Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.86 KB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

BÙI THỊ PHƢỢNG

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

BÙI THỊ PHƢỢNG

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Ngô Thị Lan Hƣơng


HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Th.S Ngô Thị Lan Hƣơng đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình tìm đề tài, đến khi hoàn thành khóa luận. Đồng thời tôi
xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính
trị, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời
gian thực hiện khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5, năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Phượng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới từ năm 2000 đến năm 2010”
dưới sự hướng dẫn của cô giáo – Th.S Ngô Thị Lan Hƣơng tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả
nghiên cứu của những tác giả khác.
Hà nội, tháng 5, năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Phượng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH,HĐH:

Công nghiệp hóa,Hiện đại hóa

CLB:

Câu lạc bộ

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

TDTT:

Thể dục thể thao

UBND:

Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI Ở TỈNH VĨNH PHÚC ...................................... 6
1.1. Lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa mới. ................................ 6
1.2. Thực tiễn công tác xây dựng đời sống văn hóa mới của tỉnh Vĩnh Phúc 20
TIỂU KẾT .................................................................................................... 28
Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010 ...... 29
2.1. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới từ
năm 2000 đến năm 2005............................................................................... 29
2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới từ
năm 2006 đến năm 2010............................................................................... 40
2.3. Kết quả và kinh nghiệm ......................................................................... 53
TIỂU KẾT ..................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 72


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đảng và Nhà
nước ta đang tập trung chỉ đạo phát triển đất nước mạnh mẽ và toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên nhiệm vụ xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một nhiệm vụ không kém
phần quan trọng vì dân giàu thì nước mới mạnh, muốn đất nước ngày càng
phát triển thì trước hết phải đảm bảo đời sống cho nhân dân.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V(3/1982).
Đây là một chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
xây dựng văn hóa, lối sống và con người phù hợp với đòi hỏi của đất nước

trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, xây dựng đời sống văn hóa là một trong những nhiệm vụ
công tác trọng tâm của nghành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong thời gian
qua công tác xây dựng đời sống văn hóa đã và đang thu được những thành tựu
khả quan, góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước. Ngày 16/7/1998, Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khoá
VIII) đã ban hành Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết TW 5 nêu ra 5 quan điểm
chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn, trong đó có giải pháp phát động
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, huy động mọi
lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng.
Theo quan điểm của Đảng, hòa vào xu thế phát triển chung của đất
nước, trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung
triển khai việc xây dựng đời sống văn hóa mới, phong trào này đã từng bước

1


xây dựng đời sống kinh tế ổn định, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh và
ngày càng được nâng cao; tạo môi trường cảnh quan sạch, đẹp. Ý thức của
người dân được nâng cao, luôn chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước;
hệ thống chính trị vững mạnh; tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong cộng đồng ngày càng được củng cố.
Tuy nhiên việc xây dựng đời sống văn hóa mới ở tỉnh Vĩnh Phúc trong
thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: trong lãnh đạo, chỉ đạo
phong trào còn chung chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát, chưa có
những giải pháp vận động thích hợp. Hầu hết vẫn còn một số bộ phận nhân
dân chưa thật tích cực hưởng ứng phong trào, ý thức trách nhiệm và ý thức
pháp luật còn thấp đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục kịp thời,
hiệu quả và những chính sách đầu tư đúng mức ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Do đó việc xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương chính là thực hiện
một cách cụ thể, thiết thực và sinh động chủ trương của Đảng về phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Rõ ràng việc xây dựng đời
sống văn hóa mới trong sự nghiệp đổi mới của Vĩnh Phúc là hết sức cần thiết
và cần đầu tư, quan tâm hơn nữa. Xuất phát từ lý do trên, tôi quyết định chọn
đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới
từ năm 2000 đến năm 2010” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa và công tác xây dựng đời sống văn hóa là một trong những nội
dung quan trọng trong quá trình phát triển và bảo vệ đất nước trong giai đoạn
hiện nay. Do đó, vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa thu hút
được nhiều sự quan tâm của nhiều học giả. Có nhiều công trình nghiên cứu
văn hóa đã ra mắt bạn đọc. Đầu tiên phải nói đến là công trình: Văn hóa đổi
mới (1994) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu lên một số luận điểm về mối
quan hệ giữa văn hóa và sự nghiệp đổi mới; Cơ sở văn hóa Việt Nam và bản

