Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

LATS Đổi mới quản trị trong các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.91 KB, 12 trang )

1

2

PHẦN MỞ ĐẦU

những tố chất mới năng động, sáng tạo, hiệu quả. Trong tương lai khi hệ
thống giáo dục đào tạo phát triển đúng quy luật, cạnh tranh bình đẳng, các
trường NCL sẽ phát triển mạnh và có những trường là mô hình đối chứng về
tổ chức quản lý, về hiệu quả đào tạo trong việc quản lý, sử dụng, phát huy
tài sản nhân lực vật lực trong giáo dục đào tạo.
Sau 10 năm thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010” tình
hình giáo dục đại học nước ta có một số chuyển biến tích cực. Quy mô phát triển khá
nhanh, số trường đại học, cao đẳng tăng lên, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân,
số sinh viên/1 vạn dân vào cuối năm 2010 đã đạt được mục tiêu đặt ra (200 sinh
viên/1 vạn dân), trong đó có 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập và số sinh
viên do các trường ngoài công lập đào tạo chiếm khoảng 15 % số sinh viên cả nước
(mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2020). [13] [14].
Mặc dù các trường ĐHNCL đã có những đóng góp không nhỏ trong
sự nghiệp phát triển giáo dục đại học của đất nước, tuy nhiên cơ chế hoạt
động, mô hình quản trị điều hành trong các trường ĐHNCL vẫn còn
nhiều bất cập, chưa khai thác tối đa tiềm năng của hệ thống trường này
và chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong khi giáo dục đại học khu
vực và thế giới có những bước phát triển khá mạnh, thì nhìn chung giáo dục
đại học NCL Việt Nam vẫn đang lúng túng, hành lang pháp lý chưa chuẩn,
mô hình còn chắp vá, nội dung phương pháp đào tạo còn lạc hậu…, nói
chung chưa có bước đi vững chắc, chất lượng đào tạo còn yếu kém, chưa có
sự đột phá để phát triển. Nguồn nhân lực đại học phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vẫn còn trong tình trạng vừa thừa vừa
thiếu, nhất là thiếu nhân lực chất lượng cao, có khả năng đi trước đón đầu.
Để khắc phục tình trạng yếu kém đó, trong Quyết định của Thủ tướng


Chính phủ số 121/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các
trường Đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 ngày 27 tháng 7 năm 2007
đã chỉ rõ: “Cần phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam
giai Đoạn 2006 – 2020”. [26]. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 296/CTTTg về việc đổi mới quản lý giáo dục Đại học giai đoạn 2010 – 2012 ngày 27
tháng 2 năm 2010 cũng đã khẳng định: Phải đổi mới hệ thống giáo dục Đại
học và sau Đại học, gắn Đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi
cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là
chuyên gia đầu ngành [23]. Cốt lõi của vấn đề đổi mới của Nghị quyết Trung
ương 4 Khoá V, Văn kiện Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành TW khóa IX
chính là việc tăng quyền tự chủ cho các trường Đại học. Tuy nhiên, công tác
quản trị các trường đại học NCL ở Việt Nam theo mô hình nào để đảm bảo
chất lượng và hiệu quả đào tạo đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu về thực tiễn “Đổi mới quản trị trong các trường đại học
ngoài công lập ở Việt Nam” là vấn đề cấp bách nhằm tìm kiếm giải pháp và
mô hình ĐH NCL năng động, hiệu quả, có sức sống nội lực mạnh mẽ để tự

1. Lý do chọn đề tài
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, giáo dục đại học ngoài công lập (NCL)
được xem như một phần bổ sung quan trọng cho khu vực giáo dục đại học
công lập. Nó có thể đáp ứng một cách hiệu quả và linh hoạt đối với những
yêu cầu của người học và giới tuyển dụng. Hơn nữa giáo dục đại học NCL
còn góp phần mở rộng quy mô giáo dục đại học của quốc gia với một chi
phí công không đáng kể. Ở một số nước, tỷ lệ sinh viên học tại các trường
đại học NCL có thể khá lớn, thí dụ: Tỷ lệ này là 86% ở Philipin, 75% ở Hàn
Quốc và 60% ở Braxin, Indonexia, Bangladet và Columbia. [30]. Trong quá
trình phát triển các trường đại học NCL, vấn đề quản trị rất được coi trọng,
nó là một trong nhứng yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công.
Trong quá trình toàn cầu hóa, giáo dục đại học NCL ở Việt Nam không
thể đứng ngoài lề và thực sự đã có bước chuyển mình để hòa nhịp với tình
hình mới. Hiện nay, vấn đề quản trị trường đại học một cách hiệu quả hơn,

xây dựng và phát triển nhà trường trở thành những cơ sở đào tạo có chất
lượng cao và có uy tín hơn đang là vấn đề trăn trở của các nhà quản lý giáo
dục đại học Việt Nam.
Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NĐCP về đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam ngày 2 tháng 11 năm 2005 tiếp tục khẳng
định vai trò quan trọng cảu giáo dục đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu, xã hội hóa giáo dục là bước đi hết sức quan trọng; trong chiếm lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đào tạo nhân lực chất lượng
cao là một trong 3 khâu đột phá để phát triển đất nước. Để đáp ứng yêu cầu
đó “cần đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa”. Đây là định hướng và quyết tâm lớn của Đảng,
Nhà nước ta trong phát triển giáo dục đào tạo. [14].
Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục đào tạo, loại hình trường đại
học, cao đẳng ngoài công lập là sản phẩm của tư duy đổi mới giáo dục đào
tạo, ra đời từ những năm 80 thế kỷ XX và phát triển thành hệ thống các
trường ĐH, CĐ ngoài công lập (NCL) như ngày nay. Đây là một thành phần
mới trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam. Hệ thống các trường
NCL tuy chưa phát triển như mong muốn, nhưng đã có những nỗ lực vượt
khó khăn, tìm tòi cách đi, cách hoạt động, gánh vác một phần tải trọng giáo
dục đại học của cả nước, mở rộng cơ hội học đại học, học nghề của nhân
dân. Các trường đại học ngoài công lập gồm có các trường dân lập, bán
công và tư thục, hoạt động chủ yếu từ nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước,
thu hút các nguồn lực xã hội để làm giáo dục, tuân thủ pháp luật hiện hành,
phù hợp với Điều lệ Trường đại học Việt Nam. Là loại hình mới, thành phần
mới, tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường đại học NCL phải có


3

4


khẳng định mình và khẳng định sự đúng đắn của chủ trương phát triển mạng
lưới trường ĐH ngoài công lập của Đảng và Nhà nước[19].
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
a) Một số công trình nghiên cứu thế giới
• Nghiên cứu về các trường đại học ở Hoa Kỳ
Lữ Đạt – Chu Mãn Sinh(Chủ biên), Cải cách giáo dục ở các nước phát
triển, cải cách giáo dục ở Mỹ - Quyển I,II,III,IV – Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội, 2010, cho thấy: ĐH tư thục tại Mỹ hầu hết là một tổ chức phi lợi
nhuận (PLN) vì phải tuân theo những luật của liên bang và của một tổ chức
PLN. Nếu mở trường theo dạng lợi nhuận cho cá nhân thì không được hưởng
đặc quyền và hoạt động của một tổ chức PLN. Cái mấu chốt để định nghĩa
PLN là từ mô hình tài chính. Số tiền một người bỏ ra xây dựng trường ĐH
chỉ là con số rất nhỏ. Số tiền lớn mà trường thu được là nhờ vào sự quyên góp
và đầu tư - gọi là endowment.
*Nghiên cứu của Trần Thắng (2011), ĐH tư thục tại Mỹ là một tổ chức
phi lợi nhuận (PLN). Những cá nhân, công ty hay tổ chức đóng góp tài
chính và tài sản cho trường ĐH sẽ được miễn thuế một phần vào nguồn thu
nhập hằng năm. Tài sản của trường là của chung, không thuộc về các cá nhân
hay nhóm riêng biệt.
• Nghiên cứu về các trường đại học ở Anh
GS.TS Graeme John Davies (2011), Với kinh nghiệm nhiều năm làm
hiệu trưởng tại các trường ĐH danh tiếng của Anh như ĐH Liverpool,
ĐH Glasgow và ĐH London (UoL), và hiện là hiệu trưởng British
University Vietnam (ĐH Anh Quốc VN - BUV), GS.TS Graeme John
Davies chia sẻ 3 yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH, đó là vấn đề tự
chủ của các trường đại học, vai trò của Nhà nước và công tác kiểm định
chất lượng giáo dục đại học.
• Nghiên cứu về các trường đại học ở Úc
Nghiên cứu của Đào Văn Khanh, MBA trường ĐH RMIT (Australia)

trong “Tự trị ĐH: Câu chuyện từ Australia”."Mô hình nào cho tự trị ĐH
Việt Nam" . Tác giả đã đưa ra 5 mô hình phổ biến: (i).Mô hình công ty
(business model): (ii). Mô hình đối tác truyền thống (traditional stakeholder
model): (iii). Mô hình ủy trị (trusteeship model): (iv). Mô hình collegial
model; (v). Mô hình cân bằng (equalizer model):
*Nghiên cứu về các trường đại học ở Singapore.
Giáo dục Singapore từ lâu đã được đánh giá là một trong những nền giáo
dục tiên tiến và đáng tin cậy nhất thế giới. Bên cạnh các trường công lập
danh tiếng, chính phủ Singapore quyết định thiết lập quy trình quản lý
nghiêm ngặt dành cho các đơn vị này, dưới sự giám sát chặt chẽ của Hội
đồng Giáo dục Tư thục Singapore (CPE) và hệ thống chứng nhận EduTrust
dành cho các trường tư thục có nhu cầu tuyển sinh sinh viên quốc tế.

