 + Nhóm
3617 ngành
23331
109.7
110.2
Trong
bộ sản.
phậnTrong
bộ41638
phận
DNVVN
quốc
25%
giátếtrịViệt
sản
hải
sản,đó,lâm
những
năm ngoài
qua, 119.2
sự

hộidoanh
nhập tạo
củaranền
kinh
35846
5792
119.6
lượngnói
công
nghiệp.
Nam
chung,
DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây
Báng
Giá
trị
tổng
công để
nghiệp
là thực trạng
cần: được
đánh
giásán
vàlượng
điều chỉnh
hình năm
thành1998
chiến lược cơ
53575
8465

62040
114.2
113.1
cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội
nhập bằng2100
tài nguyên17502
khai thác 87.7
một mặt đạt
hiệu quả kinh tế - xã hội thấp,
15402
96.1
mặt khác 6365
còn làm cho
nguồn tài126.8
nguyên, nhất
38173
44538
121.6là tài nguyên không tái tạo bị
Nguồn />suy kiệt,
nghiêm
trọng
cân bằng
sinh
thái.dân với sức tiêu thụ lớn là
Vềảnh
thị hởng
trường:
Một thị
trường
nội địa

đông
+rấtNhóm
ngành
chế biến,ở lắp
mang
nghĩa
xã hội
cơ hộiNguồn:
tốt cho
các chính
DNVVN
Việtráp:
nam.mặc
Tuydù
vậy,
với lại
tìnhýhình
nhập
lậu
Bộ Tài
trong
việc
tạo
ra
nhiều
chỗ
làm
việc
song
giá

trị
thụ
hưởng
chủ
yếu
mới
chỉ
tràn lanVềnhư
nay các
thì cơ
hội cạnh
tranh
rất khó
cơ hiện
cấu của
DNVVN
hiện
nay,làxuất
phátcho
từ các
điềuDNVVN
kiện lịchnói
sử
dừng
lại

giá
trị
gia
công

(phải
mua
nhiều
yếu
tố
đầu
vào
từ
bên
ngoài).
Từ
chung

các
DNVVN
trong
công
nghiệp
nói
riêng.
Cạnh
tranh
xét
cả
theo
kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế,
đó,
táccạnh
dụngtranh
tích lũy,

thúc
đẩy nền
kinh
hạngiá
chế.
Đặc
biệt sẽ
chịuvới
nhiều
nghĩa
với hàng
lậutế
với
rẻ,các
và DNVVN
cạnh
tranh
cả
trong
đó phần
lớn đối
tập trung
trongnhập
ba lĩnh
vực
chính:
trong lĩnh
rủi
ro
của

các
biến
động
tiền
tệ
của
khu
vực

quốc
tế.
doanh
vực
công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN
+
Nhóm
ngành
chếphát
tạotriển
sản các
phẩm
kỹlàthuật
(máycận
móc, Nguyễn
điện tử,
Nguồn:
Giải
pháp
DNVVN
tại cao:

Việt nam-GS-TS
nghiệp
lớn
vàođây
đó
khả
năng
hoạt động
ởtrong
khu nền
vực kinh
nông tế.Thêm
thôn. Sau
sẽ nghiên
cứutiếp
cụ thể thị
các trường
doanh
hóa
chất,
thiết
bị
đo
lường,
động
cơ...)

thể
coi


mới
bắt
đầu.
Hiện
tại
Đình
Hương
chủ
biên-NXB
chính
trị
quốc
gia.
chưa cao,
chấttừng
lượng
hạn chế .
nghiệp
trong
lĩnhsản
vựcphẩm
kể trên.
nhóm ngành
này
còn
phụ
thuộc
nhiều
đầubước
tư tài

chính,
côngtrong
nghệxuất
kỹ
Trong
8 tháng
đầu
năm
nay(năm
2002),
tốc
độ
tăng
sản
Chính
phủ
cũng
không
ngừng
có vào
những
tiến
tíchtrưởng
cực
việc
1.
DNVVN
trong
lĩnh vực
công