2


sắc văn hóa Việt Nam (1998) của GS Trần Quốc Vượng và Cơ sở văn hóa
Việt Nam và bản sắc văn hóa Việt Nam của PGS.TS Trần Ngọc Thêm; Văn
hóa và văn minh(1998) của Hồ Sỹ Qúy; Văn hóa và cách tiếp cận mới (1991)
của Phan Ngọc; Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX (2001) của Phạm Khiêm
Ích; Đại cương về văn hóa Việt nam (2004) của Phạm Thái Việt và Đào
Ngọc Tuấn;…
Để nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của văn hóa trong thời kì đổi
mới đất nước, đồng thời khắc phục loại bỏ những quan niệm sai lầm về văn
hóa đã có công trình nghiên cứu như: Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn xây
dựng đời sống văn hóa ở nước ta (1999) của GS Hoàng Vinh; Những vấn đề
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay (1985) của Nguyễn Văn Hy; Văn

hóa và xây dựng đời sống văn hóa của TS Nguyễn Hữu Thức; Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm
trên tạp chí Tư tưởng văn hóa - 2001; Những điểm mới về văn hóa trong văn
kiện Đại hội X của Bùi Đình Phong trên tạp chí Tư tưởng văn hóa - 2006.
Cùng với các công trình nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa nói chung,
cũng xuất hiện những công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa ở cơ sở, góp
phần làm rõ hơn những vấn đền mang tính lý luận và thực tiễn đối với đời
sống văn hóa tinh thần của mỗi người dân như: Một số giá trị văn hóa truyền
thống với đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay (1998) của Phạm Việt
Long và Nguyễn Đạo Toàn; Các vùng văn hóa Việt Nam của Đinh Gia Khánh
và Cù Huy Cận; Văn hóa các vùng truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ của
hội văn nghệ dân gian Nghệ An; Nhiều công trình đã tổng kết thực tiễn cuộc
vận động xây dựng làng văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa cơ sở có giá
trị như: Xây dựng môi trường văn hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn
(2006) do Ban văn hóa Tư tưởng Trung ương ấn hành; Về xây dựng môi
trường văn hóa cơ sở (2004) của Tiến sĩ Văn Đức Thanh.

3


Những công trình biên soạn và nghiên cứu nêu trên đã khẳng định tầm
quan trọng của xây dựng, phát triển văn hóa, trong đó có đời sống văn hóa,
nêu bật được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thực hiện bằng các
đường lối, chính sách phát triển và sự vận dụng đường lối, chính sách đó vào
các địa phương cụ thể.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất lớn và phong phú, vẫn còn nhiều nội
dung cụ thể mà các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới, nhất là chưa có công trình
khoa học nào đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa
mới của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. Việc tìm hiểu đời sống văn hóa ở các địa
phương mới triển khai bước đầu và kết quả đạt được còn khiêm tốn so với giá

trị vốn có của văn hóa và khả năng thực hiện của nhân dân.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Góp phần làm rõ đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về xây
dựng đời sống văn hóa mới và quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng đời sống văn hóa mới từ năm 2000 đến năm 2010 trên địa bàn toàn tỉnh.
Khẳng định những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế những vấn đề
mới nảy sinh trong quá trình thực hiện. Từ đó rút ra một số kinh nghiệm, nhằm
phát huy tốt hơn nữa việc xây dựng đời sống văn hóa mới của tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Vừa để phản ánh thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh trong
thời gian qua cũng như đề ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với sự nghiệp xây dựng đời sống
văn hóa, góp phần phục vụ cho việc đổi mới văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
Phục vụ trực tiếp cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- văn
hóa- xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.

4


4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây
dựng đời sống văn hóa mới từ năm 2000 đến năm 2010.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến
năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận, phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê,... để trình bày làm rõ
nội dụng.
Về nguồn tư liệu; đề tài chủ yếu dựa vào văn kiện, Nghị quyết TW của
Đảng, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc và các báo cáo
hằng quý, hằng năm của các cơ sở,ban, nghành ở các địa phương.
6. Đóng góp mới của khóa luận
Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới từ năm 2000 đến năm 2010”. Vì
vậy khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giáo viên các
trường cao đẳng, đại học khi tìm hiểu những nội dung liên quan đến đề tài.
Có thể xem khóa luận này là tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu đời
sống văn hóa địa phương nói riêng và địa phương học nói riêng. Đồng thời
cũng nêu rõ những yếu tố tốt đẹp cần gìn giữ, phát huy, những hạn chế cần
khắc phục trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới ở tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì khóa
luận có kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA MỚI Ở TỈNH VĨNH PHÚC