• Nghiên cứu về các trường đại học ở Nhật Bản
Lữ Đạt – Chu Mãn Sinh (Chủ biên), Cải cách giáo dục ở các nước phát
triển, cải cách giáo dục ở Nhật Bản & Ôxtrâylia– Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội, 2010 đã nêu bật về mô hình quản lý giáo dục ở Nhật Bản: Mô hình
quản lý nhà nước về giáo dục của Nhật Bản mang nặng tính tập trung và thống
nhất quốc gia. Cơ quan trung ương về quản lý giáo dục là Bộ Giáo dục. Năm
1999, một cuộc họp nội các Nhật đã xác định việc chuyển đổi Đại học quốc
gia thành công ty quản trị Độc lập. Đến tháng 4 năm 2004, tất cả các trường
Đại học quốc gia ở Nhật đều chuyển đổi thành công ty Đại học quốc gia.
Tức là theo mô hình tự chủ Đại học tuyệt đối.
• Một số nghiên cứu khác
Nghiên cứu của Van Vught (1994), đã đưa ra hai mô hình "kiểm soát nhà
nước" và "giám sát nhà nước" đối với các trường Đại học. Tác giả đã phân tích
mô hình "kiểm soát nhà nước" là hình thức Nhà nước kiểm soát gần như tất cả
các hoạt động của hệ thống giáo dục Đại học. Mô hình này thường thấy ở
các nước Châu Á.Còn mô hình "giám sát nhà nước", điển hình như các
nước Anh, Mỹ, Australia nơi mà sự can thiệp của nhà nước đối với các

trường Đại học là rất ít. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ của các trường và
khuyến khích khả năng tự quản lý và chịu trách nhiệm. [65].
Nghiên cứu của Arthur M. Hauptman (2006) trong “Tài chính cho giáo
dục đại học”; “Xu hướng và vấn đề” đã khẳng định học phí và hỗ trợ của
ngân sách nhà nước đối với các trường là hai nguồn chính trang trải cho hoạt
động của các trường.
b) Một số nghiên cứu trong nước
• Nghiên cứu Mô hình trường đại học tư thục ở Việt Nam
Tại Hội thảo “mô hình trường đại học tư thục ở Việt Nam” do Hiệp hội
các trường ngoài công lập Việt Nam đã tổ chức tháng 03.2011 tại trường
Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội: Nhiều vấn đề về sở hữu, khái
niệm trường đại học ngoài công lập vì lợi nhuận và phi lợi nhuận, cũng như
mối quan hệ giữa nhà giáo dục và nhà đầu tư... đã được đưa ra tranh luận
khá gay gắt;. Các nghiên cứu và các cuộc hội thảo này đều chỉ rõ một số
biểu hiện của những tác động tích cực trong quản trị điều hành, quyền tự
chủ tăng lên và tính linh hoạt cao hơn cho các cơ sở giáo dục đào tạo NCL.
Đồng thời cũng đã chỉ ra một số hạn chế của thực tiễn công tác quản trị điều
hành giáo dục trong các trường đại học NCL ở Việt Nam về công tác quản
trị (đặc biệt là quản trị về tài chính) chưa có tác động tích cực tới hiệu quả
quản trị điều hành giáo dục.
• Nghiên cứu“Mô hình ERP cho các trường đại học”
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chức – Trường đại học Kinh tế - Đại học
Đà Nẵng với “Mô hình ERP cho các trường đại học” tác giả đã phân tích:
ERP có thể nói đơn giản đó là chuẩn hóa qui trình quản lý (ISO) trong môi


5

6


trường công nghệ thông tin (IT). Nói đến ERP, người ta nghĩ ngay đến giải
pháp quản lý tổng thể nguồn lực doanh nghiệp dựa vào việc chuẩn hóa qui
trình quản lý (ISO) trên nền tảng của công nghệ thông tin.
• Nghiên cứu “Quản lý trường đại học theo mô hình Balanced scorecard”
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Quý (2010) – Đại học Đà Nẵng về “ Quản
lý trường đại học theo mô hình Balanced scorecard” (tạp chí khoa học và
công nghệ, đại học Đà Nẵng – số 2(37).2010) tác giả đã phân tích: Mô hình
Balanced Scorecard - một mô hình quản lý kinh tế rất hiệu quả và phân
tích tính ứng dụng của nó trong lĩnh vực giáo dục đại học dưới bốn
bình diện: tài chính, sinh viên, học hỏi và phát triển, và các hoạt động nội
bộ nhằm thực hiện tốt mục tiêu của nhà trường.
• Nghiên cứu Quản lý đại học theo mô hình“University cooperation”
Nghiên cứu của GS. TSKH. Bùi Văn Ga (2008) – Giám đốc Đại học
Đà Nẵng, “các trường Đại học Việt Nam phải áp dụng mô hình quản lý
theo kiểu công ty (University cooperation) (Bùi, 2008): Một ví dụ cụ thể
là Đại học Queensland Australia (UQ) - một trong bốn trường đại học
nghiên cứu hàng đầu của Australia và được xếp hạng thứ 33 trên thế giới
vào năm 2007 - luôn khẳng định mình là doanh nghiệp 1 tỷ Úc kim
(a billion dollar enterprise) và điều đó cũng được quốc tế công nhận.
Chiến lược hoạt động của UQ được xây dựng dựa trên bộ chuẩn đầu ra,
tức là nhà trường luôn tìm hiểu và phân tích xem sinh viên, cộng đồng và
doanh nghiệp-đơn vị sử dụng ‘sản phẩm đào tạo’ của họ cần gì, để từ đó
trường xây dựng chiến lược hoạt động dựa theo các tiêu chí đó.
• Nghiên cứu về những nguyên tắc cơ bản của quản trị đại học đương đại
Nghiên cứu của tác giả Đào Văn Khanh, MBA trường ĐH RMIT
(Australia) đã "phân tích những nguyên tắc cơ bản của quản trị ĐH đương
đại, đồng thời đề xuất mô hình thích hợp cho các ĐH đa ngành ở Việt
Nam". Theo đó quan trọng nhất là tự chủ học thuật. Tác giả cho rằng: một
trường ĐH có thể không được tự chủ về tài chính hoặc nhân sự nhưng tự
chủ về học thuật là điều không thể chối cãi.

Phân tích các nghiên cứu về các trường đại học tiên tiến trên thế giới và
các trường đại học trong nước đã chỉ ra bài học cho Việt Nam: thế nào là đại học
Phi lợi nhuận và thế nào là đại học vì lợi nhuận. Sự khác nhau cơ bản giữa trường
đại học phi lợi nhuận và vì lợi nhuận là mô hình quản trị tài chính. Đại học Phi lợi
nhuận là trường đại học mà tài sản của trường là của chung, không thuộc về các
cá nhân hay nhóm riêng biệt. Các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò quan trọng của
HĐQT và BGH khá rõ ràng. HĐQT là người tổ chức, sáng lập và đề ra các chiến
lược . Còn BGH là người thực thi các chiến lược và các hoạt động của nhà trường
theo nghị quyết của HĐQT. Đa số các nghiên cứu cũng đồng ý cho rằng nên để
các trường đại học NCL hoạt động theo mô hình công ty thì sẽ bảo vệ được quyền
lợi của các nhà đầu tư. Đồng thời nhà nước cũng cần chuyển đổi từ mô hình