nghiệp
thuật
vànhững
trìnhcủađộ
quản
của
nước
ngoài.
DNVVN
thuộc
lĩnh
vực
công
công
nghiệp
khu
vựclýngoài
đạt
19,2%
so
cùngvà
kỳ năm
tiếp thu
kinh
nghiệm
quýquốc
báu doanh
từ
bênkhuyến
ngoài

nói
chung
các trước
quốc
Từ sau năm
1986,
do các
chính
sách
khích
kinh tếtừngoài
quốc
nghiệp
Việt
Nam
còn
thể
hiện
sự
đuối
sức

nhóm
ngành
này,
bởi
không
chỉ
(tốc
độ

tăng
trởng
công
nghiệp
chung
đạt
14,5%)
so
với
mức
chung
14%,
gia đang
phátlĩnh
triểnvực
nóicông
riêng.nghiệp
Hoạt động
hợp
cùng phát
sẻ kinh
doanh
trong
ra đời,
cáctácDNVVN
lúctriển,
này chia
tồn tại
dưới


do tàigiữa
chính
mànam
cònvàvìcác
sự tụt hậu
của ngừng
năng lực
nghiên cường
cún cơvà
bản

khu
nghiệm
Việt
được
củng
nhiều
hình thức
khác
nhau như nước
công không
ty TNHH,
công
ty cổtăng
phần, doanh
nghiên
ứng
là hệ
nhóm


trong
chiến
lâu
vực
nhàcứu
nước
là dụng.
11,7%,
khuchính
vực
nước
ngoài
13,1%.

thể lược
thấy
cố. Việt
nam
hiện
đã cóĐây
nhiều
quan
với ngành
cáctăng
nước
về
phát
triển
lĩnh tình
vựcdài



DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật...Ngày 22/5/2000, tại Hà
nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp - kinh
nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện
của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ
với
Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển
DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của
Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực
công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm
xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên
minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia
(Coníartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000
EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra
một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt
nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần thiết
về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các
nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn
đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa
dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị
trường
tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay
mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều

trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng
chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn của ngân
hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các
DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực


chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư
thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy
chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN
trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998
thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra
doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các
DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng
407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù
doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN
công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các
thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty
đi sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số
các công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh
doanh tổng hợp.
Về kinh cloanh.'Thiếu sự họp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản

chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả
kinh doanh thấp. Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp
tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN
tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh.

3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là
trong chiến lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan
trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do
UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành
nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động
phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng,
90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh


về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với
các DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn
đề xã hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, 1998 thì :Với doanh nghiệp
hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp tư nhân thì là
2.153
USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở các DNVVN khu vực
nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân
làm
hai loại là thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn,
nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày
16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực
nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn
100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu vực nông
thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề
nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên
cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc

đẩy quan hệ hợp tác thương mại trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển
các làng nghề truyền thống, đầu tư thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng
cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm
kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế,
trao đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát
triển
DNVVN ở các địa phương, tạo nhịp cầu giao thương phát triển.
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH vĩ MÔ ĐẾN sự PHÁT
TRIỂN
CỦA
CÁC DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và
phát triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành
lang pháp lý cho hoạt động của các DNVVN. Dưới đây là những nét chính
khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát
triển của DNVVN Việt nam.
II.


doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999,
có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp
theo
hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chí đăng ký kinh doanh
với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi thành
lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị trường, việc
giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh
doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành
nghề ( chí còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng, Bảo
hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các

chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách thương mại theo hướng “mở cửa”,
không
ngừng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài với chiến lược vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết
định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong những
nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình hình
đổi mới kinh tế ở Việt nam trong những năm gần đây.
Chính sách thương mại của Việt nam đã đạt được những tiến bộ đáng
kể trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thương mại
có hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hướng dẫn thi hành Luật
Thương mại ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận
thương mại quốc tế của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào
hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới như
ASEAN(1995),
APEC(1998)...và đặc biệt là ký được Hiệp định thương mại song phương
với
Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đường cho việc gia nhập WTO đã được cụ thể
hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ thương mại theo hướng tự do hơn, hội nhập
hơn cũng là những thuận lợi và cũng là chứa đựng những thách thức không
nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng.
a. Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN được cải

thiện theo co chê thông thoáng hon.