1.1. Lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa mới.
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về văn hóa, nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa
Trong toàn bộ các tác phẩm kinh điển đồ sộ của mình C.Mác và
Ph.Ăngghen không dành riêng một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày
hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa. Văn hóa không được Mác đề
cập như một lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, độc lập. Nhưng toàn bộ tư
tưởng của Mác về vẫn đề này từ nó lại được khái quát lên và thể hiện ra
trong hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng của C.Mác về con người
và xã hội. Trong Triết học Mác, C.Mác đã đề cập tới vấn đề bản chất của
văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con
người và xã hội. C.Mác và Ăngghen còn nói rõ hơn trong luận điểm: Mỗi
bước mà con người tiến đến văn hóa là mỗi bước con người tiến đến tự do.
Coi văn hóa là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người hoạt động lao động sản xuất và hoạt động tinh thần, C.Mác còn chỉ rõ, hai
phương thức hoạt động nền tảng này của con người tồn tại không tách rời
nhau mà gắn bó, thống nhất với nhau trong một chỉnh thể văn hóa để tạo nên
và tái tạo nên con người với tư cách là một thực thể sinh học - xã hội. Bằng
những hoạt động nền tảng này, con người tạo nên nền văn hóa của mình, sống
trong nền văn hóa đó và làm cho nền văn hóa đó ngày một phát triển, hoàn
thiện, vì cuộc sống ngày càng cao đẹp của mình, vì một xã hội nhân đạo, nhân
văn, công bằng, dân chủ. Đồng thời, thông qua kết quả của những hoạt động
nền tảng đó, con người phán xét toàn bộ lịch sử sinh thành và phát triển của

6


nhân loại, thẩm định hệ thống những giá trị con người - những giá trị định
hướng cho hoạt động con người, xác định cả nội hàm lẫn ngoại diên của hệ
thống những giá trị ấy và thể hiện chúng qua nền văn hóa của mình. Nhờ đó,
kết quả hoạt động của con người trong các lĩnh vực kinh kế, chính trị, khoa

học, v.v. cũng được phản ánh trong nền văn hóa nhân loại và trở thành yếu tố
cấu thành nền văn hóa ấy khi chúng mang ý nghĩa và nội dung con người, thể
hiện bản chất con người.
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa không chỉ đóng vai trò
là cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại, mà còn là lĩnh
vực luôn có ảnh hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, đến sự phát triển xã hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa
không chỉ tác động, ảnh hưởng đến nguyên nhân sinh ra nó - đến tồn tại xã
hội, đến quá trình sản xuất vật chất của con người, mà còn góp phần quyết
định phương thức vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài
người. Văn hóa còn đem lại cho con người sự điều chỉnh và định hướng hoạt
động của mình và qua đó, điều tiết quá trình sản xuất vật chất, điều tiết sự
phát triển xã hội, trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội bền
vững - phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo.
Quan điểm của Mác về văn hóa vì thế cũng đồng thời bao hàm cơ sở lý
luận của sự hình thành những chuẩn mực đánh giá các giá trị văn hóa.
Với những lý luận trên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nói văn hóa là khái niệm
phản ánh tổng thể sự thể hiện ra và sự phát huy những năng lực bản chất con
người trong tất cả các dạng thứ tồn tại hoạt động của con người và là sự phản ánh
tổng thể các hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội.
Kế thừa và phát triển quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về
văn hóa và vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực

7


tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục
bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của văn hóa
sáng tạo, là sự kết tinh năng lực bản chất con người. Hiểu theo góc độ này thì

chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng của văn hóa, C.Mác
khái quát mỗi bước con người tiến đến văn hóa là mỗi bước con người tiến đến
tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn đạt cụ thể hơn khi ông đưa ra
luận điểm về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao động xây dựng.
Như vậy, xét trên phương diện chung nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm
bản chất văn hóa xã hội chủ nghĩa chính là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng xã hội cộng sản.
Còn về phương diện lịch sử, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ra đời là một
tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử, là sự phát triển tự nhiên, hợp quy
luật khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa hình thành. Chủ nghĩa Mác - Lênin chủ rõ chủ
nghĩa xã hội được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và tiền đề kinh
tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập), đó cũng
chính là những tiền đề hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của văn hóa và phát triển văn hóa,
ông khẳng định văn hóa là nền tảng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
chế độ xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quảng đại quần
chúng nhân dân. Với bối cảnh lịch sử - cụ thể ở nước Nga - Xô Viết đầu
những năm 20 của thế kỷ XX, phát triển văn hóa phải được coi là một cuộc
cách mạng và là một trong "hai nhiệm vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời
đại", là "một thời kỳ lịch sử đặc biệt" để xây dựng nền văn hóa vô sản, văn
hóa xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm nền tảng, làm động lực quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