“kiểm soát nhà nước" sang mô hình "giám sát nhà nước" đối với các trường
Đại học, có nghĩa là sự can thiệp của nhà nước đối với các trường Đại học là
rất ít. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ của các trường và khuyến khích khả
năng tự quản lý và chịu trách nhiệm.
c) Một số lý thuyết về quản trị trường đại học
Lý thuyết về mô hình “kiểm soát nhà nước”
Mô hình “kiểm soát nhà nước” thường gặp ở các nước Châu Âu “vốn có
sự can thiệp khá sâu của Nhà nước và của giới chính thể học thuật” (Braun
and Murien, 1999:17). Theo Neave và van Vught (1994:9), Nhà nước đóng
vai trò quan trọng trong việc quyết định hệ thống giáo dục ĐH học, tức Nhà
nước “kiểm soát gần như tất cả các hoạt động của hệ thống giáo dục ĐH.
Lý thuyết về mô hình “giám sát nhà nước”
Ngược với mô hình “kiểm soát nhà nước” là mô hình “giám sát nhà
nước”. Mô hình này thể hiện rõ ở các nước Anh, Mỹ, Úc, nơi mà sự can
thiệp của nhà nước đối với các trường là khá thấp. Vai trò của nhà nước là
giám sát hệ thống ĐH thay vì kiểm soát bởi nhà nước muốn đảm bảo chất
lượng học thuật và duy trì mức độ chịu trách nhiệm cao của các trường.
Neave và van Vught (1994:11) đã miêu tả: “Trong mô hình này, sự tác

động/can thiệp của nhà nước thường không cao. Nhà nước không can thiệp
sâu vào cơ sở giáo dục ĐH thông qua các qui định chi tiết và kiểm soát chặt
chẽ như mô hình nhà nước kiểm soát mà tôn trọng quyền tự chủ của các
trường và khuyến khích khả năng tự quản lý và chịu trách nhiệm”. [65].
Lý thuyết về mô hình tự chủ đại học tuyệt đối
Có khá nhiều quan điểm khác nhau về quản trị ĐH. Giống như các tổ
chức nhà nước và tư nhân, trường ĐH không thể đứng ngoài những thay đổi
lớn của xã hội (Bargh và các cộng sự, 1996). Trường ĐH được thành lập và
hoạt động trong khuôn khổ pháp lý qui định nhằm sản xuất ra nhiều loại
hàng hóa công và tư với chức năng chính của nó là giảng dạy và nghiên
cứu. Vì vậy, trường ĐH là một phần quan trọng của hệ thống cơ sở hạ tầng
quốc gia với trách nhiệm chính là tạo ra những sản phẩm công phục vụ xã
hội”. Như vậy, nhà nước để xã hội, người sử dụng “sản phẩm” của các
trường Đại học tự đánh giá theo hướng tiếp cận thị trường, thông qua việc
tiếp nhận và sử dụng người học sau khi ra trường về làm việc, còn các
nhân tố khác như đầu vào, môi trường học tập và chất lượng đào tạo để
cho các trường tự chịu trách nhiệm.
Lý thuyết về “quản trị chia sẻ”
“Quản trị chia sẻ”(shared governance) hay còn được gọi là “quản trị tập
thể” chiếm vị trí quan trọng bởi trường ĐH là một tập thể phức hợp được
cấu thành chủ yếu từ các giáo sư, cán bộ giảng dạy và sinh viên. Hầu hết các
học giả về quản trị ĐH tiên tiến trên thế giới đồng ý rằng xu hướng trường
ĐH hoạt động như một doanh nghiệp/ công ty (để đảm bảo hiệu quả đầu tư)


7

8

kết hợp với hương vị “cận thị trường” (để thích ứng với nền kinh tế thị

trường nhưng tránh thương mại hóa) dưới sự hỗ trợ, giám sát và điều tiết
(state supervision) của nhà nước là mô hình hoạt động tối ưu nhất của các
trường ĐH trên thế giới hiện nay. [30]. [65].
Ngoài các lý thuyết về mô hình trường đại học nói trên còn có Lý thuyết
hỗn hợp là tổ hợp hai mô hình “kiểm soát nhà nước” và mô hình “tự chủ đại
học tuyệt đối”. [51].
3. Khoảng trống nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác quản trị các trường đại học NCL đang được
nhiều tác giả nghiên cứu và thực hiện với mức độ và hình thái khá khác
nhau giữa các trường. Điều này cho thấy việc thực hiện công tác quản trị
điều hành giáo dục trong các trường phụ thuộc khá nhiều vào động lực và
năng lực của cán bộ điều hành. Nhiều khía cạnh trong công tác quản trị
điều hành trong các trường đại học NCL đã được đề cập và phân tích trong
các nghiên cứu trước. Tuy nhiên, có thể tổng kết lại rằng: các nghiên cứu
trước đây chủ yếu là những nghiên cứu nhỏ, chủ yếu cho từng khía cạnh,
từng khâu và mới chỉ đề cập tới công tác quản trị trong từng lĩnh vực (chủ
yếu là quản trị tài chính và vốn sở hữu) mà chưa phân tích sâu sự tương
thích giữa quản trị tài chính, chuyên môn, nhân sự và những nhân tố khác
ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo trong quản lý giáo dục ở các trường
NCL. Trong khi đó, mức độ tương thích trong quản trị điều hành ở các
lĩnh vực này có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả giáo dục.
Mặc dù hai thuật ngữ quản trị và quản lý nhìn chung có sự gần gũi và
tương tác nhưng có thể thấy rõ sự khác biệt giữa quản trị ĐH (governance)
và quản lý nhà trường (management). Đây là điều mà bản thân các trường
ĐH Việt Nam thường lúng túng bởi chưa có sự phân định rõ ràng. Hoạt
động quản trị điều hành của các trường NCL ở Việt Nam cũng có nhiều
điểm không đồng nhất. Các nghiên cứu về hiệu quả quản trị điều hành tại
các cơ sở giáo dục đại học NCL còn rất ít. Vấn đề thu hút sự quan tâm nhiều
nhất của các trường ĐH NCL hiện nay là làm sao để dung hòa lợi ích giữa
chủ đầu tư và nhà giáo dục. Các tác giả trên chủ yếu là những nghiên cứu

nhỏ lẻ, đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể, chưa tập trung đi sâu nghiên cứu
toàn diện về thực trạng quản trị trong các trường đại học NCL ở Việt Nam
trong thời gian gần đây để đưa ra những giải pháp đổi mới. Đây cũng chính
là khoảng trống nghiên cứu mà luận án này đi sâu nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của Luận án là mang lại sự tiếp cận giáo dục cho
người dân, chất lượng giáo dục và hiệu quả giáo dục cho các trường đại học
NCL, cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận về vấn đề quản trị trong các
trường đại học ngoài công lập, các mô hình quản trị trong các trường đại

học NCL ở Việt Nam và kinh nghiệm các nước tiên tiến trên thế giới
trong công tác quản trị các trường đại học NCL.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng công tác Quản trị trong các trường đại học
NCL ở Việt Nam trên bốn lĩnh vực cơ bản: Quản trị về tổ chức,nhân sự; quản
trị về đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác Quốc tế; quản trị về công tác
kiểm định, đánh giá chất lượng; quản trị về tài chính để tìm ra những thành
công, những tồn tại và nguyên nhân đang làm hạn chế chất lượng và hiệu quả
đào tạo ở các trường đại học NCL Việt Nam hiện nay;
Thứ ba, nghiên cứu đề xuất những giải pháp để đổi mới công tác Quản trị
trường đại học NCL giai đoạn 2015 – 2030 và những năm tiếp theo.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, luận án phải thực hiện được
những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, quản trị trong các trường đại học là gì? nó có vai trò gì trong
sự phát triển của nhà trường? vì sao cần phải đổi mới công tác quản trị trong
các trường đại học NCL?;
Thứ hai, nội dung của công tác quản trị trong các trường NCL là gì?;
Thứ ba, để thực hiện tốt công tác Quản trị trường Đại học thì cần phải có
những điều kiện gì?;

Thứ tư, Nhà nước và các trường cần làm gì đề đổi mới quản trị trong
các trường đại học NCL ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2030 và những
năm tiếp theo?.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác quản trị trong các trường đại
học ngoài công lập ở Việt Nam (không bao gồm các Trường đại học 100%
vốn nước ngoài) tập trung vào bốn lĩnh vực cơ bản bao gồm: (i). Quản trị về
cơ cấu tổ chức, nhân sự; (ii). Quản trị về đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp
tác Quốc tế; (iii). Quản trị về kiểm định và đánh giá chất lượng; (iv). Quản trị
về tài chính trong các trường đại học ngoài công lập.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu, đánh giá thực
trạng công tác quản trị trong các trường đại học NCL ở Việt Nam giai đoạn
từ 2000 đến 2013 và đề xuất các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện công tác
quản trị trong các trường đại học NCL ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2030.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:(i).Phương pháp thu thập thông tin; (ii). Nhóm các
phương pháp tổng hợp, xử lý, trình bày thông tin và kết quả nghiên cứu;
(iii).Nhóm
Nhóm các phươ
phương
ương pháp phân tích, đánh giá, dự báo và quyết định
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo. Nội dung
chính của luận án gồm 3 chương như sau:


9

10


- Chương 1. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về quản trị
trong các trường đại học ngoài công lập
- Chương 2. Đánh giá thực trạng quản trị trong các trường đại học
ngoài công lập ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013
- Chương 3. Một số giải pháp đổi mới quản trị trong các trường đại học
ngoài công lập ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2030.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
QUẢN TRỊ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. Khái niệm về Quản trị trong các trường đại học ngoài công lập
1.1.1. Khái niệm về các trường đại học ngoài công lập
Theo Điều 48, Luật Giáo dục năm 2010, trường Đại học ở Việt
Nam trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức gộp thành các loại hình
sau : Trường đại học công lập, trường đại học dân lập, trường đại học tư thục,
trường đại học 100% vốn nước ngoài. Như vậy, ngoài trường đại học công lập ra
thì các trường đại học ngoài công lập gồm có các trường dân lập, bán công và tư
thục, trường đại học 100% vốn nước ngoài hoạt động chủ yếu từ nguồn vốn ngoài
ngân sách Nhà nước, thu hút các nguồn lực xã hội để làm giáo dục, tuân thủ pháp
luật hiện hành, phù hợp với Điều lệ Trường đại học Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về Quản trị trong các trường đại học ngoài công lập
Quản trị trường đại học và quản lý trường đại học là hai vấn đề khác
nhau. Quản trị trường đại học tập trung vào các cơ cấu và các quy trình hoạt
động của trường đại học nhằm đảm bảo: tính hiệu quả; tính hiệu lực và tính
bền vững. Đồng thời đảm bảo sự công bằng, tính minh bạch, tính trách
nhiệm và tính giải trình. Trong khi đó, quản lý trường đại học tập trung vào
các công cụ cần thiết để điều hành trường đại học.
Quản trị trường đại học được đặt ở một tầm cao hơn nhằm đảm bảo rằng
trường đại học sẽ được quản lý theo một cách thống nhất từ trên xuống dưới. Có
một mảng chung giữa hai lĩnh vực này là mảng chiến lược, một vấn đề được xem

xét cả ở cấp độ Quản trị trường đại học lẫn cấp độ quản lý trường đại học.
1.2.Nội dung quản trị trong các trường đại học ngoài công lập
1.2.1. Quản trị về cơ cấu tổ chức, nhân sự
Một trong những nội dung quan trọng trong quản trị trường đại học
ngoài công lập là quản trị về cơ cấu tổ chức, nhân sự. Nội dung quản trị các
trường đại học thể hiện mối quan hệ quyền lực giữa Nhà nước và các trường
đại học dựa trên mối tương quan giữa năng lực quản lý tập trung của nhà nước
và năng lực tự chịu trách nhiệm của các nhà trường.
1.2.2. Quản trị về đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
Luật giáo dục quy định các trường Đại học được quyền quyết định
các hình thức tuyển sinh và số lượng tuyển phù hợp với điều kiện của trường
và quy định của Nhà nước; mở các ngành đào tạo đại học và chuyên ngành

đào tạo sau đại học đã có trong danh mục ngành đào tạo của nhà nước;
xây dựng chương trình đào tạo, kế hoạch giảng dạy và học tập cho các ngành
đào tạo của trường trên cơ sở quy định của Nhà nước; tổ chức biên soạn,
duyệt và thẩm định các giáo trình theo chuyên ngành và các tài liệu giảng
dạy, học tập của trường.
1.2.3. Quản trị về công tác kiểm định và đánh giá chất lượng
Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 65/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 01.11.2007
quy định 10 tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng các trường đại học cụ thể là:
Tiêu chuẩn 1: Sứ mạng và mục tiêu của trường đại học; Tiêu chuẩn 2:
Quy định về Tổ chức và quản lý; Tiêu chuẩn 3: Chương trình giáo dục; Tiêu
chuẩn 4: Hoạt động đào tạo; Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng
viên và nhân viên; Tiêu chuẩn 6: Người học; Tiêu chuẩn 7: Nghiên cứu
khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ; Tiêu chuẩn 8:
Hoạt động hợp tác quốc tế; Tiêu chuẩn 9: Thư viện, trang thiết bị học tập và
cơ sở vật chất khác; Tiêu chuẩn 10: Tài chính và quản lý tài chính.
1.2.4. Quản trị về tài chính
Luật giáo dục quy định các trường đại học NCL được quyền quyết định

hoạt động tài chính của nhà trường bao gồm các hoạt động thu, chi, quản
lý và phân phối kết quả hoạt động tài chính, huy động vốn, quản lý các quỹ
chuyên dụng, quản lý tài sản, quản lý nợ phải trả của nhà trường, và các hoạt
động tài chính khác theo quy định của pháp luật [6].
1.3. Các nhân tố tác động đến quản trị trường đại học ngoài công lập
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
1.3.1.1.Vai trò của Nhà nước
Vai trò của nhà nước trong việc mở rộng quyền tự chủ của các trường đại
học NCL ở nước ta là quyền của nhà nước trong việc lựa chọn phương thức
quản lý đại học NCL nào liên quan đến mức độ tự chủ nhiều hay ít cho các
trường đại học NCL: phương thức 1: Mô hình nhà nước kiểm soát; phương
thức 2: Mô hình nhà nước giám sát; phương thức 3: Mô hình tự chủ đại học
tuyệt đối; phương thức 4: tổ hợp các phương thức 1 và 3.
1.3.2. Các nhân tố bên trong tác động đến quản trị trường đại học
1.3.2.1. Đại hội đồng cổ đông
Một trường đại học NCL có thể được sở hữu bởi một nhóm nhỏ hoặc
một số lượng lớn các cổ đông. Trong cả hai trường hợp trên, để tập trung
quyền lực và nhằm bảo vệ quyền lợi của mình thì các cổ đông đã đứng ra tổ
chức thành lập đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ). ĐHĐCĐ là cơ quan quyền
lực cao nhất của trường đại học NCL. Để bảo vệ quyền lợi của mình,
ĐHĐCĐ tổ chức bầu ra HĐQT, BKS thay mặt các cổ đông để thực thi nghị
quyết của ĐHĐCĐ, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư.
1.3.2.2. Vai trò của Hội đồng quản trị
Vai trò và thành phần của HĐQT ở đây nói đến cơ cấu, tính đại diện,


11

12


tính độc lập và phẩm chất của các thành viên HĐQT. Cơ cấu HĐQT là do
ĐHĐCĐ bầu ra, là người đại diện cho quyền lợi của các nhà đầu tư. Vai trò
HĐQT là lãnh đạo, xây dựng thể chế quản trị và giám sát Ban điều hành.
1.3.2.3. Vai trò của Ban kiểm soát
Ban kiểm soát trong các trường đại học NCL cũng đóng vai trò cực kỳ
quan trọng. Ban kiểm soát là đơn vị độc lập trong nhà trường và do ĐHĐCĐ bầu
ra. BKS chịu trách nhiệm trước Đại hội cổ đông để thực hiện việc giám sát
HĐQT, BGH trong việc quản lý và điều hành các hoạt động của nhà trường.
1.3.2.4. Vai trò của Ban Giám hiệu
Hầu hết các học giả về quản trị ĐH tiên tiến trên thế giới đồng ý rằng:
vai trò của Ban giám hiệu (BGH) đứng đầu là Hiệu trưởng chính là nhà quản
trị trường đại học. Chức năng, nhiệm vụ chính của Hiệu trưởng là thiết lập
và xây dựng mô hình quản trị liên quan đến các hoạt động chuyên môn của
nhà trường; thực thi các nghị quyết của HĐQT; trực tiếp điều hành các hoạt
động của nhà trường đảm bảo tính hiệu quả, tính hiệu lực, tính bền vững;
tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình với Nhà nước, với
HĐQT và với người học về tất cả các hoạt động của nhà trường.
1.3.2.5. Văn hóa và lịch sử trường đại học tác động đến quản trị trường đại học
Trường đại học là một tổ chức, vì vậy văn hóa trường đại học là nền văn hóa tổ
chức – nền văn hóa tổ chức đặc thù và được coi như “nhân cách” của nhà trường.