phép xuất nhập khẩu. Có thể xem đây là một bước tiến tích cực của Việt
nam
trong quá trình tự do hoá thưong mại.
Trước đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tướng chính

phủ về quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày
19/4/1994, các DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải
có giấy phép mà muốn có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện như:
Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã
đăng ký.
Thứ hai. mức vốn lun động không được dưới 200.000 USD vào thời
điểm đăng ký kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những
vùng kinh tế khó khăn khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất khẩu được khuyên khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những
trường
hợp đó, số vốn lưu động phải tương đương 100.000 USD.
Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân
viên có đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện họp đồng ngoại
thương.
Thêm vào đó, trước khi Nghị định 57/CP được ban hành thì các
doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn được thành lập như tổ chức xuất
nhập khẩu thì phải có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo Điều 11 của
Luật công ty.
Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng được các điều kiện kể trên và
chỉ có thể xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất
nhập khẩu trung gian này một khoản phí thông thường là từ 0,5% đến 1%
giá trị hợp đông xuất nhập khẩu, Các DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi
tiết lộ thông tin quan trọng và bí mật về các hợp đồng ngoại thương và họ
thậm chí còn bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu đó chiếm mất đối
tác nước ngoài.
Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng

ký.Với một số lượng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào


phép qua việc Chính phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện Luật thuơng
mại theo Nghị định 44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001.
Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cường
hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày
10/9/2001 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức
kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động ngoại thương của các DNVVN. Nhưng nó cũng có những thiếu sót,
những tồn tại mà chưa thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ
Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP
thông tư hướng dẫn quy định các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu thì phải có mã số hải quan, muốn có mã số hải quan thì phải
nộp đơn đăng ký cho Bộ Tài chính, từ đó phát sinh thêm nhiều thủ tục khó
khăn.
b. Cơ chế tự do hoá thương mại qua việc nới lỏng kiếm soát phi thuê

quan.
Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN
thể
hiện trong điều kiện tham gia, Nhà nước cũng quản lí xuất nhập khẩu bằng
cách ban hành các danh mục hàng hoá thương mại bị cấm, hoặc hạn chế
nhập khẩu theo hạn ngạch, hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm
ngừng xuất nhập khẩu, quy định mới nhất về các loại hàng hoá xuất nhập
khẩu được nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP ngày 20/8/2002 của Chính
phủ về danh mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu phfu
hợp với tinh thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng hoá cấm
xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn

ngạch, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt(
danh mục sẽ được điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng
hoá nêu trên là các hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Như vậy, nguyên
tắc ở đây là nguyên tắc không cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì được tự
do xuất nhập khẩu) chứ không như trước kia, chỉ ban hành các mặt hàng
được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
các DNVVN trong việc tìm hiểu nguồn hàng, mặt hàng để kinh doanh xuất


doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong việc tiếp cận thị
trường quốc tế.
Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chĩnh phủ đã công bố kế
hoạch quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu
trong từng năm như các năm trước đó, điều này tạo điều kiện ổn định và
thuận lợi hon cho hoạt động kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói
riêng của các DNVVN. Quy định mới nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày
4/4/2001 của Chĩnh phủ về kế hoạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 20012005.
Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp
tự kê khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải
phóng hàng đã được rút ngắn, đã thực hiện hệ thống “hành lang xanh” với
các nước ASEAN qua việc Tổng cục Hải quan hướng dẫn áp dụng tại Thông
báo số 1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996 và 1599/TCHQ-KTTT ngày
13/8/1996).
Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc
tế nói chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê
chuẩn lộ trình tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó
hầu hết các dòng thuế sẽ được giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống
còn 5% vào 2006.
Ngày 4/9/2002, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số
1062/2002/QĐ-BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp c/o hàng hoá