8


Chính vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư

tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạonhằm thỏa mãn nhu
cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa
nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đưa ra những đặc trưng cơ bản
của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác- Lênin giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư
tưởng, quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
Thứ hai, là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng xã hội mới
và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng Cộng sản, có
sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
không hình thành một cách tự phát. Trái lại, nó được hình thành và phát triển
một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính
đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với đời sống tinh thần
của xã hội, với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời
sống văn hóa tinh thần của xã hội phát triển lệch lạc, mất phương hướng.
Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nêu rõ nội dung và phương
thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phát triển, mang bản sắc văn hóa
của từng quốc gia, dân tộc.
Như vậy, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa và nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với các nước đang phát
triển cả về văn hóa lẫn phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay.

9



1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, xây dựng đời sống văn
hóa mới
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa:
Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa,
văn hóa xã hội chủ nghĩa và những hiểu biết của mình, Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tế nước ta, Người
luôn quan tâm sâu sắc đến vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cho
nhân dân.
Ngay đầu tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập
Ủy ban Văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 7/9/1945, khi tiếp các đại biểu của ủy
ban đó, Hồ Chủ tịch đã nói: “Tôi mong rằng các ngài trong giới văn hóa nhận
thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của Việt
Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới…Bổn phận của
các ngài là lãnh đạo tư tưởng của quốc dân, đấu tranh cho nền độc lập và kiến
thiết một nền văn hóa mới” [Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, tr.13].
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Theo Người thì văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những
cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn
hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát
triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Đây
là một quan niệm khác với quan niệm về văn hóa trước kia của nhà nho, của
các nhà trí thức tư sản đã tách văn hóa khỏi đời sống kinh tế - xã hội và coi
lĩnh vực văn hóa gắn liền với những cách sống cao thượng của tầng lớp trên.
Mặt khác, Người khẳng định rằng văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở
trong kinh tế và chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi nguồn gốc của các quan hệ và các giá trị
văn hóa gắn liền với trình độ phát triển của sản xuất vật chất. Người cho rằng:

10



“Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất” [Hồ Chí Minh toàn tập,tr.31].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu bản chất của mọi hiện tượng văn hóa đều gắn
với khả năng sáng tạo của con người.
Chính vì thế, Người cũng đã nghiên cứu và đề cập đến khái niệm văn
hóa ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.Theo nghĩa rộng, văn hóa được Hồ Chí
Minh định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, con người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, pháp
luật,tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đòi hỏi của sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh toàn
tập,tr.431].
Như vậy, văn hóa đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ
những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của con
người. Và muốn xây dựng nền văn hóa của dân tộc thì phải xây dựng trên tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý của con người,…
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh
thần của xã hội, là thuộc về kiến thức thượng tầng của xã hội. Đây là quan
điểm nhất quán của Hồ Chí Minh kể từ sau Cách Mạng Tháng Tám.
Hồ Chí Minh cho thấy văn hóa có vị trí và vai trò to lớn, quan trọng
trong đời sống xã hội: Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến
trúc thượng tầng; văn hóa ngang hàng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội; văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị; văn
hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Người xác định rõ, trong
đời sống xã hội có bốn vấn đề chủ yếu, quan trọng ngang nhau có mối quan
hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau là kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội.