1.4. Các tiêu chí đo lường hiệu quả quản trị trường đại học
1.4.1.Tính hiệu quả (mục tiêu ngoài)
Tính hiệu quả là mục tiêu mà nhà nước và xã hội mong đợi và đòi hỏi các
trường đại học phải đáp ứng. Tính hiệu quả bao gồm: Chất lượng sinh viên
đào tạo; Phẩm chất sinh viên đào tạo; Chất lượng, quy mô đào tạo đại học.
1.4.2. Tính hiệu lực (mục tiêu trong)
Đây là tiêu chí để đo lường hoạt động quản trị của từng trường đại học,
một mặt nó phải góp phần để đạt được mục tiêu ngoài (mục tiêu của cả nước,
của xã hội), mặt khác nó phải đáp ứng được các mong muốn của bản thân.

Đây là tiêu chí cực kỳ quan trọng đối với từng trường đại học. Nếu trường
nào không đạt được tiêu chí này thì khó có thể tồn tại và phát triển.
1.4.3. Tính bền vững
Tính bền vững của một trường đại học là tổng hợp tính hiệu quả và tính
hiệu lực. Có nghĩa là phải thực hiện tốt cả mục bên trong lẫn mục tiêu bên
ngoài, cả tính hiệu quả và tính hiệu lực.
1.5. Kinh nghiệm của các nước về quản trị trường đại học ngoài
công lập và bài học cho Việt Nam
1.5.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.5.1.1. Kinh nghiệm các trường đại học ở Hoa Kỳ
Chính phủ Mỹ không có một Bộ giáo dục quốc gia tập trung kiểu như
các nước khác, trách nhiệm chính quản lý hệ thống giáo dục đại học Mỹ
không thuộc Bộ giáo dục Mỹ mà chủ yếu thuộc các chính phủ của bang.
Chính phủ bang cấp giấy phép mở trường đại học nhưng không quản lý chất
lượng, phần lớn các trường đại học do bang thành lập (trường công) hoặc
nhận giấp phép của bang (trường tư). Đặc điểm của các trường đại học tự
quản và tự trị về nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, phù hợp
với đòi hỏi của nền kinh tế và nhu cầu nền kinh tế và nhu cầu của xã hội.
1.5.1.2. Kinh nghiệm các trường đại học ở Anh
Ở Anh, trợ cấp của ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn tài chính cơ bản
đối với các đại học công lập, phần còn lại là học phí, các khoản thu mang
tính tự nguyện như thu đóng góp, hỗ trợ, viện trợ, trợ cấp… còn các đại học
ngoài công lập, kinh phí Nhà nước chỉ có 30%; còn lại là 70% là do dân
đóng góp các loại. Bộ Giáo dục chỉ quản lý cấp học từ mầm non tới khi
công dân Anh 18 tuổi, riêng bậc Đại học, họ có toàn quyền tự chủ trong
quản lý. Đại học Anh phát triển rất tốt “Việc kết hợp chặt với Doanh nghiệp
sẽ thúc đẩy các trường Đại học phát triển một cách thực tế và ít lý thuyết
hơn”.
1.5.1.3.Kinh nghiệm các trường đại học ở Pháp
Ở Pháp có ba loại trường đại học tư thục thương mại: 1) Trường phụ

thuộc vào phòng Thương mại tỉnh; 2)Trường của một nhóm cổ đông; và 3)
Trường của một nhóm cổ đông thành lập theo luật Hội 1901.Người ta gọi

KHUNG PHÁP LÝ & QUY ĐỊNH

CHUẨN KẾ TOÁN & KIỂM TOÁN

Điều lệ trường đại
học

LỊCH SỬ

VĂN HÓA

Chủ sở hữu

HĐQT

Ban kiểm soát
Ban Giám hiệu

Thị trường đầu vào

Thị trường đầu ra

Thị trường tài chính

Sơ đồ 1.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản trị trường đại học
Nguồn: Tác giả tự thiết kế



13

14

một trường đại học tư thục là một xí nghiệp trí thức. Loại trường thứ 2 phải
đóng thuế, còn loại trường thứ 3 thì không phải đóng thuế.
1.5.1.4. Kinh nghiệm các trường đại học ở Nhật
Giáo dục đại học ở Nhật Bản có hai hệ thống: Quốc lập và dân lập. Hoạt
động theo kiểu công ty đã giúp cho các Đại học quốc gia ở nhật có
quyền tự chủ cao hơn. Mô hình hoạt động “công ty Đại học quốc gia” đã cải
thiện năng lực hoạt động và đem lại hiệu quả và chất lượng đào tạo cho các
trường Đại học của Nhật Bản. Đây là mô hình mà Việt Nam cần học tập và
áp dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế của Việt Nam.
1.5.1.5.Kinh nghiệm các trường đại học ở Đài Loan
Các trường đại học tư ở Đài Loan đã vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, duy
trì sự vận hành ngày càng phát triển đi lên. Bộ Giáo dục trích ngân sách từ 3-5%
cho “qũy hỗ trợ các trường tư”, “quỹ hỗ trợ kế hoạch đề án” từ 0-5%.
1.5.1.6. Kinh nghiệm các trường đại học ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, cho đến năm 2002 Trung Quốc có hơn 1.200 trường đại
học tư, trong đó có khoảng 50 trường đại học lớn (quy mô trên 10.000 sinh
viên). Luật giáo dục tư 2002 cho phép các nhà đầu tư được nhận một
khoản thu nhập hợp lý nhưng không xem đó là lợi nhuận mà chỉ xem là
“phần thưởng” của Nhà nước dành cho họ.
1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Một là, bảo đảm quyền tự chủ của các trường ngoài công lập và tăng
cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động quản trị của các trường
ngoài công lập;
- Hai là, lựa chọn mô hình quản trị phù hợp và không ngừng đổi mới,
hoàn thiện hoạt động quản trị trong các trường đại học ngoài công lập

Kết quả hoạt động

Hoạt động Quản trị điều hành
- Cơ cấu tổ chức nhân sự;
- Hoạt động về đào tạo và NCKH và HTQT;
- Hoạt động về kiểm đinh, đánh giá chất lượng đào
tạo;
- Hoạt động về tài chính;





Sự tiếp cận giáo dục
Chất lượng đào tạo
Hiệu quả đào tạo

Nhân tố tác động khác






Vai trò của nhà nước;
Vai trò của các doanh nghiệp;
Vai trò của HĐQT, BGH , BKS và
HĐKH
Văn hóa trường đại học.


Sơ đồ 1.3: Mô hình nghiên cứu

CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2013
2.1. Thực trạng công tác quản trị trong các trường đại học ngoài
công lập giai đoạn 2000-2013
2.1.1. Kết quả điều tra về công tác quản trị trong các trường đại học ngoài
công lập
Kết quả điều tra thể hiện 3 nội dung cần lưu ý khi nghiên cứu về hoạt
động quản trị trong các trường đại học ngoài công lập, đó là: (i).Trường đại
học NCL kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, cho nên phải đặc biệt chú ý
đến các lợi ích xã hội, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần; (ii).Nhà nước
là một tác nhân quan trọng, có tính quyết định đến hoạt động quản trị trong
một trường đại học ngoài công lập; (iii).Trên danh nghĩa thì hiện nay quyền
tự chủ của các trường đại học NCL là khá cao, tuy nhiên để các quyền này
được thực thi được thuận lợi, hỗ trợ các trường phát triển thì còn cần phải có
môi trường thuận lợi và các điều kiện hỗ trợ khác.
2.1.2. Thực trạng công tác quản trị trong các trường đại học ngoài
công lập giai đoạn 2000-2013
2.1.2.1. Về cơ cấu tổ chức, nhân sự
Như trên đã đề cập, Nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong
hình thành và phát triển các trường đại học NCL, điều này tác động đáng
kể đến hoạt động quản trị trường đại học NCL giai đoạn 2000 – 2013.
Về cơ cấu tổ chức, nhân sự ở các trường Đại học NCL vẫn đang áp dụng
chính vào ba văn bản đó là Nghị định 43/NĐ-CP, Thông tư liên tịch
07/TTLT và Quyết định 61/TTg về Quy chế trường Đại học NCL. Việc nhà
nước trao quyền tự chủ cho các trường đại học trong thời gian qua được nhiều
nhà khoa học và quản lý giáo dục đánh giá là chưa được thực hiện một cách triệt

để và đầy đủ.
2.1.2.2. Về đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
Những hạn chế về hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác
Quốc tế bao gồm: công tác mở mã ngành đào tạo; hoạt động về tuyển sinh
và đào tạo; Hoạt động về học thuật; Hoạt động nghiên cứu khoa học; hoạt
động hợp tác quốc tế :
2.1.2.3. Về công tác kiểm định và đánh giá chất lượng
Những hạn chế, bất cập về hoạt động kiểm định, đánh giá chất lượng và
trách nhiệm xã hội bao gồm: (i). sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Ương về
tuyển sinh; (ii). việc thiếu các biện pháp đánh giá kiểm soát trong và ngoài
về chất lượng; (iii). các cơ sở vẫn có ít kinh nghiệm trong quản lý.