ASEAN của Việt nam-Form D đê hưởng các ưu đãi của Hiệp định về
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung( CEPT). Đây thực sự là
một
bước tiến đáng kể vì như vậy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam trong
đó phần lớn là các DNVVN sẽ được hưởng thêm những ưu đãi để tăng tính
cạnh tranh trên thương trường khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang
tiến hành xây dựng lại Biểu thuế xuất nhập khẩu đế áp dụng cho tất cả hàng
hoá xuất nhập khẩu vào Việt nam, chuẩn bị áp dụng “Danh mục thế quan áp
dụng trong ASEAN ”-AHTA (ASEAN Hamomised Tariff Nomenclature).
Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập
khẩu đã được Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào
năm 2001. Trước đó, việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu được
thực hiện qua các doanh nghiệp nhà nước được uỷ quyền. Đến năm 1998,


Bộ Thương mại đã cho phép các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tham
gia xuất nhập khẩu phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thương mại đã công
khai việc lựa chọn các doanh nghiệp để có thể tham gia vào hoạt động xuất
nhập khẩu gạo qua Quyết định 273/1999/Qđ-TTg ngày 24/12/1999 cho phép
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Và mới nhất là quyết định bãi bỏ phân
bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo Quyết định
46/2001/QD-TTg ngày4/4/2001. Việc tự do hoá là một cơ hội rất lớn cho các
DNVVN, xét về mặt hàng gạo , Việt nam là một trong những quốc gia xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới và gạo được xem như mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt nam. Còn về phân bón , có ý nghĩa rất quan trọng với một nước với
75% dân số làm nông nghiệp như Việt nam.
Bên cạnh những động thái tích cực như vậy vẫn có một số vấn đề phát
sinh như:
Thứ nhất, hiện nay Việt nam vẫn áp dụng mức tính giá tối thiểu với
20 nhóm mặt hàng, chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định hợp tác Hải

quan ASEAN và phương pháp xác định giá trị tính thuế nhập khẩu theo
nguyên tắc của GATT.
Thứ hai. việc Chính phủ ban hành danh mục các mặt hàng bị cấm
hoặc hạn chế xuất nhập khẩu tạm thời quá bất ngờ mà không được báo
trước hoặc nêu lí do một cách thoả đáng gây nên những cơn sốt về cầu (
như: xe máy...), đồng thời làm các DNVVN bị động trong công tác xuất
nhập khẩu, mất uy tín trên thị trường thế giới.
Thứ ba, việc quy định ngữ nghĩa của một số mặt hàng chưa được rõ
ràng, gây khó hiểu, hiểu lầm thậm chí hiểu sai. Chẳng hạn như “đồ chơi trẻ
em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và nhân cách”, “ hàng tiêu dùng đã qua
sử dụng” gây ra sự bất đồng vì một số nhân viên hải quan coi một số hàng
hoá đã qua tân trang là mới mặc dù chúng đã qua sử dụng. Đó là những vấn
đề mà có thể nói sẽ không bao giờ hết . Nhưng nhìn chung thì mặt tích cực
của Nghị định 57/CP vẫn là nổi bật, hỗ trợ đáng kể cho các DNVVN trong
việc tiếp cận thị trường quốc tế.
c. Việc kiểm soát ngoại hôi theo hướng nới lỏng dần.