11


Từ đó ta có thể thấy rằng, quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn trong việc hình thành tư
tưởng, chủ trương cho các ban, ngành, cơ quan trong vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa mới cho nhân dân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa mới:
Trong cuốn sách Đời sống mới (3/1947), chủ tịch Hồ Chí Minh đã
làm rõ khái niệm “Đời sống mới” trên cơ sở xác định vị trí nền tảng của
đạo đức và sự thể hiện của đạo đức đó trog lối sống, nếp sống hàng ngày.
Muốn xây dựng Đời sống mới trước hết là phải xây dựng được đạo đức
mới, vấn đề này, Người đã chỉ ra rằng: “... thực hiện Đời sống mới là Cần,
Kiệm, Liêm, Chính”; “Nếu không giữ được Cần, Kiệm, Liêm, Chính dễ trở
nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” còn “Nêu cao và thực hành Cần,
Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho Đời sống mới”[12,tr.104].
Thứ hai, phải xây dựng lối sống mới có lý tưởng, có đạo đức theo
hướng văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cùng với việc bồi dưỡng, nâng cao đạo đức,
việc xây dựng Đời sống mới đòi hỏi phải sửa đổi những việc rất cần thiết, rất
phổ thông, trong Đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Theo Hồ Chí Minh, đó là năm cách phải
sửa đổi đối với mỗi người cũng như đối với một tập thể, một cộng đồng. Cách
ăn, mặc, ở không phụ thuộc vào những thứ dùng để ăn, mặc, ở nhiều hay ít,
sang trọng hay đơn giản, mà lại phụ thuộc vào lối sống có hay không có văn
hóa của mỗi con người.
Theo Hồ Chí Minh, phải xây dựng một phong cách khiêm tốn, giản dị,
chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian,
ít lòng ham muốn về vật chất, về chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với

nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu

12


lòng yêu thương quý mến con người, trân trọng con người; đối với mình thì
chặt chẽ, đối với người khác thì khoan dung, độ lượng. Người cho rằng cách
ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe lẹt. Không
phải Người phủ nhận nhu cầu chính đáng của mỗi người trong việc cải thiện
và nâng cao điều kiện sinh hoạt của mình ngày càng tốt hơn, ai mà chẳng
muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong
lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn
ngon mặc đẹp, như vậy không có đạo đức.
Thứ ba, là xây dựng nếp sống mới. Theo Người, quá trình xây dựng lối
sống mới cũng là quá trình làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói quen
ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả một cộng đồng, trong phạm vi
một địa phương hay mở rộng ra cả nước và gọi là nếp sống mới hay nếp sống
văn minh. Nếp sống mới mà chúng ta xây dựng phải kế thừa những truyền
thống tinh thần tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa mà
còn phải phát triển cải tạo những phong tục tập quán cũ lạc hậu, bổ sung
những cái mới tiến bộ mà trước đó chưa có. Đời sống mới không phải cái gì
cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì mới cũng làm hết. Cái gì cũ mà xấu, thì phải
bỏ, ví dụ: Ta phải bỏ hết những tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không
xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý, thí dụ: Đơm cúng, cưới
hỏi quá xa xỉ ta phải giảm bớt đi. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm, thí dụ:
Ăn ở hợp vệ sinh, làm việc ngăn nắp.
Việc xây dựng Đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình,
vì mỗi người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia đình là một tế bào để
tạo nên xã hội. Mỗi người, mỗi gia đình đều thực hiện Đời sống mới thì mới

có thể xây dựng được Đời sống mới ở các tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố
phường cho đến cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh và đòi

13


hỏi mỗi người, mỗi gia đình phải thực hiện Đời sống mới. Do nhiều người
nhóm lại thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này
cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người
đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh... Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng
Đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường, Ai cũng làm như thế, thì tự
nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn minh. Ý nghĩa
đó được thể hiện trong những câu nói của Người đã trở thành rất quen thuộc
với chúng ta: “Văn minh thắng bạo tàn”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”...
Ngày nay, việc mở rộng cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa cũng là theo tinh thần đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cái nhìn biện chứng, sâu sắc về việc xây
dựng đời sống mới; nó không phủ nhận, bác bỏ hoàn toàn cái cũ và cũng
không nhất thiết cái gì cũng làm mới. Cái mới không tự nhiên xuất hiện mà
phải được kế thừa từ cái nền truyền thống; tiếp thu những truyền thống tốt đẹp
của cha ông ta về đạo làm người để xây dựng đời sống mới. Người cũng chỉ
ra sự khó khăn, phức tạp khi xây dựng cái mới, khi phải đấu tranh với sức ỳ
của cái xấu. Người cho rằng thói quen rất khó thay đổi. Cái tốt mà lạ người ta
có thể cho là xấu, cái xấu mà quen người ta cho là thường. Khi những thói
xấu đã trở thành nếp thì việc xóa bỏ nó không thể dễ dàng, ngay một lúc khó
có thể làm được, mà phải kiên trì, thường xuyên xây dựng để tạo ra nếp sống
mới. Như vậy có thể nói, Đời sống văn hóa là tất cả nội dung và cách thức,
hình thức hoạt động văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát triển
của con người trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Đó cũng là quá trình
hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa vì sự phát triển của con người và

cộng đồng. Đời sống văn hóa ở ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong mỗi
con người, mỗi gia đình và cộng đồng nhất định. Nội dung xây dựng đời sống
văn hóa Đời sống văn hóa bao gồm cả văn hóa đạo đức, văn hóa lối sống, văn