15

16

2.1.2.4. Về tài chính
Chế độ tài chính ở các trường NCL, đặc biệt ở các trường dân lập trong
nhiều năm qua vận hành theo các quy chế trường đại học dân lập 196/TCCB
và 86/2000/QĐ-TTg. Ở cả hai quy chế này tiền lãi thu được không chia cho
các cá nhân như ở trường tư thục song trên thực tế, mỗi trường dân lập có
một cách chia khác nhau. Nội dung này đã được Nghị định 43/NĐCP cho
phép trường được quyền quyết định các khoản thu, mức thu và chi theo
hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo nguyên tắc
bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích lũy.
2.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế bất cập trong quản trị các
trường đại học ngoài công lập
2.2.1. Các nguyên nhân khách quan
2.2.1.1. Chính sách của nhà nước

Các trường đại học NCL Việt Nam hoạt động có hiệu quả như ngày nay
cần phải kể đến vai trò quan trọng của Nhà nước: Một là, đã ban hành tương
đối đồng bộ các văn bản Quy phạm pháp luật về Quản lý nhà nước đối với
các trường đại học NCL; Hai là, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với yêu cầu của thực tiễn.
2.2.1.2. Về phía các trường
Sự cố gắng không ngừng mệt mỏi để vươn lên của chính các trường đại
học NCL trong nước. Mặc dù không được Nhà nước đầu tư nhưng với tâm
huyết vì sự nghiệp giáo dục của nước nhà, các trường đã từng bước tự khảng
định mình trong vị trí giáo dục Quốc gia, một số trường NCL đã có chỗ
đứng trong vị trí và tầm cỡ giáo dục Quốc tế.
2.2.1.3. Các nguyên nhân khách quan khác
Môi trường hoạt động của các trường NCL vẫn chưa thật thuận lợi, vẫn bị
phân biệt đối xử với các trường công lập; chưa thực sự bình đẳng với các loại
hình trường khác. Đây chính là điều gây khó khăn cho các trường NCL trong
xây dựng và thực hiện các thiết chế quản trị trường.
2.2.2. Các nguyên nhân chủ quan
2.2.2.1. Phân định không hợp lý chức năng giữa Hội đồng quản trị, Ban
Giám hiệu và Bam kiểm soát nhà trường trong hoạch định và thực thi các
quyết định quản trị
Có thể nói rằng năng lực yếu kém của bản thân các trường đại học NCL là
một trong những nguyên nhân chính của những yếu kém trong quản trị các
Trường đại học NCL. Hầu hết các trường không nắm được cơ sở khoa học
của quản trị trường đại học. Vì vậy việc phân định chức năng trong quản trị
trường đại học NCL chưa thật rõ ràng, khoa học, hợp lý, và từ đó gây ra chồng
chéo, lãng phí, không hiệu quả trong công tác quản trị. Không có sự phân
công rạch ròi, hợp lý giữa Hội động quản trị, Ban giám hiệu và ban kiểm sát
trong việc hoạch định và thực thi các quyết định quản trị nhà trường.

2.2.2.2. Văn hóa nhà trường chưa được chú ý đúng mức

Trường đại học là một tổ chức gồm nhiều tổ chức với những đặc thù
khác nhau là các khoa, phòng, ban, viện, trung tâm…tạo thành. Do đó, văn
hóa trường đại học có vai trò quan trọng không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo và uy tín trong phát triển của nhà trường. Vì vậy, mọi thành viên
trong mỗi trường đại học mà trước hết là các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý
phải thấy được khái niệm văn hóa nhà trường và vai trò to lớn của nó
trong việc thay đổi và phát triển của nhà trường.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NGOÀI CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2015 – 2030
3.1. Quan điểm và phương hướng đổi mới nhằm nâng cao chất
lượng quản trị trong các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam
3.1.1. Quan điểm phát triển các trường đại học ngoài công lập ở Việt
Nam
Việc phát triển các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam trong thời
gian tới phải tuân theo một số quan điểm sau đây: (i),Thứ nhất, việc phát
triển các trường đại học ngoài công lập phải tuân thủ đường lối phát triển
chung của Đảng và Nhà nước Việt Nam; (ii).Thứ hai, Chuyển từ mô hình
Nhà nước độc quyền sang mô hình đa dạng hóa loại hình sở hữu; (iii).Thứ
ba, cần phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tê và xu hướng đổi mới của đất
nước
3.1.2. Phương hướng đổi mới nhằm nâng cao chất lượng quản trị
trong các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam
(i).Lựa chọn mô hình quản trị phù hợp; (ii). Xây dựng đội ngũ và môi
trường sư phạm; (iii). Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo ngay từ khi bắt
đầu hoạt động/ hoặc tiếp tục duy trì và thường xuyên nâng cao chất lượng kể
cả đối với trường đã có bề dày năm tháng và ngày càng phải được nâng lên
ở tầm quốc gia và quốc tế; (iv).Tập trung xây dựng uy tín và thương hiệu
một cách bài bản và phù hợp với văn hóa Việt; (v). Bảo đảm quyền tự chủ

của các trường đại học ngoài công lập.
3.2. Một số giải pháp đổi mới quản trị nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo trong các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam
3.2.1. Các giải pháp đổi mới ở tầm vĩ mô
3.2.1.1. Thực hiện lộ trình chuyển từ mô hình “kiểm soát nhà nước”
sang mô hình “Giám sát nhà nước”
Mô hình quản trị các trường đại học ở Việt Nam hiện nay là mô hình
Nhà nước kiểm soát hoàn toàn, đã có một số bước chuyển sang mô hình Nhà
nước giám sát. Bộ quy định khung chương trình cho các ngành đào tạo. Như


17

18

vậy về học thuật, văn bằng đều chịu sự quản lý chặt chẽ của Bộ. Với các nội
dung trên có thể nhận thấy rõ: Bộ GD&ĐT đang thực hiện mô hình Nhà
nước kiểm soát. Trong một số năm gần đây, Bộ GD&ĐT bắt đầu chuyển đổi
mô hình từ nhà nước kiểm soát sang mô hình nhà nước giám sát. Điều này
được thể hiện:
Luật giáo dục đại học có hiệu lực từ 1/1/2012 quy định: HĐQT là tổ chức
cao nhất, đại diện cho sở hữu của trường. Vai trò của HĐQT là quyết định
các vấn đề về quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển của nhà trường;
giám sát BGH trong việc thực hiện các quyết nghị của HĐQT. Hiệu
trưởng là người đại diện theo pháp luật của nhà trường; chịu trách nhiệm
trực tiếp quản trị và điều hành các hoạt động của nhà trường theo các quy
định của pháp luật và của Điều lệ trường đại học.
3.2.1.2. Nhà nước cho phép các trường đại học ngoài công lập được hoạt
động và quản trị theo mô hình như một doanh nghiệp
Hệ thống đại học Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã hoạt động với rất

ít quyền tự chủ, và Bộ giáo dục và Đào tạo đóng một vai trò – về một số
phương diện – gần giống như HĐQT của các trường đại học phương tây.
Nghĩa là cung cấp ngân sách, xây dựng đường lối chiến lược phát triển, cơ
chế quản lý của các trường, bổ nhiệm Hiệu trưởng, thậm chí còn quyết định
thay cho các trường những việc thuộc lĩnh vực của các nhà quản lý chứ
không phải là chức năng của quản trị, như chương trình đào tạo, mức thu
học phí hay chỉ tiêu tuyển sinh từng năm. Một hệ thống như vậy có thể hiệu
quả trong điều kiện sơ khai của giáo dục đại học, khi số lượng các trường
còn ít. Nhưng ngày nay, đứng trước yêu cầu cấp bách cần đổi mới và hoàn
thiện mô hình quản trị đại học để phù hợp với lộ trình hội nhập với quốc tế
Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đổi mới
giáo dục đại học: Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của
Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006-2020 được xem là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển
toàn diện cho nên giáo dục đại học nước nhà; Chỉ thị 296/CT-TTG ngày
27/2/2010 của Thủ tướng chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai
đoạn 2010 -2012 đã chỉ ra rằng “ đổi mới quản lý giáo dục đại học là khâu
đột phá” để nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện giáo dục đại học,
làm tiền đề triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm khắc phục các yêu kém
trong ngành, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học. Ngoài ra còn
nhiều văn bản, hướng dẫn để cho các trường thực hiện.
3.2.1.3. Đảm bảo quyền bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài
công lập
Các cơ quan lãnh đạo Đảng và nhà nước cần khẳng định sự bình đẳng
giữa các loại hình trường đại học cả công lập và NCL. Trường đại học NCL
là một hình thức tất yếu của xã hội, không nên coi đó là các hoạt động kinh

tế thuần túy như các doanh nghiệp tư nhân khác, để từ đó có cơ sở xây dựng
khung pháp lý phù hợp nhằm tạo động lực cơ bản và lâu dài, đồng thời có
chính sách khuyến khích và hỗ trợ thỏa đáng cho sự ra đời và vận hành của

