Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------

LÊ THỊ LAN ANH

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH
ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
ThS NINH THỊ HẠNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo kinh tế du
lịch từ năm 2000 đến năm 2010” được hoàn thành tại Khoa Lịch sử, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Ninh Thị Hạnh.
Để hoàn thành khóa luận này tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới
Thạc sĩ Ninh Thị Hạnh, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và góp ý cho
tôi trong suốt thời gian làm khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Lịch sử đã giảng
dạy tôi suốt thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến thư viện tỉnh Ninh Bình, Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Ninh Bình đã giúp tôi hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, thầy cô trong


Khoa Lịch sử, tập thể lớp k37b sử đã luôn động viên, góp ý, tạo điều kiện cho
tôi trong suốt thời gian làm khóa luận
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân hòa, ngày… tháng 5 năm 2015
Người thực hiện

Lê Thị Lan Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Ninh Thi Hạnh. Các số liệu, kết quả trong khóa luận
là hoàn toàn trung thực, các nguồn tài liệu trích dẫn có nguồn gốc và suất xứ
rõ ràng. Tôi xin cam đoan những điều trên đây là đúng sự thật.
Xuân Hòa, ngày… tháng 5 năm 2015
Người thực hiện

Lê Thị Lan Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu............................................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu............................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 5
6. Bố cục khóa luận ....................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO KINH

TẾ DU LỊCH ..................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về tỉnh Ninh Bình ................................................................... 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................. 7
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................ 10
1.1.3. Một số điểm du lịch nổi bật ở Ninh Bình ........................................ 13
1.2. Chủ trương của Đảng ............................................................................ 17
1.3. Tình hình kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình trước năm 2000 ................ 26
1.3.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về kinh tế du lịch trước
năm 2000 .................................................................................................. 26
1.3.2. Kết quả thực hiện ............................................................................ 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 32
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010 ................................................................... 33
2.1. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm 2000 đến
năm 2005 ...................................................................................................... 33


2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về kinh tế du lịch từ năm
2000 đến năm 2005 ................................................................................... 33
2.1.2. Quá trình đẩy mạnh kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2000
đến năm 2005 ............................................................................................ 36
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch ............................................ 42
2.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm 2006 đến
năm 2010 ...................................................................................................... 44
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về kinh tế du lịch từ năm
2006 đến năm 2010 ................................................................................... 44
2.2.2. Quá trình đẩy mạnh kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2006
đến năm 2010 ............................................................................................ 48
2.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch ............................................ 56
2.3. Nhận xét và một số kinh nghiệm chủ yếu............................................. 59

2.3.1. Nhận xét .......................................................................................... 59
2.3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ........................................................... 74
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 80
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
PHỤC LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là một hoạt động không thể thiếu trong đời sống văn hóa- xã hội,
đồng thời đây được coi là một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước trên thế
giới. Ở nước ta, để tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững ngành du lịch,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “phát triển du lịch thật sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên
cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa,
lịch sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế,
sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực, xây dựng và nâng cấp cơ sở
vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm”[24, tr. 178].
Ninh Bình là vùng đất có lịch sử lâu đời, nằm ở khu vực Nam Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ, cách Hà Nội không xa, có một tiềm năng phát triển du lịch
to lớn, cùng với cố đô Hoa Lư, Ninh Bình còn có nhiều địa danh di tích lịch
sử văn hóa khác: Núi Dục Thúy, chùa Non Nước, nhà thờ Đá Phát Diệm, Tam
Cốc - Bích Động, Vân Long, rừng Cúc Phương…
Trong những năm qua, đặc biệt năm 1992 từ khi Ninh Bình được tách
ra từ tỉnh Hà Nam Ninh, du lịch Ninh Bình đã phát huy được thế mạnh của
mình. Việc phát triển du lịch đã đạt được những thành tựu to lớn; đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo ra nhiều công ăn việc làm, tăng
thêm thu nhập cho người dân.

Tuy nhiên, đến nay du lịch Ninh Bình vẫn chưa phát triển xứng đáng
với tiềm năng của mình. Điều đó đã đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh
Bình phải đánh giá đúng thực trạng của ngành, góp phần thúc đẩy hoạt động
du lịch phát triển bền vững, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch trong
xây dựng và phát triển của tỉnh trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

1


Nghiên cứu làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn lãnh đạo phát triển kinh
tế du lịch của tỉnh Ninh Bình thực sự là vấn đề rất cần thiết. Xuất phát từ
những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch từ năm 2000 đến năm 2010” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học
chuyên nghành Lịch sử Đảng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Du lịch luôn là đề tài nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học ở
các góc độ khác nhau.
Thứ nhất, sách chuyên khảo
Tác giả Đinh Trung Kiên trong cuốn sách “Một số vấn đề về du lịch
Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004, đã trình bày tổng quan giải
pháp nhằm phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa trong giáo trình “ Kinh
tế du lịch”, Nxb Đại học Kinh Tế Quốc dân, Hà Nội, năm 2008, đã trình bày
những vấn đề cơ bản về du lịch, về kinh tế du lịch và vấn đề quản lí ngành du
lịch ở Việt Nam.
Tác giả Trần Đức Thanh trong “Nhập môn khoa học du lịch”, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, đã trìnhbày những vấn đề về du lịch một
cách ngắn gọn và tổng quát nhằm phục vụ cho công việc học tập và giảng dạy
cho giáo viên và sinh viên trong ngành du lịch.
Thứ hai, luận văn, luận án