14


hóa lao động, văn hóa gia đình, văn hóa phong hóa, văn hóa chính trị vv... Đó
là những vấn đề của tất cả mọi người, từ người lãnh đạo cao nhất đến người
dân bình thường; trong lao động, chiến đấu, học tập và sinh hoạt; trong gia
đình, thôn xóm, nhà trường, công sở, xí nghiệp, đơn vị bộ đội vv... ở đây
không chỉ là những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thường gặp trong đời
sống hàng ngày như ăn, mặc, ở, đi lại, ma chay, cưới xin, vệ sinh, môi trường,
bài trừ hủ tục và các tệ nạn xã hội v.v… Hồ Chí Minh coi thói quen lạc hậu
cũng là một loại kẻ địch, giống như thực dân đế quốc, quan niệm này cũng
chưa thấy ở bất cứ người nào khác.
Theo tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, xây dựng đời sống mới phải gắn
liền với việc xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm cả
giá trị di sản văn hóa truyền thống và cách mạng, những giá trị sáng tạo mới
và tinh hoa văn hóa nhân loại. Môi trường văn hóa là sự kết hợp hài hòa giữa
môi trường xã hội và môi trường tự nhiên, có vai trò quan trọng trong việc
hình 16 thành nhân cách con người. Môi trường văn hóa ở cơ sở bao gồm các
đơn vị, cơ quan, xí nghiệp, công - nông - lâm trường, trường học, bệnh viện,
các khu dân cư như làng, ấp, bản, xã, phường, khu phố... Bảo đảm môi trường
văn hóa lành mạnh, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập, tiếp nhận thông
tin, thưởng thức nghệ thuật, vui chơi giải trí của mọi thành viên là cái cần có
để phòng, chống tốt nhất tệ nạn xã hội. Môi trường văn hóa là điều kiện để
hình thành nhân cách con người văn hóa biết sống hòa đồng với thiên nhiên,
yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên. Truyền thống văn hóa của nhân nhân ta là
tinh thần đoàn kết, cùng nhau khắc phục mọi khó khăn, thử thách của thiên

nhiên, biết cải tạo và chinh phục thiên nhiên một cách hợp lý. Dự báo xa về
tầm quan trọng của môi trường sống, hơn 40 năm trước, khi miền Bắc đang
bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động phong trào "Tết trồng cây", Người đưa công tác bảo vệ môi trường lên

15


ngang tầm với sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Công
cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, kiến thiết nước nhà được tiến hành
song song, đồng thời với việc bảo vệ môi trường, và có thể nói công tác bảo
vệ môi trường còn được đi trước một bước.
Như vậy, nội dung xây dựng đời sống mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề cập tới thật phong phú nhưng không xa lạ, vì đều bắt đầu từ muôn mặt của
đời sống hàng ngày, có liên quan tới mối quan hệ giữa con người với con
người trong xã hội.
Tóm lại, quan điểm về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa của Hồ
Chí Minh đã tỏ rõ tính dân tộc và hiện đại. Quan điểm này của Người là sự
vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa và xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời
quan điểm còn thể hiện tầm chiến lược thiên tài của chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc xác định vai trò, vị trí, chức năng và những tiêu chí cơ bản nhằm
định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam, làm cơ sở cho sự phát triển toàn
diện của xã hội và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Quan điểm của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa mới
Những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ năm 1930 đến
nay. Quan điểm nhất quán xuyết suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của

Đảng từ năm 1930 đến nay luôn khẳng định văn hóa, nghệ thuật là bộ phận
khăng khít và gắn bó với đời sống nhân dân.
“Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) xác định: “Văn hóa gồm tất cả tư
tưởng, văn học, nghệ thuật”, văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính
trị và văn hóa; ba phương châm của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng.