đại học NCL theo tầm cỡ của tổ chức khoa học và đào tạo có vai trò trọng
yếu đến sự phát triển và trường tồn của quốc gia.
3.2.1.4. Nhà nước nên trao quyền tự chủ đầy đủ hơn cho các trường đại
học ngoài công lập
Tự chủ đại học chính là “hơi thở”, là “ cuộc sống” của các trường đại
học vì nó đảm bảo được xu hướng tự do trong huy động các nguồn lực về
nhân sự và tài chính tốt nhất nhằm phát triển học thuật hiệu quả. Tự chủ đại
học cho phép các trường có thể thoát khỏi cơ chế xin-cho, những quy định
cứng nhắc, nặng nề và quan liêu về quản lý, đào tạo, tuyển sinh, tài chính,
nghiên cứu khoa học…Trong bối cảnh Việt Nam, tự chủ đại học có thể được
ví như Khoán 10 trong nông nghiệp, giúp cởi trói cho các trường đại học,
giúp đại học phải có quyền “canh tác” như thế nào trên “mảnh đất” của
mình để đạt được hiệu quả cao nhất dưới sự hướng dẫn và chiến lược phát
triển chung của đất nước trong khuôn khổ Luật giáo dục đại học. [31].
3.2.2. Giải pháp đổi mới quản trị trong các trường đại học ngoài công lập
3.2.2.1. Đổi mới quản trị về tổ chức, nhân sự
Tổ chức và cán bộ giữ vai trò quyết định đối với mọi hoạt động của Nhà
trường. Nội dung đổi mới trong vấn đề này bao gồm các vấn đề sau:
- Các trường được quyền tự quyết định về mô hình tổ chức bộ máy của
Nhà trường và xác định các cơ chế chủ yếu đảm bảo cho bộ máy đó vận
hành trôi chảy, đạt hiệu quả cao.
- Các trường tự quyết định việc tuyển dụng các cán bộ phục vụ trong bộ
máy của Nhà trường, dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định đối với từng
loại cán bộ, cũng như các quy định của Đảng và Nhà nước (quy định của
pháp lệnh công chức,viên chức, của điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam...).
- Các trường tự quyết định chính sách đào tạo ,bồi dưỡng, nâng cao trình
độ cũng như sử dụng và đãi ngộ đối với từng loại cán bộ đã được tuyển
dụng, dựa trên cơ sở các quy định của Nhà nước, đặc biệt là quy định của
Luật Lao động,của Pháp lệnh công chức, viên chức..., cũng như dựa trên khả
năng cụ thể của nhà trường.

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của các nước
về quản trị trường đại học; căn cứ vào đánh giá thực trạng hoạt động quản trị
trong các trường đại học NCL ở Việt Nam, tác giả đề xuất Mô hình quản trị
trường đại học NCL như sau:


19

20

ĐHĐCĐ
(CHỦ SỞ HỮU)

HĐQT
(CẤP LÃNH ĐẠO VÀ GIÁM SÁT)

BKS

HIỆU TRƯỞNG
(CẤP QUẢN TRỊ VÀ ĐIỀU HÀNH)

Phó hiệu
trưởng 1

Phó hiệu trưởng
2

Phó hiệu
trưởng 3


Sơ đồ 3.1. Mô hình quản trị trường đại học
3.2.2.2. Đổi mới quản trị về hoạt động đào tạo,nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ và Hợp tác Quốc tế
Đổi mới quản trị về hoạt động đào tạo,nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ và Hợp tác Quốc tế bao gồm: Đổi mới về công tác mở mã
ngành đào tạo; Đổi mới công tác tuyển sinh; Đổi mới về học thuật; Đổi mới
tổ chức đào tạo, chương trình đào tạo; Đổi mới công tác Nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ; Đổi mới về hợp tác quốc tế.
3.2.2.3. Đổi mới quản trị về công tác kiểm định và đánh giá chất lượng
Đổi mới quản trị về công tác kiểm định và đánh giá chất lượng bao gồm:
1/ vấn đề điều hành, quản lý chất lượng các trường ĐH theo ISO; 2/ thực
hiện kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng bao hàm cả kiểm định
chất lượng các cơ sở GD ĐH và kiểm định các chương trình đào tạo; 3/ Tác
dụng của công tác kiểm định chất lượng.
3.2.2.4. Đổi mới quản trị về công tác tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
a. Đổi mới quản trị về công tác tài chính
Nội dung hoạt động quản trị tài chính của các trường đại học gồm:
- Tổ chức khai thác các nguồn thu từ các hoạt động do nhà trường tổ
chức, kể cả nguồn thu trong và ngoài nước;
- Sử dụng các nguồn tài chính do Nhà trường tạo ra để trả thù lao cho
người lao động, để xây dựng mới và sửa chữa nhà cửa, các công trình phục vụ
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao,để mua
sắm các trang thiết bị, để chi trả cho dịch vụ,để tích lũy.;

- Quản lí, sử dụng và thanh lí các loại tài sản của Nhà trường được Nhà
nước giao hoặc tự tạo ra (kể cả đất đai), dựa trên những quy định hiện hành
của Nhà nước.
b. Đổi mới trong công tác tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Cơ chế tự chủ đại học liên quan đến hai chủ đề lớn, là “Tự chủ đại học”
và “Quản trị đại học”. Tự chủ đại học là thể hiện quan hệ giữa Chính phủ và

trường đại học. Chính phủ có thẩm quyền pháp lý đến đâu và nên can thiệp
đến mức độ nào vào những vấn đề khác nhau của trường đại học. Trong khi
đó, về phía trường đại học lại có khả năng đến đâu trong việc hành động
theo các lựa chọn riêng để thực hiện sứ mạng của mình.
3.2.2.5. Các trường cần chủ động đổi mới mô hình quản trị cho phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam
Trong quá trình đổi mới và phát triển, trình độ quản trị của các trường
đại học từng bước được nâng cao, hình thức và quy mô đào tạo được đa
dạng hoá; chương trình, quy trình đào tạo được cải tiến; hệ thống văn bản
quản lý giáo dục đại học được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, công tác quản trị
ở các viện, trường đại học vẫn còn nhiều vướng mắc. Chính vì vậy, các
trường đại học NCL cần thiết phải đổi mới theo xu hướng cho phù hợp với
hoàn cảnh của Việt Nam.
3.2.2.6.Tăng cường quan hệ giữa Nhà nước và Nhà trường
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Khi Chính phủ có tiếng nói lớn trong tổ
chức trường đại học, ảnh hưởng của sức mạnh chính trị đè nặng sẽ kìm hãm
sự phát triển của giáo dục trong trường, không có cơ hội cho sáng tạo và đột
phá, mọi hoạt động đi theo một mô típ chung chung và chậm tiến triển. Nhà
nước nên để cho các trường tự quyết định vận mệnh của mình, tạo điều kiện
cho những sáng kiến mới, mạnh dạn áp dụng, từ đó tìm ra phương pháp tối
ưu, ngày một hoàn thiện chương trình đào tạo. Nhà trường có vai trò giúp Nhà
nước trở thành cạnh tranh hơn, có vị thế hơn trên trường quốc tế.
3.2.2.7. Tăng cường quan hệ giữa Nhà trường và các Doanh nghiệp
Dịch vụ đào tạo là sản phẩm cơ bản của các trường đại học. Khách hàng
“trực tiếp” của các trường đại học chính là người học. Tuy nhiên, dịch vụ
đào tạo của các trường đại học chỉ là sản phẩm trung gian chứ không phải
sản phẩm cuối cùng. Xét trên khía cạnh cung cấp các dịch vụ đào tạo dài
hạn, người sử dụng lao động, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp, được coi là
khách hàng “gián tiếp” nhưng là khách hàng “cuối cùng”. Vì vậy, để thực
hiện mục tiêu đâò tạo theo nhu cầu xã hội thì tất yếu cần có sự hợp tác, chia

xẻ thông tin giữa các trường đại học với các doanh nghiệp.
3.2.2.8. Các trường cần xây dựng văn hóa trường đại học
Trường đại học là một tổ chức, vì vậy văn hóa trường đại học là nền văn
hóa tổ chức – nền văn hóa tổ chức đặc thù và được coi như “nhân cách”
của nhà trường. Do đó, văn hóa trường đại học có vai trò quan trọng để