Luận án tiến sĩ kinh tế của Vũ Đình Thụy, Hà Nội (1996), về “những
điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành
kinh tế mũi nhọn” đã nêu bật những điều kiện thuận lợi về tự nhiên và nhân
văn của nước ta cho ngành du lịch, trên cơ sở những chủ trương và chính sách
của Đảng và Nhà nước, từ đó đề ra các giải pháp, kiến nghị để phát triển du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.

2


Luận án tiến sĩ kinh tế của Đỗ Văn Quất, thành phố Hồ Chí Minh
(2001), về “Định hướng và những chính sách cơ bản để phát triển ngành du
lịch Việt Nam đến 2010”, trên cơ sở phân tích những tiềm năng thế mạnh của
nước ta, dựa vào kinh nghiệm phát triển du của các nước trên thế giới và những
kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước. Luận án đã đưa ra những định hướng và
chính sách hữu hiệu phát triển kinh tế du lịch Việt Nam đến năm 2010.
Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế của Trịnh Quang Hảo về “Đổi mới
vai trò quản lí của nhà nước về kinh tế ở Ninh Bình cho phù hợp với nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam” đã phân tích và làm rõ cơ sở lí luận của đổi mới vai
trò quản lí của Nhà nước về kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Từ đó đã nêu rõ phương hướng và những biện pháp nhằm
tiếp tục đổi mới vai trò quản lí của Nhà nước về kinh tế.
Thứ ba, bài báo, tạp chí
Tác giả Lã Đăng Bật với tác phẩm “ Ninh Bình một vùng sơn thủy hữu
tình” do Nxb Trẻ phát hành năm 2007 đã giới thiệu một cách khái quát về địa
lí, lịch sử, con người, phong tục tập quán, đặc biệt là danh lam thắng cảnh du
lịch miền đất Ninh Bình.
Nguyễn Văn Mạnh với công trình “Phát triển sản phẩm du lịch sinh
thái tại Ninh Bình”, (đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2005), đã cho
thấy thế mạnh của du lịch sinh thái, thấy lợi ích của việc con người sống thân

thiện với thiên nhiên.
Trên đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tôi có thể hoàn
thành được khóa luận của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng đến việc làm sáng tỏ một cách toàn diện và khách quan
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đối với sự phát triển
kinh tế du lịch của tỉnh.

3


Nêu lên những thành tựu, kết quả đạt được của du lịch Ninh Bình từ
năm 2000 đền năm 2010.
Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo và chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong những giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài hướng đến giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày đường lối, chủ trương phát triển du lịch của Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2000 đến 2010.
Thứ hai, trình bày quá trình thực hiện đường lối phát triển du lịch ở
địa phương.
Thứ ba, đánh giá, phân tích những thành tựu, hạn chế của Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch.
Thứ tư, phân tích những nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế từ
đó tổng kết, rút ra một số kinh nghiệm lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: khóa luận nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh

Bình với việc phát triển kinh tế du lịch từ năm 2000 đến năm 2010.
Về không gian: khóa luận nghiên cứu sự phát triển du lịch ở tỉnh
Ninh Bình.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình thực hiện khóa luận đã sử dụng các nguồn tư liệu chủ
yếu sau:
Các văn kiện của Đảng và Chính phủ về vấn đề kinh tế du lịch, Các
văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình; các Chương trình, Nghị quyết của
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về phát triển du lịch.

4


Các báo cáo tổng kết của các sở, ban, ngành có liên quan đến vấn đề
phát triển du lịch.
Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu được đăng trên các
tạp chí của Trung ương và địa phương…
4.2.

Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Đó là đi sâu vào tìm hiểu sự phát

triển của ngành kinh tế du lịch Ninh Bình. Trong đó quan trọng nhất là giai
đoạn từ năm 2000 đến năm 2010.
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đi sâu nghiên cứu các Chủ trương,
Nghị quyết của Đảng nói chung và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình nói riêng về phát
triển kinh tế du lịch.
Phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp, thống kê: nhằm mục đích

tìm hiểu sự phát triển kinh tế du lịch, từ đó so sánh sự tăng trưởng kinh tế du
lịch qua các năm…
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận khái quát những tiềm năng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh
Ninh Bình và trình bày quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình về phát triển kinh tế du lịch từ năm 2000 đến 2010. Rút ra những thành
tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện.
Khóa luận rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, đề xuất một số phương hướng và giải
pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của du lịch Ninh Bình
một cách bền vững trong tương lai.
Khóa luận còn là nguồn tài liệu phục vụ trong việc học tập, nghiên cứu
của học sinh, sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng.

