Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THAM GIA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH Ở ĐỊA PHƯƠNG, TỪ THỰC TIỂN HUYỆN AN LÃO TỈNH BÌNH ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.44 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
Môn học : Hoạch định và phân tích chính sách công

Đề tài:
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ THAM GIA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH Ở ĐỊA
PHƯƠNG, TỪ THỰC TIỂN HUYỆN AN LÃO TỈNH BÌNH ĐỊNH.

Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS Nguyễn Hữu Hải

Học viên:

…………….

Lớp: Cao học ……

TP Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2011


MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu đầu ........................................................................................3
Phần nội dung..............................................................................................5
I- Cơ sở lý luận............................................................................................5
1- Chính sách và việc thực thi chính sách......................................... ......5
1.1 Chính sách............................................................................ .......5


1.2– Thực thi chính sách.................................................................. 5
2-Hệ thống chính trị............................ ...................................................5
3-Vai trò và mối liên hệ giữa các tổ chức trong hệ thốnh chính trị tham
gia thực thi chính sách........................... ...............................................................6
II- Những kết quả phối hợp trong thực thi chính sách ở địa phương trong
thời gian qua..........................................................................................................9
III- Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị tham gia thực thi chính sách................................11
Phần kết luận...............................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................15


PHẦN MỞ ĐẦU
1-Tính cấp thiết của đề tài.
Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách,
là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách. So với các khâu khác ,
tổ chức thực thi có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách , vì đây
là bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội. Như vậy tổ chức thực
thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách
thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng.
Đây là một quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài và trải qua
nhiều bước khác nhau. Việc tổ chức thực thi có hiệu quả chính sách không chỉ
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách mà còn khẳng định
tính đúng đắn của chính sách, vai trò của chủ thể trong việc họach định chính
sách, góp phần nâng cao niềm tin của đối tượng quản lý đối với chủ thể chính
sách cũng như niềm tin của nhân dân đối với các cấp ủy Đảng và chính quyền.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực thi chính sách;
những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc phối hợp triển khai thực
hiện các chính sách của nhà nước và đạt được những kết quả tích cực. Nền kinh

tế có bước phát triển và tăng trưởng khá; đất nước ta từng bước vượt ra khỏi tình
trạng các nước kém phát triển; chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. An ninh quốc phòng được giữ vững; chính trị ổn định.Vị thế của nước
ta trên trường quốc tế được nâng cao, góp phần xây dựng một thế giới, hòa bình,
dân chủ và tiến bộ xã hội .
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, quá trình tổ chức thực thi chính sách
trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Đảng ta đánh giá “khâu tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu
nhất “ . Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị tham gia vào việc thực hiện chính sách vừa có ý nghĩa lý luận,


vừa có ý nghĩa thực tiển sâu sắc, nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng
lắp, đùn đẩy, giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị , góp phần nâng cao hiệu
quả thực thi chính sách.
Qua kiến thức của bài giảng và được sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn
Hữu Hải, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ phân tích mối quan hệ giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị tham gia vào việc thực hiện các chính sách ở địa
phương nhìn từ thực tiển huyện An Lão tỉnh Bình Định” làm tiểu luận môn học
phân tích và họach định chính sách.
2- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị tham gia thực
hiện chính sách trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Đinh từ năm 2005 đến
nay.
3- Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sữ dụng phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và khái quát hóa...
4- Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tiểu luận gồm có 3 nội dung cơ bản.
- Những vấn đề lý luận về chính sách, hệ thống chính trị và mối quan hệ

giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị đối với việc thực thi chính sách.
- Đánh giá kết quả phối hợp thực thi các chính sách ở địa phương trong
thời gian qua.
- Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa các tổ
chức của hệ thống chính trị trong quá trình thực thi chính sách.
Tuy nhiên do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu hạn chế nên tiểu
luận khó lòng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo của thầy hướng
dẫn, các thầy cô giáo và sự tham gia của các bạn đồng nghiệp để tiểu luận được
hoàn thiện.