21

22

không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và uy tín trong phát triển của
nhà trường. Vì vậy, mọi thành viên trong mỗi trường đại học mà trước hết
là các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý phải thấy được khái niệm văn hóa nhà
trường và vai trò to lớn của nó trong việc thay đổi và phát triển của nhà
trường.
3.2.2.9. Giải pháp đột phá để đổi mới quản trị trong các trường đại học
Ngoài công lập
Vấn đề chất lượng giáo dục và hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào nhiều
yếu tố ảnh hưởng. Ngoài vai trò của nhà nước ra thì những yếu tố hoạt động
quản trị trong nội bộ các trường và các yếu tố môi trường bên ngoài cũng
đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây chính là các điều kiện để đạt được
mục tiêu quản trị các trường đại học. Tác giả đã đưa ra bảy giải pháp đổi
mới quản trị trong các trường đại học đó là : (i). Đổi mới quản trị về tổ chức,
nhân sự; (ii). Đổi mới về hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác
Quốc tế ; (iii). Đổi mới về công tác kiểm định chất lượng ; (iv). Đổi mới về
công tác tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm ; (v). Các trường cần chủ
động đổi mới mô hình quản trị cho phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam; (vi).
Các trường cần tăng cường quan hệ giữa Nhà nước và Nhà trường ; (vii).
Các trường cần tăng cường quan hệ giữa nhà trường và Doanh nghiệp.

Trong tám giải pháp mà tác giả đề xuất nêu trên thì giải pháp : Đổi mới
quản trị về tổ chức, nhân sự là khâu đột phá và giữ vai trò quyết định đối với
mọi hoạt động của nhà trường. Có thể khảng định rằng: không có con người
có đủ năng lực và trình độ chuyên môn để làm việc thì không giải quyết
được bất kỳ việc gì. Chính con người sẽ làm đổi mới tất cả. Các hoạt động
của nhà trường có tốt hay không cũng chính là do con người. Vì vậy, cần
phải xác định rằng: Đổi mới quản trị về tổ chức, nhân sự là khâu đột phá
trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà trường.
3.3. Một số kiến nghị với Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng quản trị
trong các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam
Để nâng cao chất lượng quản trị trong các trường đại học Ngoài công lập
ở Việt Nam, tác giả kiến nghị Nhà nước cần tập trung thực hiện một số việc
sau đây:
3.3.1. Thực hiện tốt chức năng quản lý
Nhà nước cần thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý nhà nước đối với
các trường đại học nói chung và NCL nói riêng để quản lý ngành đại học và
phục vụ mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
3.3.2. Nhà nước cần tăng cường trao quyền tự chủ đầy đủ cho các trường
đại học
Đổi mới tư duy giáo dục đại học trong quản lý nhà nước để tiến đến trao
quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm cao của các trường đại học chính
là động lực của phát triển. Chỉ có như vậy, các trường đại học mới có thể

tự quyết định trong đầu tư cơ sở vật chất và chuyên môn hóa sâu về lĩnh
vực đào tạo của mình.
3.3.3. Nhà nước cần tập trung xây dựng các biện pháp kiểm soát chất
lượng trong và ngoài
Đã gần 7 năm qua, từ khi Bộ GDĐT có chủ trương buộc các cơ sở đào
tạo bậc đại học phải công bố chuẩn đầu ra. nhưng cho đến nay, vẫn chưa có
một trường đại học nào thảo mãn được tiêu chí trên. Vì vậy, chúng ta chưa

có đủ cơ sở để đánh giá chất lượng giáo dục của các trường một cách khách
quan, toàn diện. Từ thực tế cho thấy,việc thiết lập bộ tiêu chuẩn chất lượng
trường đại học và thực hiện nó là một yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay. Có được một bộ tiêu chuẩn chất lượng minh bạch để quản lí
các trường đại học thực sự là một bước đột phá trong tiến trình phát triển của
giáo dục đại học Việt Nam.
3.3.4.Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện quy định về bộ máy, cơ cấu tổ
chức và cơ chế để thực hiện quản trị trường đại học NCL. Cần chỉnh sửa các
văn bản luật, các quyết định, thông tư…để nội dung về quản trị các trường NCL
không mâu thuẫn nhau.
3.3.5.Xác định rõ mối quan hệ, vai trò, trách nhiệm giữa Nhà nước với
các trường Đại học và các doanh nghiệp
Theo đó, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chính sách, hành
lang pháp lý, không làm thay, không can thiệp vào công việc nội bộ của các
trường trên cở sở trao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường.


23

24

KẾT LUẬN

dựng và vận hành một mô hình quản trị phù hợp; Thứ sáu, Tăng cường
quan hệ giữa Nhà nước và Nhà trường; Thứ bảy, các trường cần tăng
cường quan hệ giữa Nhà trường và các doanh nghiệp; Thứ tám, các trường
cần xây dựng văn hóa trường đại học:
Nhà nước và Nhà trường cùng đổi mới theo tinh thần và nội dung nêu
trên sẽ phát huy được sức mạnh và tính sáng tạo của cả hai phía, mang lại
hiệu quả cao trong giáo dục; sẽ giải quyết thấu đáo những hạn chế bất cập

mà Giáo dục đại học NCL Việt Nam đang vấp phải; phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại; Góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH và
HĐH đất nước; đưa sự nghiệp Giáo dục của việt Nam sánh vai với các
nước trong khu vực và Quốc tế./.

Trên cơ sở những lý luận về quản trị trường đại học, những kinh nghiệm
của các nước về quản trị trường đại học; những đánh giá, phân tích về thực
trạng các hoạt động quản trị trong các trường đại học NCL ở Việt Nam và,
những đề xuất giải pháp để đổi mới quản trị trong các trường đại học NCL ở
Việt Nam, tác giả kết luận như sau:
1.Luận án đã cung cấp những cơ sở lý luận và những kinh nghiệm Quốc
tế về quản trị trường đại học NCL để phục vụ cho việc nghiên cứu và làm
rõ: khái niệm về quản trị trong các trường đại học NCL; vai trò và lợi ích
của quản trị trong các trường đại học NCL; nội dung quản trị trong các
trường đại học NCL; các nhân tố tác động đến quản trị trong các trường đại
học NCL; xác định được các tiêu chí đo lường hiệu quả quản trị trường đại
học và rút ra những bài học cho các trường đại học NCL ở Việt Nam.
2.Tổng quan nghiên cứu các đề tài trong và ngoài nước về quản trị
trường đại học đã giúp làm rõ các đối tượng nghiên cứu của luận án: nghiên
cứu về cơ cấu tổ chức nhân sự; nghiên cứu về công tác đào tạo, NCKH và
HTQT; nghiên cứu về công tác kiểm định, đánh giá chất lượng và nghiên
cứu về công tác tài chính của các trường đại học NCL.
3.Công tác điều tra, nghiên cứu thực trạng về công tác quản trị trong các
trường đại học NCL ở Việt Nam đã đánh giá được những mặt tích cực,
những thành quả và những hạn chế, bất cập trong công tác quản trị của các
trường và đã tìm ra được nguyên nhân của những thành tựu và những hạn
chế bất cập đó để có hướng khắc phục;
4.Luận án đã làm rõ việc đổi mới quản trị trong các trường đại học NCL là vấn
đề cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực.
5. Luận án đã đề xuất các giải pháp đổi mới đồng bộ từ Trung Ương đến các

cơ sở GDĐH, trong đó giải pháp cần thiết phải thực hiện đó là:
5.1. Về phía nhà nước:Thứ nhất, vấn đề quản lý nhà nước đối với giáo
dục; Thứ hai, nhà nước cần trao quyền tự chủ đầy đủ hơn cho các trường;
Thứ ba, Việc kiểm định chất lượng và xếp hạng các trường đại học; Thứ tư,
nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính cho các trường đại học ngoài
công lập;Thứ năm, cần tăng cường quan hệ giữa Nhà nước và Nhà trường
và các doanh nghiệp.
5.2. Về phía các trường
Thứ nhất, các trường cần phải đổi mới sâu sắc về cơ cấu tổ chức, nhân
sự; Thứ hai, các trường cần phải chủ động đổi mới công tác đào tạo, nghiên
cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế; Thứ ba, các
trường cần đổi mới công tác kiểm định và đánh giá chất lượng; Thứ tư, đổi
mới công tác quản trị tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm; Thứ năm, các
trường đại học NCL cũng cần năng động, chủ động hơn trong việc xây



×