5


6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm có 2 chương:
Chương 1: Cơ sở để Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo kinh tế du lịch.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo kinh tế du lịch từ năm
2000 đến năm 2010.

6


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
KINH TẾ DU LỊCH

1.1. Khái quát về tỉnh Ninh Bình
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý
Ninh Bình là kinh đô cũ của nhà Lê cho đến khi Lý Công Uẩn lên ngôi
và dời đô về Thăng Long năm 1010. Tên Ninh Bình được gọi chính thức từ
năm 1831, đến 1975 thì sát nhập với hai tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh
Hà Nam Ninh. Từ năm 1992, Ninh Bình tách ra thành một tỉnh riêng như
ngày nay.
Ninh Bình là một tỉnh nhỏ nằm ở rìa phía Nam và Tây Nam của đồng
bằng sông Hồng. Vị trí giới hạn từ 19050 đến 20026 vĩ độ Bắc, từ105032 đến
106020 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Hà Nam với một phần ranh giới tự nhiên
là sông Đáy; phía Đông giáp Nam Định; phía Đông Nam giáp biển Đông;
phía Tây và Tây Nam giáp Thanh Hóa; phía Tây giáp Hòa Bình.
Hiện nay Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện thị (1 thành phố,
6 huyện và 1 thị xã) với 127 xã, 17 phường, thị trấn. Thành phố Ninh Bình là
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của toàn tỉnh.
Nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, trên trục quốc lộ 1A từ Bắc vào
Nam, Ninh Bình có 20 km đường sắt Thống Nhất đi qua và còn có nhiều
tuyến đường bộ quan trọng khác như: quốc lộ 1B, quốc lộ 10… Ninh Bình
cũng nằm trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng: Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế du lịch của Ninh Bình.

7


Về địa hình
Ninh Bình có địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa có đồi núi nửa
đồi núi và vùng ven biển. Vùng đồi núi, nửa đồi núi với các dãy núi đá vôi,
núi nhiều thạch sét, sa thạch, đồi đất đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp,

đầm lầy, ruộng trũng ven núi, có nhiều tiềm năng phát triển đặc biệt là phát
triển du lịch. Vùng đồng bằng trung tâm là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven
sông, có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương
thực tại chỗ và sản xuất hàng hóa xuất khẩu.Vùng ven biển và biển có nhiều
điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản, điều kiện phát triển một nền kinh tế
tổng hợp.
Với tiềm năng đó đã tạo cho Ninh Bình một tiền đề vững chắc để phát
triển các loại hình du lịch.
Về thổ nhưỡng
Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên là 139.011 ha, trong đó đất nông
nghiệp chiếm 44,57 , đất lâm nghiệp chiếm 19,89 , đất chuyên dùng chiếm
10,93 , đất khu dân cư chiếm 3,85% và đất chưa sử dụng chiếm 12,3%. Tài
nguyên đất ở Ninh Bình nhìn chung có độ phì trung bình với ba loại địa hình
ven biển, đồng bằng và bán sơn địa nên có thể bố trí được nhiều loại cây
trồng, nuôi trồng thủy sản, đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác dụng. Đây là
một lợi thế của Ninh Bình so với một số tỉnh đồng bằng sông Hồng để phát
triển kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng.
Về khí hậu
Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng, ngoài
ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, Đông Nam, còn chịu ảnh hưởng
của khí hậu ven biển, khí hậu rừng núi và nửa rừng núi. Thời tiết trong năm
chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm
sau; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình năm là 23,40C và

8


có sự chênh lệch không nhiều giữa các vùng. Tổng nhiệt độ năm đạt tới trị số
trên 8.5000C, có tới 8 đến 9 tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên 200C.
Độ ẩm trung bình hằng năm là 86%. Lượng mưa rơi trung bình toàn tỉnh đạt từ

1.860 - 1.950 mm, phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ của tỉnh.
Với điều kiện khí hậu nói trên đã tạo cho Ninh Bình những yếu tố
thuận lợi trong việc phát triển ngành du lich, thuận lợi cho việc thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước.
Về thủy văn
Ninh Bình là tỉnh có nhiều sông và đầm hồ. Đây là nguồn nước mặt
cung cấp nước cho công nghiệp, nông lâm nghiệp và bồi đắp phù xa cho đồng
ruộng. Hằng năm hệ thống sông ngòi ở Ninh Bình được nuôi dưỡng bằng
nguồn nước mưa dồi dào, tạo nên lượng dòng chảy tương đối phong phú
(khoảng 30 l/s/km2). Mật độ mạng lưới sông ngòi khoảng 0,6- 0,9 km/km2.
Ninh Bình có nhiều đầm hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Thắng, hồ Đồng
Chương, đầm Cút, đầm Vân Long… Nguồn nước khoáng ở Ninh Bình cũng
khá phong phú, có một số suối nước khoáng đã được khai thác và đưa vào
mục đích kinh tế du lịch như: Kênh Gà, Kỳ Phú, Thường Sung.
Về sinh vật
Ninh Bình là vùng đồng bằng được khai thác từ lâu đời để phát triển
nông nghiệp nên thực vật tự nhiên còn rất ít, chủ yếu là thực vật trồng. Rừng
nguyên sinh ở trong tỉnh chỉ còn ở khu vực vườn quốc gia Cúc Phương, với
nhiều loại thực vật phong phú: chò chỉ, chò xanh, lim, lát hoa… Ngoài ra, ở
một số nơi trên các sườn núi đá vôi còn có thảm thực vật thứ sinh nghèo. Ven
biển Kim Sơn có một ít rừng ngập mặn.
Động vật trong tỉnh khá phong phú, vào bậc nhất ở khu vực đồng bằng
sông Hồng. Ở Cúc Phương có 233 loài động vật có xương sống, 64 loài thú,
137 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư đặc biệt có nhiều loài động vật
quý hiếm. Tất cả tạo nên lợi thế về du lịch rừng cho ngành du lich Ninh Bình.