16


Đây là kim chỉ nam cho việc xây dựng văn hóa mới. Năm 1946, tại Đại hội
văn hóa toàn quốc lần I Bác Hồ nói: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Đến Đại hội III của Đảng (1960) đã chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành
cách mạng tư tưởng, văn hóa đồng thời với cách mạng kỹ thuật và cách mạng
trong quan hệ sản xuất. Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1981) tiếp tục xác
định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xa hội là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội
chủ nghĩa, có hình thức dân tộc, có tính Đảng và nhân dân.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã nhận định không có hình thái tư tưởng
nào có thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách
lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con
người. Đồng thời tại Đại hội VII (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trương xã hội
chúng ta xây dựng có một đặc trưng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản săc
dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII lần đầu tiên nói về văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã khẳng định văn hóa Việt Nam là thành quả nghìn năm lao động,
sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế

giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Nghị quyết còn khẳng định: Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đến Đại hội IX, Đảng ta một lần nữa
nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho

17


chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của người dân” [9,tr.5].
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Nhân dân là lực lượng
làm nên văn hóa trong cả ba khâu chủ yếu của tiến trình văn hóa: sáng tạo,
truyền bá và tiếp nhận. Đảng ta là lực lượng tiên phong về tư tưởng có sứ
mệnh lãnh đạo, chỉ đạo định hướng để nhân dân ta xây dựng văn hóa là vai trò
rất quan trọng.
Từ những quan điểm trên về văn hóa thì việc nâng cao đời sống văn
hóa ở cơ sở là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan
tâm. Điều đó thể hiện quan điểm có tính xuyên suốt của Đảng ta là “lấy dân
làm gốc”, lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất. Để cụ thể hóa
quan điểm này, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ III khóa V đề ra “tất
cả các cơ sở đều có tổ chức hoạt động văn hóa, tức là không còn cơ sở trắng
về văn hóa” và được xác định xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phải là một
trọng tâm công tác của Nhà nước.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ V (1986) Đảng ta nhận định phải đặc
biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở… Văn kiện Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm lỳ khóa VIII Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh
“phát triển các hoạt động văn hóa nghiệp dư, đẩy mạnh phong trào văn hóa

quần chúng ở cơ sở”. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định “củng cố
tăng cường mạng lưới văn hóa cơ sở”. Tại văn kiện Đại hội Đảng IX (2001),
Đảng ta đã khẳng định và nhấn mạnh nhiệm vụ trong đường lối kinh tế những
năm đầu thế kỷ XXI là “tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinnh thần của nhân dân , thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”[9,tr.114]. Còn
trong Hội nghị lần thứ năm (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương đã ra

18


nghị quyết: “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” (tháng 7-1998).
Quan điểm của Đảng ta đặt ra là xây dựng đời sống văn hóa trong điều
kiện thực tế ở Việt Nam chính là phương thức tốt nhất để rút ngắn khoảng
cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi. Chính vì vậy
trước lúc đi xa Bác Hồ kính yêu đã căn dặn “Đảng phải có kế hoạch thật tốt
để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân”.
Xây dựng đời sống văn hóa còn cần phải hiểu và quán triệt là tổ chức
các hoạt động văn hóa để đa dạng “văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng
ngày của nhân dân”. Xây dựng đời sống văn hóa là một cuộc đấu tranh lâu
dài, gay go và phức tạp, đó là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới,
giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cái phản động và cái cách mạng trên lĩnh
vực văn hóa, trên lĩnh vực đời sống tinh thần, lối sống của mỗi con người, của
cả một cộng đồng, cả dân tộc.
Việc xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là hướng vào việc giáo dục
xây dựng con người phát triển toàn diện. Đó là những con người “có tư tưởng
và tình cảm, có tri thức và thể lực, có phẩm chất và năng lực”. Trên cơ sở đó
đời sống văn hóa ở cơ sở là thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể của công

nhân lao động về văn hóa, là thưởng thức - hưởng thụ - sáng tạo những giá trị
văn hóa nghệ thuật, tạo dựng nên một lối sống văn minh lành mạnh, tiến bộ,
những phong tục tập quán tốt đẹp, mang bản sắc dân tộc.
Theo quan điểm của Đảng ta thì xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
chính là trực tiếp truyền bá đến người lao động những kiến thức tạo cho họ có
khả năng tiếp cận những thành tựu văn hóa và tham gia tích cưc vào các lĩnh
vực khác nhau của hoạt động xã hội góp phần tạo tạo ra lực lượng sản xuất
mới, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

19


×