Việc nới lỏng kiểm soát ngoại hối trong những năm gần đây phần nào
đã tác động tích cực tới khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các
DNVVN Việt nam. Cụ thể là theo quy định thi ngoại tệ vào Việt nam được


chuyển đổi thành VND, hoặc giữ trong một tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng.
Quyết định 173 yêu cầu các DNVVN bán 80% ngoại tệ cho ngân hàng, sau
đó nếu yêu cầu cần ngoại tệ thì phải mua lại và thông thường với giá cao hơn
đáng kể. Đến năm 1999, Tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã được giảm xuống 50% thu
nhập ngoại tệ theo Quyết định số 180/1999/QD-NHNN1 ngày 30/3/1999,
tiếp đó là giảm xuống 40% thu nhập ngoại tệ vào năm 2001 theo Quyết định
61/2001/QD-TTg ngày 25-4-2001, đó thể hiện những nỗ lực của Chính theo
hướng tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN trong ngoại

hối, nhưng điều đó vẫn còn phải được cải thiện hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhỏ là để có ngoại tệ nhập khẩu, các
DNVVN phải giải trình việc mình tham gia vào việc sản xuất các loại sản
phẩm nằm trong danh sách các mặt hàng thay thế nhập khẩu hoặc cho các dự
án cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp có liên quan thì được phép còn những
doanh nghiệp khác thì đương nhiên không được phép mua ngoại tệ cho hoạt
động nhập khẩu.
2. Tác động của chính sách tài chính tiền tệ:
a. Chính sách đầu tư:
Về đầu tư trong nước: Luật khuyến khích đầu tư trong nước( ban
hành ngày 22/6/1994, sửa đổi ngày 20/5/1998) và Nghị định hướng dẫn Luật
đã đề ra nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nói
chung và các DNVVN nói riêng, là một đối trọng quan trọng đối với Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam.
Luật đã có những quy định, những điều khoản khuyến khích đầu tư
trong nước, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành đầu tư như qua việc mở
rộng chủ thể đầu tư sang cả người Việt nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài cư trú lâu tại Việt nam (Trước đó, theo Luật doanh nghiệp tư
nhân, Luật công ty 1990 giới hạn chủ thể chỉ là công dân Việt nam, tổ chức
kinh tế xã hội; Luật hợp tác xã giới hạn chỉ là công dân Việt nam và hộ gia
đình) hay là qua việc cho phép người nước ngoài, tổ chức kinh tế nước ngoài
được phép góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt nam( không
qúa 30% vốn điều lệ). Bên cạnh đó là việc thành lập các quỹ hỗ trợ như Quỹ
hỗ trợ đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi ( hiện đã hoạt động trên 4 năm),
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ.


Luật đã qui định rõ những lĩnh vực đầu tư, các vùng được ưu
đãi kèm theo các chính sách ưu đãi như hỗ trợ mặt bằng kinh
doanh, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, đào tạo. Bước đầu các DNVVN đã

tiếp cận được một số nguồn hỗ trợ để phát triển sản xuất. Năm
2000, khu vực này đã được cấp khoảng 1.600 giấy chứng nhận ưu
đãi đầu tư, trên 1.100 dự án được vay tín dụng từ quĩ hỗ trợ phát
triển, 400 dự án được giao đất, cho thuê đất, hơn 200 dự án được
miễn giảm tiền thuế sử dụng đất hoặc giảm tiền thuê đất.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như việc so với thực tế cần hỗ trợ
của DNVVN thì còn nhỏ bé và dàn trải. Vẫn còn thiếu cơ chế pháp lý để
khuyến khích đầu tư trong nước đối với thành phần kinh tế trang trại là các
DNVVN ở nông thôn. Chính sách khuyên khích đầu tư trong nước chưa tạo
cơ hội cho doanh nghiệp ít vốn, khả năng tài chính chưa cao mà chỉ quan
tâm đến các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà nhàn nước khuyến
khích, một số quy định tồn tại mà chỉ có DNNN và một số doanh nghiệp có
điều kiện mới thực hiện được. Còn các DNVVN nói chung thì rất khó tiếp
cận.
Về đầu tư nước ngoài: Trong điều kiện phát triển kinh tế Việt nam
hiện nay, việc khai thác và tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài
như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn viện trợ phát triển của các tổ
chức
tài chính quốc tế... có vai trò rất quan trọng. Và Chính phủ cũng có những
chính sách, những quan điểm khẳng định tầm quan trọng của nguồn vốn bên
ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại Việt nam vào năm 1989,
được sửa đổi vào các năm 1992, 1994, 1996 và bên cạnh đó là rất nhiều văn
bản, thông tư hướng dẫn mà mới nhất là Nghị định số 24/2000/ND-CP ngày
31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi thành Luật đầu tư nước ngoài.
Tất cả cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ tối đa để thu hút nguồn
vốn từ bên ngoài.
Đầu
tư trong việc hợp tác với Tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên (MIGA) để tạo ra
một môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho cả đầu tư trong và ngoài nước,
thành quả có thể kể đến là trang web www.khoahoc.vnn.vn/mpi vvebsite vào