9


Về tài nguyên khoáng sản

Nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh Bình là đá vôi với trữ
lượng hàng chục tỷ m3, chất lượng tốt và đôlômit (hàng chục triệu tấn) phân
bố chủ yếu ở các huyện miền núi. Ngoài ra còn một số khoáng sản khác như:
đất sét, than bùn, cát xây dựng, sét gốm xứ, sét ximăng… trữ lượng nhỏ.
Như vậy, Ninh Bình là tỉnh có vị trí địa lý khá thuận lợi, lại có nguồn
tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú đặc biệt là tài nguyên du lịch.
Đây là một thế mạnh để Ninh Bình phát triển kinh tế - xã hội nhất là kinh tế
du lịch.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về truyền thống - lịch sử
Ninh Bình là vùng đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa, nhân dân
đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động; anh dũng, kiên cường trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước.
Ngay từ thế kỷ X, khi đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, Đinh Bộ Lĩnh người con của quê hương Ninh Bình đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy dẹp loạn
12 xứ quân, thu non sông về một mối. Sau khi lên ngôi, ông đóng đô ở Hoa
Lư, xây dựng triều chính. Hoa Lư (nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư)
trở thành kinh đô đầu tiên của nền phong kiến tập quyền ở nước ta.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, truyền thống Cách mạng hào
hùng của cha ông tiếp tục được các thế hệ con cháu trên mảnh đất Ninh Bình
tô thắm. Sau khi có lệnh Tổng khởi nghĩa, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân
tiến hành khởi nghĩa đập tan chính quyền đế quốc phong kiến. Thắng lợi này
đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử Đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhân dân
Ninh Bình đã cùng với nhân dân cả nước đồng lòng, đồng sức, kiên cường
chiến đấu, góp sức người, sức của vào thắng lợi chung của cả dân tộc.

10


Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa

xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh (từ năm 1975 đến năm 1992 là
Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh), quân và dân Ninh Bình tiếp tục phát huy truyền
thống lich sử vẻ vang và truyền thống cách mạng oanh liệt của quê hương anh
hùng, khơi dậy những tiềm năng to lớn để xây dựng Ninh Bình ngày càng
phát triển.
Đặc điểm dân cư và lao động
Dân số Ninh Bình theo số liệu điều tra dân số ngày 01/04/2009 là
898.459 người. So với dân số khu vực đồng bằng Sông Hồng dân số tỉnh Ninh
Bình chiếm 5,6% và bằng 1,2% dân số cả nước. Mật độ dân số của tỉnh
(khoảng 675 người/km2) thấp hơn mật độ trung bình của khu vực và đang nằm
trong “thời kì dân số vàng”, là lợi thế không nhỏ để cung cấp nguồn lao động,
thuận lợi trong quản lý và không gây sức ép lớn đối với phát triển kinh tế.
Nguồn lao động khá đông cả về số lượng, chất lượng và đang ở thời kì
đầu với tổng lao động năm 2008 chiếm 51,2% dân số (khoảng 480,3 nghìn
người). Ninh Bình có tỉ lệ lao động thất nghiệp đô thị khá thấp (3,7%), chất
lượng nguồn nhân lực được đánh giá là khá so với vùng đồng bằng Sông
Hồng cũng như cả nước. Do vậy, đây là một nhân tố rất thuận lợi để phát triển
kinh tế, nhất là đối với các ngành, các lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, công
nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động và ngành du lịch, dịch vụ.
Về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế
Nằm trên trục đường quốc lộ 1A, Ninh Bình có hệ thống giao thông
khá hoàn chỉnh, từ quốc lộ 1A, tỉnh lộ tới huyện lộ. Ninh Bình có gần 3000km
đường bộ các loại, trong đó có: gần 100km đường quốc lộ (đường 1A, đường
10, đường 12B); 118km đường tỉnh lộ (đường 477, 12C, 59B); 121km đường
huyện lộ và 2600km đường nội thị. Ngoài ra Ninh Bình còn có hơn 20km
đường sắt Bắc - Nam, có một ga hành khách. Đặc biệt năm 2002, đường cao