PHẦN NỘI DUNG
I - Cơ sở lý luận.
1 – Chính sách và việc thực thi chính sách.
1.1 Chính sách.
Trong hệ thống các công cụ quản lý được Nhà nước sữ dụng để điều hành
hoạt động kinh tế- xã hội thì chính sách được coi là công cụ nền tảng định
hướng cho các công cụ khác. Bởi lẽ, thông qua chính sách, nhà nước dùng để
định hướng cho các chủ thể khác nhau trong xã hội cùng hành động vì mục tiêu
chung và bày tỏ thái độ chính trị của mình với các biến cố xảy ra trong từng giai
đọan phát triển, chẵng hạn như chính sách thu hút đầu tư, chính sách xuất nhập
khẩu, chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Như
vậy có thể hiểu chính sách là những hành động ứng xữ của chủ thể với các hiện
tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định.
Từ khái nhiệm chung về chính sách và qua sự phân tích trên, chúng ta đi
đến khái niệm về chính sách công như sau : Chính sách công là những hành
động ứng xữ của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng,
được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2- Thực thi chính sách.
Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách,

là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách. So với các khâu khác ,
tổ chức thực thi có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách , vì đây
là bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội. Như vậy tổ chức thực
thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách
thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Đây là
một quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài và trải qua nhiều bước
khác nhau và đòi hỏi phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị.
2 -Hệ thống chính trị.


Khái niệm hệ thống chính trị lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp
nước ta năm 1992. Theo đó, hệ thống chính trị của nước ta bao gồm các yếu tố
thể chế, tạo thành mô hình tổng thể của nó, đó là : Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố cấu thành của hệ thống chính trị,
đồng thời là hạt nhân lãnh đao và là bộ phận quan trọng trong cơ cấu quyền lực
chính trị của đất nước. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước là tổ chức thể hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Nhà nước Việt
Nam thống nhất 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành
mạch 3 quyền đó.
Mặt trận Tổ quốc Việt nam là liên minh chính trị của các đòan thể nhân dân
và cá nhân tiêu biểu của giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là
người lãnh đạo Mặt trận. Các đoàn thể nhân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục
đích của mình, vừa vận động đòan viên, hội viên giúp nhau chăm lo bảo vệ các
lợi ích thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội
viên, vừa tham gia quản lý nhà nước.
3- Vai trò và mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
tham gia thực thi chính sách.

Trong hệ thống chính trị, các yếu tố cấu thành có mối liên hệ mật thiết với
nhau, có sự tác động qua lại với nhau. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ riêng, nhưng nhằm một mục đích chung là phục vụ sự nghiệp đổi mới,
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ phận quan trọng và là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị. Đảng có trách nhiệm vạch ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối,
chính sách và định hướng lớn; Đảng không trực tiếp quyết định xữ lý các vấn
đề cụ thể, thuộc chức năng của nhà nước, không làm thay những công việc thuộc


trách nhiệm, thẩm quyền của Nhà nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm
tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước”. Ở cấp ngành và địa phương, tổ chức đảng có trách nhiệm
xây dựng mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành, địa phương trên cơ
sở đề xuất của chính quyền, của lãnh đạo chuyên môn, bảo đảm quán triệt
đường lối chung của Đảng, thực hiện đúng chính sách và pháp luật của Nhà
nước, phù hợp với yêu cầu và khả năng thực tế của ngành, địa phương.
Trên cơ sở đường lối đổi mới đất nước được đại hội lần thứ VI của Đảng
thông qua và tiếp tục được khẳnh định qua các đại hội VII, VIII, IX và đại hội
X, Đảng đề ra những nghị quyết, chủ trương để giải quyết những vấn đề cấp
bách của các lĩnh vực đời sống xã hội như nghị quyết đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế; nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc; nghị quyết về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ; nghị quyết về an
ninh quốc phòng; nghị quyết về vấn đề dân tộc, tôn giáo, nghị quyết về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn...Đặc biệt Đảng đã ban hành những nghị quyết ,
chủ trương tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị;
định hướng việc xây dựng và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể nhân dân. Nhìn chung những chủ trương, nghị quyết của Đảng ngày