1/2002 nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, đầy đủ, cập nhật phục vụ


các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, địa chỉ này còn cung cấp
phương tiện xin phép đầu tư qua mạng.
Nhưng thực tế cần xét tới ở đây là bên góp vốn liên doanh với các
công ty liên doanh nước ngoài chủ yếu vẫn là nhà nước và rất ít các
DNVVN
góp vốn liên doanh. Thành phần kinh tế tư nhân-phần lớn là các DNVVNchỉ chiếm một phần rất nhỏ trong vốn liên doanh với bên ngoài và vẫn chưa
có chính sách tích cực khuyến khích khu vực các DNVVN tham gia nhiều
hơn vào các dự án liên doanh nước ngoài.
b. Chính sách tín dụng

Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNVVN được
quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, đây chính là một bước tiến quan trọng trong
việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển
Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNVVN của
nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển( được Chính phủ
thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999) dưới ba hình thức
đầu tư hỗ trợ DNVVN là :
Cho vay đầu tư : Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó
khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự
án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn
ODA.Thời hạn vay tối đa là 10 năm
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ
trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự
án
sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ là

các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Bảo lãnh tín dụng đầu tư: Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ
chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay.
Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng
được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu
đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi


Tiếp cận của DNVVN với tín dụng cũng được cải thiện hon thông qua
việc tự do hoá lãi suất trong năm 2001. Vao tháng 6/2001, trần lãi suất cho
vay đã được xoá bỏ và được phép vay trên mức lãi suất cơ bản áp dụng đã
cải
thiện việc tiếp cận tín dụng của các DNVVN.
Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNVVN đã tận dụng có hiệu quả và
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Tuy nhiên một thực tế là
dẫu rằng các DNVVN được quyền vay vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế thì các DNVVN ngoài quốc
doanh có rất ít cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn tín dụng cho giai
đoạn đầu mới thành lập vì theo các điều kiện, các thể lệ tín dụng thì họ phải
có những tài sản cầm cố hoặc thế chấp cho những khoản vay này. Các
DNVVN vẫn gặp những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất,
thủ tục định giá tài sản cầm cố, thế chấp. Trong khi đó những doanh nghiệp
quốc doanh không hề phải ký quỹ cho những khoản vay tín dụng tương tự.
Những thể lệ tín dụng này tạo sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc
doanh và ngoài quốc doanh. Hon nữa, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng
của ngân hàng còn hạn chế, hoạt động tín dụng của họ rất khó mở rộng trong
khi các khoản nợ xấu đang ngày càng tăng lên.
DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn
vốn tín dụng từ bên ngoài trong khi mà thị trường chứng khoán ở Việt nam
còn chưa hoạt động. Các nguồn vốn hỗ trợ như khoản hỗ trợ từ Dự án hỗ trợ

tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật bản(JBIC),
Dự án hỗ trợ DNVVN do phía Italy, Dự án UNDP rõ ràng là có hiệu quả
nhưng chưa có nhiều. Khả năng huy động vốn trong nước còn hạn chế, các
khoản tín dụng trung và dài hạn dường như nằm ngoài tầm với của các
DNVVN ngoài quốc doanh, các nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cũng không
hoàn toàn thuận lợi. Chĩnh vì lí do đó mà nguồn vốn của các DNVVN chủ
yếu lại đến từ các nguồn tín dụng không chính thức.
c. Chính sách thuế.

Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp
nói chung và DNVVN nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu
bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng
hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5%


×