11



tốc Pháp Vân được hoàn thành cho phép giảm thời gian từ Hà Nội, nơi có cửa
khẩu hàng không quốc tế Nội Bài, với Ninh Bình xuống còn 1 giờ 45 phút.
Yếu tố hạ tầng này tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội nhất là kinh tế du
lịch của Ninh Bình trong mối quan hệ phát triển với thủ đô Hà Nội. Bên cạnh
đó, là một địa phương có hệ thống sông ngòi tương đối phát triển, giao thông
đường thủy cũng là thế mạnh của Ninh Bình. Nhiều điểm du lịch Ninh Bình
có thể tiếp cận bằng đường thủy và đây là thế mạnh cần phát huy nhằm tạo
các tour du lịch hấp dẫn với việc xây dựng các bến thuyền du lịch ở những
điểm thích hợp.
Mạng lưới điện trong tỉnh đã được xây dựng với tổng chiều dài các
đoạn dây trung cao áp là 770km. Hiện nay, tỉnh có một nhà máy nhiệt điện
Ninh Bình và 4 trạm điện phân phối. Nguồn điện hiện nay, bao gồm cả mạng
lưới điện phân phối về cơ bản có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Như vậy, qua phân tích những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh, có thể thấy Ninh Bình là tỉnh có vị trí địa lý
tương đối thuận lợi so với các tỉnh khác của khu vực đồng bằng Sông Hồng.
Nằm trên tuyến giao thông đường sắt và đường bộ xuyên Việt, Ninh Bình trở
thành một cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai miền Nam - Bắc. Với hệ
thống giao thông thuận lợi này, nếu biết liên kết với các tỉnh, thành phố thuộc
vùng đồng bằng Sông Hồng (Hà Nội, Hải Phòng) và các tỉnh thuộc miền núi
Tây Bắc và Trung Bô, Nam Bộ, Ninh Bình sẽ tạo được những tuyến du lịch
hết sức hấp dẫn, có khả năng đón tiếp khách du lịch nội địa lẫn quốc tế.
Về điều kiện kinh tế - xã hội, nguồn lao động dồi dào là một trong
những nguồn lực quan trọng với Ninh Bình trong quá trình phát triển đi lên.
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, cùng với sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế,
Ninh Bình đã có nhiều biện pháp thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, tạo điều
kiện để xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật

12



cho các ngành, nghề trong đó có du lịch. Ninh Bình cũng nhận được sự quan
tâm rất lớn của Chính phủ hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, đặc
biệt là hệ thống giao thông, vì vậy hệ thống hạ tầng giao thông du lịch Ninh
Bình đến các trọng điểm du lịch trên địa bàn khá đồng bộ và phát triển.
Bên cạnh những thuận lợi như vậy, vấn đề phát triển kinh tế du lịch ở
Ninh Bình còn gặp nhiều khó khăn như: cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục
vụ cho phát triển du lịch (cấp thoát nước, điện nước, bưu chính viễn thông…)
tuy thời gian gần đây đã được chú trọng đầu tư nhưng còn hạn chế; hệ thống
dịch vụ y tế, bảo hiểm, ngân hàng… chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của khách du lịch; lực lượng lao động toàn tỉnh tuy đông nhưng số lao
động hoạt động trong ngành du lịch còn ít, trình độ lực lượng cán bộ quản lý,
nhất là cán bộ trực tiếp làm du lịch còn nhiều bất cập, lao động nhàn rỗi, thiếu
việc làm còn nhiều…
1.1.3. Một số điểm du lịch nổi bật ở Ninh Bình
Ninh Bình là tỉnh không lớn nhưng có địa hình rất đa dạng: có núi, có
đồng bằng, có ven biển mang đầy đủ sắc thái địa hình Việt Nam thu nhỏ. Đặc
điểm về địa hình kết hợp với các thành phần tự nhiên khác như hệ thống thủy
văn, lớp phủ thực vật… đã tạo cho Ninh Bình tiềm năng du lịch đa dạng và
phong phú, thiên nhiên đã ban tặng cho cho vùng đất này nhiều danh lam
thắng cảnh kì thú, nhiều hang động nổi tiếng với cảnh quan đặc sắc và tính đa
dạng sinh học cao… Đây là tiền đề quan trọng cho việc phát triển nhiều loại
hình du lịch hấp dẫn như du lịch sinh thái, du lịch thăm quan, du lịch chữa
bệnh, du lịch mạo hiểm,… Một số điểm du lịch tiêu biểu như:
Quần thể khu du lịch sinh thái Tràng An
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, diện tích trên
1.961 ha. Khu du lịch Tràng An có quần thể hang động như: hang Địa Linh,
hang Tối, hang Sáng…, các thung lũng như: thung Mây, thung Nấu rượu,