càng sát hợp với với sự phát trỉển của thực tiễn trong từng thời kỳ, góp phần
thực hiện thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sơ Hiến pháp,
pháp luật. Nhà nước luôn chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân. Trên cơ sở đường lối đổi mới, và các chủ trương, nghị quyết của Đảng
trong hoạt động đối nội và đối ngoại; Nhà nước thể chế hóa, đề ra những chính


sách, chiến lược, kế họach cụ thể và tổ chức thực hiện thông qua hoạt động ,
quản lý, điều hành, đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Đó
là tập trung xây dựng, đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là
hình thành thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước mà
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; về chiến lược xây dựng và phát triển
đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; chiến lược bảo
vệ an ninh quốc gia; chiến lược bảo vệ môi trường; chương trình xóa đói giảm
nghèo, chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
chương trình kiên cố hóa trường học; chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng;
chương trình chống suy thoái kinh tế, chương trình an sinh xã hội...
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ phận trong hệ thống
chính trị, là kênh quan trọng trong tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân
dân thông qua cơ chế tham gia quản lý lẫn cơ chế tác động vào quản lý nhà nước
bằng các quyền và trách nhiệm cụ thể của Mặt trận. Các quyền và trách nhiệm
này đã được thực hiện trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc
với nhân dân và Nhà nước cũng như vai trò cầu nối giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước của Mặt trận Tổ quốc Việt nam, thể hiện trên những mặt sau.

Thông qua các tổ chức thành viên như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội
nông dân, liên đoàn lao động, hội cựu chiến binh... và các thành viên là các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo,
doanh nhân...; Mặt trận Tổ quốc đã tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở; thi hành các chính
sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện các phong trào mang tính tòan dân như
phong trào đền ơn đáp nghĩa, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư; chương trình xóa đói giảm nghèo; chương trình
phòng chống tệ nạn xã hội; phong trào quần chúng bảo vệ an ninnh Tổ quốc.
Đồng thời tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến


nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những tâm tư nguyện vọng chính
đáng của nhân, phản ánh những vấn đề còn bất cập, còn hạn chế trong quá trình
thực thi chính sách để các cơ quan nhà nước tiếp thu, bổ sung, điều chỉnh các
chính sách cho phù hợp với thực tế, góp phần đưa chính sách vào cuộc sống.
II- Những kết quả phối hợp thực hiện các chính sách ở địa phương
trong thời gian qua.
An lão là một huyện vùng cao nằm về phía Bắc của tỉnh Bình Định, với
tổng diện tích tự nhiên 68.000 ha. Huyện có 3 dân tộc: Kinh, Hre, Bana với
tổng dân số 28.000 người , được phân bổ ở 10 đơn vị hành chính. Những năm
qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các chính sách phát triển kinh tế xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, nhất là chính sách phát triển kinh tế xã hội
miền núi; các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở
đã có sự phối hợp trong tổ chức, triển khai thực hiện các chính sách của Nhà
nước, đưa các chính sách đi vào cuộc sống.
Trên cơ sơ 8 chương trình hành động của huyện ủy thực hiện Nghị quyết
đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2005-2010 về chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, về phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, về nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc

thiểu số, về đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo... ; UBND
huyện đã cụ thể hóa thành các kế họach và thành lập các ban chỉ đạo triển khai
thực hiện, đồng thời chỉ đạo các xã, thị trấn thành lập ban chỉ đạo của cấp mình.
Mỗi ban chỉ đạo do đ/c Phó chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, trưởng các
phòng chuyên môn làm phó ban, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chính trị xã
hội làm thành viên. Các ban chỉ đạo xây dựng qui chế, nội dung các bước thực
hiện, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên. Theo đó, các phòng chuyên
môn có trách nhiệm hướng dẫn về các quy trình kỹ thuật, Mặt trận và các tổ
chức chính trị xã hội có trách nhiệm tuyên truyền vận động hội, đoàn viên
hưởng ứng tham gia thực hiện. Định kỳ, ban chỉ đạo tổ chức sơ tổng kết và báo
cáo kết quả thực hiện để Ban chấp hành huyện Đảng bộ xem xét cho ý kiến,