13



thung Khống… và các hang xuyên thủy dài và đẹp mới được khai thác sẽ làm
cho du khách ngỡ ngàng.
Nằm trong quần thể khu du lịch sinh thái Tràng An còn có động sinh
Dược (thôn Xuân Trì, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn) là động xuyên thủy dài
gần 2 km và đặc biệt là núi Bái Đính (xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn). Núi Bái
Đính đứng độc lập, cao đến hơn 200m, quay hướng Đông, có dáng vòng cung
hai bên khép lại tựa tay ngai tạo thành một thung ở dưới rộng khoảng 3 ha gọi
là thung Chùa. Chùa ở vị trí đẹp, sơn thủy hữu tình với năm cái nhất: Chùa
lớn nhất, tượng to nhất (100 tấn đồng), nhiều tượng nhất (500 pho tượng La
Hán), chuông to nhất, giếng ngọc lớn nhất.
Vườn quốc gia Cúc Phương
Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập vào ngày 7/7/1962, có diện
tích 22.200 ha, trong đó 3/4 là núi đá vôi cao từ 300 m đến 648m so với
mặt biển.
Vườn quốc gia Cúc Phương có địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên
sinh chứa nhiều bí ẩn và cảnh quan độc đáo. Trong vườn có suối nước nóng
380C. Hệ thực vật phong phú với 1.994 loài thuộc 908 chi và 299 họ. Đặc biệt
có cây chò xanh, cây sấu thụt cổ đều trên 1.000 năm tuổi, cao từ 50 - 70 m.
Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài cho hoa và hương thơm quanh
năm. Hệ động vật đa dạng bao gồm 71 loài thú, hơn 300 loài chim, 33 loài bò
sát và 16 loài lưỡng cư. Nhiều loài thú quý như gấu, ngựa, lợn lòi, hổ, báo…
Với những lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về hệ sinh thái,
các giá trị văn hóa, lịch sử lâu đời, Cúc Phương trở thành điểm du lịch sinh
thái nổi tiếng hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc
trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước có diện tích lớn nhất vùng đồng bằng
sồng Hồng (khoảng 2.463 ha), nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia Viễn.


14


Rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạnh thuộc 327 chi,
127 họ, đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng,
lát hoa, tuế lá rộng, cốt toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật
có 39 loài, 19 họ, 17 bộ thú; có 12 loài động vật quý hiếm như: Voọc quần đùi
trắng, gấu ngựa, sơn dương, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Điều đáng chú ý là tại khu
vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc họ chân bơi, một loài côn
trùng quý hiếm, hiện còn rất ít ở Việt Nam. Khu ngập nước Vân Long còn 32
hang động đẹp có giá trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa…
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa
danh nổi tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Nơi đây
vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo với nhiều hang động, nhiều di tích lịch
sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa
Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc… Tam Cốc - Bích Động là 1 trong 16
khu du lịch chuyên đề quốc gia, được Chính phủ đầu tư xây dựng, nâng cấp
cơ sở hạ tầng, càng ngày càng thêm đẹp, thơ mộng hơn.
Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư là kinh đô đầu tiên
của nền phong kiến tập quyền ở Việt Nam.
Khu thành Hoa Lư rộng 300 ha, gồm 2 khu: khu trong và khu ngoài,
thông với nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp và hiểm trở. Theo truyền thuyết, cung
điện được xây ở thành ngoài, ở phía Đông có lối đi chính vào thành. Năm
1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, từ đó kinh đô Hoa Lư trở
thành cố đô. Ngày nay trên nền cung điện năm xưa là 2 ngôi đền cách nhau
chừng 500 m. Đền thờ Đinh Tiên Hoàng (làng Trường Yên Thượng, xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư) và đền thờ Lê Đại Hành (làng Trường Yên Hạ,

xã Trường Yên, huyện Hoa Lư) đều là những công trình tiêu biểu cho nghệ
thuật chạm khắc gỗ và đá của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam thế kỉ 17 - 19.

15


Nhà thờ đá Phát Diệm
Nhà thờ đá Phát Diệm thuộc thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, được
xây dựng từ năm 1875 đến năm 1898. Với trình độ kĩ thuật và điều kiện giao
thông của những năm cuối thế kỉ 19. Đây là một quần thể kiến trúc gồm có:
Ao hồ, Phương Đình, Nhà thờ lớn và Nhà thờ đá. Trong đó, Nhà thờ đá - Nhà
thờ dâng kính trái tim Đức Mẹ, tất cả từ nền, tường, chấn song, cột, xà đều
làm bằng đá. Vì thế người ta đã lấy tên gọi của nó để gọi chung cho cả khu
nhà thờ xứ Phát Diệm. Nhà thờ đá Phát Diệm phản ánh một nền kiến trúc điêu
khắc, đặc biệt là điêu khắc đá của Việt Nam, là sự hài hòa về nghệ thuật kiến
trúc Châu Âu và Á Đông.
Đền Thái Vy
Đền thờ Trần Nhân Tông, hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tông
(thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư). Đền Thái Vi được xây dựng
theo kiểu “nội công, ngoại quốc”. Đền có giếng ngọc xây bằng đá xanh. Qua
nghi môn phía bên phải là gác chuông 2 tầng, 8 mái, xây theo kiểu chồng
diêm, trên treo một quả chuông đúc từ năm Chính Hòa thứ 19 (1689). Phía
trong đền có nhiều cột đá chạm khắc nổi: long, ly, quy, phượng, cá chép hóa
long… vô cùng tinh xảo.
Đặc biệt, du khách đến với Ninh Bình sau khi thăm các di tích lịch sử
văn hóa, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên có thể lưu lại và hưởng thụ
nhiều món ăn đặc sắc, đậm hương vị của vùng đất Ninh Bình như: tái dê, cơm
cháy, rượu Lai Thành, nem Yên Mạc… Đây có thể coi là nguồn tài nguyên du
lịch vô tận của Ninh Bình trong sự nghiệp phát triển du lịch.
Với tính đa dạng về tài nguyên du lịch, trong đó có nhiều tài nguyên

đặc sắc, Ninh Bình hoàn toàn có cơ sở để phát triển những sản phẩm du lịch
không trùng lặp không chỉ đối với hoạt động phát triển du lịch của bản thân
địa phương Ninh Bình mà còn sẽ không trùng lặp với sản phẩm du lịch nhiều

16


địa phương khác trong khu vực, đặc biệt là những địa phương phụ cận như Hà
Nam, Nam Định, Thanh Hóa. Điều này sẽ tạo cho Ninh Bình sức hấp dẫn du
lịch riêng và là yếu tố quan trọng đối với phát triển du lịch Ninh Bình trong
bối cảnh hiện nay của du lịch Việt Nam.
1.2. Chủ trương của Đảng
Toàn Đảng, toàn dân ta sau 15 năm đổi mới đã tạo ra được những tiền
đề ổn định và vững chắc để bước vào thềm của thế kỉ mới - thế kỉ XXI. Thế kỉ
này, những biến đổi lớn lao của thời đại không chỉ đặt công cuộc xây dựng
đất nước Việt Nam trước những thời cơ, vận hội lớn, mà còn đặt cách mạng
Việt Nam đối mặt với những nguy cơ, thách thức không thể xem thường.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới, đó
là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.
Đứng trước những yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng (4/ 2001) đã đi sâu tổng kết những thành tựu đã đạt được của 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến
lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghệm sâu sắc, từ đó phát
triển, hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai
thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XXI.
Đối với ngành kinh tế du lịch, trong báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, Ban chấp hành Trung
ương Đảng đã đánh giá: “du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng
dịch vụ được nâng cấp lên. Tổng doanh thu du lịch tăng 9,7%/năm” [5, tr.755].
Những thành tựu mà du lịch Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn

trước năm 2000 là tiền đề vô cùng quan trọng và là cơ sở để Đảng đề ra Chủ
trương đúng đắn, thích hợp cho sự phát triển của ngành giai đoạn tới.
Nếu như Đại hội VIII (1996), Đảng ta mới chỉ chủ trương triển khai về
bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên phạm vi cả nước thì đến Đại hội

17


IX (2001), vấn đề phát triển kinh tế du lịch được quan tâm một cách đầy đủ
và sâu sắc hơn. Trên cơ sở đã hoàn thành quy hoạch phát triển du lịch tổng
thể, trong những năm tiếp theo, bên cạnh việc “nâng cao chất lượng, quy mô
và hiệu quả hoạt động du lịch, liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt
động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm”,
Đảng ta chủ trương: “đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn” [5,
tr. 805]. Đây là một chủ trương vô cùng đúng đắn, phù hợp với việc khai thác
tiềm năng, thế mạnh của đất nước cũng như xu thế phát triển chung của nền
kinh tế thế giới trong thế kỉ mới. Thế kỉ XXI đã được nhiều nhà kinh tế trên thế
giới đưa ra dự đoán là “thế kỉ của ngành dịch vụ”, trong đó du lịch được coi là
“ngành công nghiệp không khói” đóng vai trò hết sức to lớn. Giá trị kinh tế mà
ngành du lịch đem lại sẽ không thua kém gì ngành dầu lửa và ô tô.
Đại hội Đảng IX cũng nhấn mạnh, để hoạt động kinh doanh đạt hiệu
quả cao nhất, ngành du lịch phải “phát triển và đa dạng các loại hình và các
điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và lịch sử, thể thao hấp dẫn du khách
trong và ngoài nước. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất và đẩy mạnh hợp
tác liên kết với các nước trong hoạt động du lịch” [5, tr.805].
Ngoài việc đưa ra đường lối phát triển chung cho ngành du lịch trên
phạm vi cả nước, trong “Định hướng phát triển các vùng lãnh thổ”, Văn kiện
Đại hội Đảng IX cũng nêu lên chủ trương phát triển kinh tế du lịch của Đảng
đối với điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm năng du lịch cụ thể của từng vùng
lãnh thổ. Ở Trung du và miền núi Bắc Bộ; “Phát triển mạnh du lịch, chú

trọng du lịch sinh thái, cảnh quan thiên nhiên như hồ Ba Bể, hồ Thác Bà, hồ
Núi Cốc, Sapa…; tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa trong vùng gắn với phát
triển du lịch” [5, tr.820]. Đối với đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ: “Phát triển mạnh du lịch trong vùng, đầu tư xây dựng khu du
lịch tổng hợp Hạ Long - Cát Bà, khu du lịch Đồ Sơn. Phát triển các điểm du