định hướng về chủ trương, biện pháp khắc phục những bất cập, hạn chế nhằm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị trong
quá trình tham gia thực thi chính sách, những năm qua; đặc biệt là từ năm 2005
đến nay huyện đã đạt được những kết quả tích cực trên các mặt của đời sống xã
hội. Kinh tế của huyện có bước tăng trưởng khá và ổn định; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng từ 35 % lên 55
%, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 65 % xuống còn 45 %; kết cấu hạ tầng được
đầu tư có trọng điểm và phát huy hiệu quả tốt, 100 % xã, thị trấn có đường ô tô
đến trung tâm xã, 100 % thôn bản được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Văn
hóa có nhiều mặt tiến bộ; huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở; đời sống của đại bộ phận nhân dân được ổn
định và cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm 7-8 % ; an ninh quốc phòng
được giữ vững; bộ mặt nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, sự phối hợp giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị trong việc thực thi chính sách vẫn còn nhiều mặt hạn
chế bất cập. Một số chương trình hành động của huyện ủy còn rập khuôn, thiếu

cụ thể, thiếu tính sáng tạo ; chức năng kiểm tra, giám sát của cấp ủy chưa được
phát huy đúng mức; trong khi đó một số lĩnh vực cụ thể, cấp ủy lại can thiệp quá
sâu. Tính năng động , sáng tạo của chính quyền các cấp còn hạn chế, chậm cụ
thể hóa các chương trình hành động của cấp ủy; Một số kế họach biện pháp, giải
pháp thực hiện còn chung chung, thiếu thực tế, tính khả thi không cao. Vai trò
của Mặt trận và các tổ chức thành viên chưa được phát huy đúng mức. Công tác
tuyên truyền, vận động các hội, đoàn viên chấp hành pháp luật, tham gia thực
hiện các chương trình, các phong trào ở địa phương chưa thường xuyên, liên tục,
hiệu quả chưa cao.
Những hạn chế, yếu kém trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do
các nguyên nhân sau.


Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy Đảng chậm đổi mới.
Chưa xác định rõ vị trí của cấp ủy trong hệ thống chính trị nói chung và trong
quan hệ với nhà nước nói riêng. Do vậy trong tổ chức thực hiện chính sách vẫn
còn tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng trong lãnh đạo, kiểm tra,
giám sát.
Năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền chưa ngang tầm
nhiệm vụ, tính chịu trách nhiệm thiếu rõ ràng, cụ thể.
Hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên còn mang nặng hành
chính hóa, giấy tờ. Sự phối hợp giữa Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính
trị xã hội còn nhiều hạn chế, mang tính hình thức, chồng chéo, hiệu quả chưa
cao.
III- Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia thực hiện chính sách .
Để tăng cường mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị tham
gia thực thi chính sách cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau.
1-Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, chủ trương, chính sách và định
hướng lớn; Đảng không trực tiếp quyết định xữ lý các vấn đề cụ thể, thuộc chức
năng của nhà nước, không làm thay những công việc thuộc trách nhiệm, thẩm
quyền của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác kiểm tra , phát hiện, xử lý để
đảm bảo cho sự quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước và chính quyền các cấp
theo đúng đường lối, định hướng của Đảng và theo Hiến pháp, pháp luật.
2- Đổi mới và hoàn thiện nội dung, phương thức hoạt động, lề lối làm việc
của các cấp ủy Đảng phù hợp điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có liên quan mật thiết với địa vị của Đảng
trong đời sống chính trị xã hội, liên quan đến sự hưng thịnh của đất nước. Vì
vậy cần phải hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực :
chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại.
3- Tăng cường trách nhiệm của Nhà nước và chính quyền các cấp trong
việc thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng , hiện thực hóa đi vào cuộc
sống.
Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp theo
hướng tinh gọn, có chất lượng cao, với một đội ngũ cán bộ công chức có phẩm
chất chính trị và có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, phát huy dân chủ vai trò phản
biện của Mặt trận và các tổ chức thành viên tham gia xây dựng và tổ chức thực
thi chính sách.
4- Nâng cao vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội trong công
tác phối hợp thực thi các chính sách
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức

thành viên theo hướng sâu sát cơ sở; tuyên truyền vận động các hội đoàn viên
chấp hành và thực hiện có hiệu quả các chính sách, pháp luật của nhà nước, khắc
phục tình trạng hành chính hóa trong tổ chức và hoạt động.
Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả qui chế phối hợp giữa Mặt trận
và chính quyền các cấp, đề cao vai trò giám sát, tham gia xây dựng chính quyền,
tham gia quản lý xã hội.


PHẦN KẾT LUẬN
Tổ chức thực thi chính sách là một bộ phận cấu thành trong chu trình
chính sách. Nó kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong chu trình tạo nên
một hệ thống nhất. Ngay quá trình tổ chức thực thi cũng bao gồm nhiều bước
hợp thành một hệ thống. Vì thế khi tiến hành tổ chức thực thi chính sách phải
đảm bảo tính hệ thống trong mỗi quá trình. Nội dung của tính hệ thống bao gồm:
hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách; hệ thống trong sữ dụng công cụ
quản lý khác của nhà nước; hệ thống trong tổ chức bộ máy tổ chức thực thi
chính sách...
Từ sự phân tích trên, để quá trình thực thi chính sách đạt hiệu quả, cần
phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Trong đó cần phân
định rõ vị trí, vai trò cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức tham gia vào quá
trình thực thi chính sách. Theo đó, vai trò định hướng lãnh đạo , kiểm tra giám
sát của các cấp ủy có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có tác động trực tiếp đối với
toàn xã hội, mà trước hết đối với các tổ chức đảng, cán bộ đảng viên- hạt nhân
chính trị trong các cơ quan, đoàn thể. Các cấp chính quyền với tư cách là người
trực tiếp tổ chức và duy trì thực thi chính sách, là yếu tố chủ quan, có vai trò
quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện. Nếu đội ngũ cán bộ công chức có năng
lực, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả thực thi chính sách. Ngược lại, nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan
có thẩm quyền thực thi chính sách sẽ đưa ra những kế họach dự kiến không sát
thực tế, làm lãng phí nguồn huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính

sách, thậm chí làm biến dạng chính sách. Mặt trận và các tổ chức thành viên có
vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền phổ biến làm cho hội đoàn viên nhận
thức đầy đủ ý nghĩa và mục tiêu của chính sách cũng như lợi ích mà chính sách
mang lại cho họ; đồng thời vận động hội, đoàn viên chấp hành chính sách, tạo ra
những phong trào thi đua thực hiện chính sách, góp phần đưa chính sách đi vào
cuộc sống.


Như vậy, các yếu tố cấu thành nên hệ thống chính trị có mối liên hệ mật
thiết với nhau, có sự tác động qua lại với nhau. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò, chức
năng nhiệm vụ riêng trong tổ chức, hoạt động nhưng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong quá trình thực thi chính sách và có ảnh hưởng quyết định đến
hiệu quả thực thi chính sách. Những thành tựu đạt được cũng như những hạn
chế, bất cập trong quá trình phối hợp thực thi chính sách giữa các tổ chức trong
hệ thống chính trị thời gian qua sẽ là bài học kinh nghiệm quí báu để các cấp ủy
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đổi mới về nội dung, phương thức
hoạt động, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém
phát triển, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng- NXB
chính trị quốc gia năm 2006.
2- Văn kiện hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương khóa X- NXB chính
trị quốc gia năm 2007.
3- GS.VS Nguyễn Duy Quý- Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ
đổi mới- NXB chính trị quốc gia năm 2008.
4- Nguyễn Khoa Điềm – 20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng

xã hội và phát triển văn hóa – NXB chí trị quốc gia năm 2005.
5- TS Nguyễn Hữu Hải – Giáo trình hoạch định và phân tích chính
sách công – NXB Giáo dục năm 2006.
6- Báo sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết đại hội huyện Đảng
bộ An Lão lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2005-2010.



×