18


lịch ở các tỉnh gắn với trung tâm du lịch ở trong và ngoài vùng để hình thành
rõ nét các tuyến du lịch nội vùng” [5, tr.821]. Khu vực Bắc Trung bộ, Duyên
hải Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: “Khai thác thế mạnh du
lịch văn hóa, lịch sử và du lịch ven biển; phát triển các trung tâm du lịch ở
từng tỉnh trong vùng và các điểm du lịch hấp dẫn như: cố đô Huế, Hội An,
Mỹ Sơn, Phong Nha, Cảnh Dương, Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong, Đại
Lãnh… Phối hợp với sự phát triển của các đô thị, khu, cụm công nghiệp với
phát triển du lịch, nhất là du lịch biển” [5, tr. 823 -824]. Đối với Tây Nguyên
Đại hội chỉ rõ: “Phát triển du lịch, xây dựng các trung tâm du lịch Đan Kia,
Suối Vàng, Hồ Lăk, Buôn Đôn… Hình thành các tuyến du lịch nội vùng và
liên vùng” [5, tr. 825]. Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam: “Ngoài trung tâm du lịch và dịch vụ lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, tập
trung phát triển du lịch, dịch vụ biển ở Vũng Tàu, Côn Đảo, Mũi Né” [5, tr.
827]. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: “Khai thác lợi thế về vị trí địa lý để
phát triển nhanh các loại hình du lịch miệt vườn, sinh thái, du lịch biển,
đảo… gắn với thành phố Hồ Chí Minh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
các tuyến du lịch liên vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ” [5, tr. 829 - 830].
Chủ trương phát triển du lịch trên 6 vùng lãnh thổ thể hiện sự quan tâm sâu
sát của Đảng với quyết tâm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
trong thời kì mới.
Như vậy có thể nói những chủ trương của Đảng trong Đại hội IX về

phát triển kinh tế du lịch trên phạm vi cả nước nói chung và trong “Định
hướng phát triển các vùng lãnh thổ” nói riêng đã thể hiện nhận thức đầy đủ,
sâu sắc của Đảng về vai trò to lớn của kinh tế du lịch trong nền kinh tế quốc
dân. So với giai đoạn trước năm 2000, thì đây là một bước tiến đáng ghi nhận.
Những định hướng chiến lược này là cơ sở cho việc xác định mục tiêu của du
lịch Việt Nam trước thềm thế kỉ mới; tạo ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh

19


sự phát triển của ngành; đồng thời là căn cứ để mỗi địa phương trong đó có
tỉnh Ninh Bình có phương hướng phát triển du lịch đúng đắn và phù hợp.
Với tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, để khẳng định hơn
nữa việc đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, ngày 22/7/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 97/2002/QĐTTg phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010”.
Nhằm thực hiện những mục tiêu được đề ra trong “Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam 2001 - 2010”, ngày 30/9/2002, Tổng cục du lịch tổ chức hội
Nghị triển khai Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2002 2005. Chủ đề mới được chọn là “Việt Nam - Điểm đến thân thiện và an toàn”.
Theo đó, du lịch Việt Nam sẽ đột phá theo hai hướng: tập hợp nguồn lực xây
dựng những khu du lịch hoàn chỉnh để có nhiều sản phẩm độc đáo, có thể cạnh
tranh trong khu vực; đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch để Việt Nam trở thành
một điểm đến hấp dẫn, luôn mới lạ trên bản đồ thế giới.
Chương trình hành động quốc gia mới này sẽ là cơ sở để các địa
phương tính toán, quy hoạch lại phương hướng đầu tư của từng tỉnh thành.
Tuy nhiên, Tổng cục Du lịch khuyến cáo, cần hạn chế các sản phẩm trùng lặp
dẫn đến tình trạng cạnh tranh phá giá nhau; cảnh báo về hiện tượng bùng nổ
cáp treo, công viên nước làm lãng phí đầu tư. Riêng năm 2002, ngân sách Nhà
nước dành cho chương trình khoảng 42 tỷ đồng, sẽ phân bổ 28 tỷ cho hoạt
động quảng bá, xúc tiến, còn lại đầu tư cho hạ tầng và đào tạo nhân lực.
Những năm 2001 - 2005, nhằm thực hiện tốt Chủ trương của Đảng về

việc đưa du lịch trở thành ngànhkinh tế mũi nhọn, các ban ngành trong cả
nước cũng đã có nhiều quan tâm, chú ý để tạo ra những điều kiện thuận lợi
nhất cho sự phát triển của du lịch Việt Nam trước thềm thế kỉ mới. Ngày
25/12/2002, Bộ nội Vụ ra Quyết định số 18/2002/QĐ-BNV về việc Cho phép
thành lập Hiệp hội du lịch Việt Nam. Ngày 29/7/2003, Bộ Tài nguyên môi

20


×