Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Ảnh hưởng của nữ giới trong vai trò người quản lý cấp cao tới hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn HOSE (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.35 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2015

Tên công trình: Ảnh hưởng của nữ giới trong vai trò người
quản lý cấp cao tới hoạt động của các công ty niêm yết trên
sàn HOSE
( BẢN TÓM TẮT)

Thuộc nhóm ngành khoa học: KD2

Hà Nội, 2015


2
Mục lục

DANH MỤC VIẾT TẮT
CEO

Chief Executive Officer

Giám đốc điều hành

DN

Company

Doanh nghiệp


DNNY

Listed Company

Doanh nghiệp niêm yết

EIGE

European Institute for Gender
Equality

Viện bình đẳng giới châu Âu

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

FEM (FE)

Fixed effects model

Mô hình ảnh hưởng cố định

HĐQT

Board of Directors

Hội đồng quản trị


HOSE

Hochiminh City stock exchange

HQHĐ

Firm Performance

IFRC
ILO

Intelligence Financial Research
and Consulting
International Labour
Organization

LSDV

Least square dummy variable

OLS

Ordinary least squares

Sàn giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh
Hiệu quả hoạt động
Công ty Tư vấn tài chính IFRC
Tổ chức Lao động quốc tế

Mô hình hồi quy biến giả bình
phương tối thiểu
Phương pháp bình phương nhỏ
nhất


3
PE

Price to Earnings Ratio

Hệ số giá trên thu nhập

REM (RE)

Random Effects Model

Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên

ROA

Return on Assets

ROE

Return on Equity

UNDP

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài

sản
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu

United Nations Development

Chương trình phát triển Liên

Programme

hợp quốc


4
DANH MỤC BẢNG


5


6
TÓM TẮT
Nghiên cứu này khảo sát tác động của phụ nữ trong vị trí quản lý cấp cao
tới hiệu quả hoạt động của 284 công ty được niêm yết trên sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh HOSE trong khoảng thời gian 7 năm giai đoạn
2007- 2013 thông qua phương pháp phân tích dữ liệu mảng kết hợp thống kê mô
tả. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng sự xuất hiện của phụ nữ trong HĐQT có
ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kế toán của các doanh nghiệp, được đại diện
bởi hệ số ROA; và sự đa dạng giới tính trong HĐQT cũng có tác động tích cực
đến hiệu quả thị trường của doanh nghiệp, được đại diện bởi hệ số Tobin’s Q.

Tuy nhiên tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT lại tác động đến hiệu quả doanh nghiệp
theo mô hình chữ U ngược, được chứng minh với biến số đại diện hiệu quả thị
trường là Tobin’s Q. Nhóm đã xác định được điểm gãy của tỉ lệ phụ nữ để
doanh nghiệp đạt hiệu quả tối đa là 34.96%, tức là khi tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT
tăng dần và đạt 34.96% thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ tăng
dần và đạt tối đa tại mức tỉ lệ này, nhưng khi tỉ lệ phụ nữ trong HĐQT vượt quá
tỉ lệ này thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sẽ giảm dần. Ngoài ra, nghiên
cứu cũng chỉ ra nữ CEO có ảnh hưởng tích cực đến cả hiệu quả kế toán của
doanh nghiệp được đại diện bởi hệ số ROA và hiệu quả thị trường của doanh
nghiệp được đại diện bởi hệ số Tobin’s Q. Từ kết quả nghiên cứu, nhận thấy vai
trò của phụ nữ và cân bằng giới tính trong bộ máy quản lý các công ty, nhóm
nghiên cứu tìm hiểu thực trạng tại Việt Nam, đồng thời tìm kiếm kinh nghiệm
các nước và đưa ra một số đề xuất cho Việt Nam.


7
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết
Gần đây, đề tài phụ nữ trong kinh doanh và quản lí đã được bàn đến qua
các hội thảo. Sáng 11/12/2014, trong khuôn khổ chuỗi hội thảo sáng thứ năm
hàng tuần của Khoa Kinh tế- Thương mại, bà Marie Thérèse Claes, giáo sư
trường Louvain School of Management, đã trình bày đề tài Phụ nữ trong quản lý
doanh nghiệp (Women in Management). Ngoài ra, Ngân hàng Thế Giới tại Việt
Nam và Viện Liên kết và Trao đổi Quốc tế Trí Việt (thuộc Đại học Tôn Đức
Thắng) vừa qua phối hợp tổ chức buổi Tọa đàm và Giao lưu với chủ đề Phụ nữ
lãnh đạo và “Bức trần Vô hình”. Buổi tọa đàm được điều khiển bởi bà Tôn Nữ
Thị Ninh – Viện trưởng Viện Trí Việt, và có sự tham gia của 6 diễn giả nữ thành
đạt và giàu kinh nghiệm. Các diễn giả đã phân tích những “bức trần vô hình”
ngăn cản người phụ nữ vươn tới vị trí lãnh đạo, bao gồm gánh nặng trách nhiệm
đối với gia đình, đặc biệt là đối với việc nuôi con và chăm sóc con; định kiến từ

nam giới và xã hội.
Từ những điều trên, ta có thể nhận thấy rằng, khi xã hội ngày càng phát
triển, sự bình đẳng nam nữ cũng được quan tâm nhiều hơn. Thực tế đã chứng
minh rằng, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực mà trước đây
chỉ có đàn ông đảm nhiệm, về cả chính trị hay kinh tế. Những thành công của
những người phụ nữ này có thể xem là một động lực để các người phụ nữ khác
phấn đấu, để khẳng định mình, để có đươc vị trí nhất định trong xã hội.
Ở nước ngoài, những nghiên cứu về mối quan hệ giữa phụ nữ nắm quyền
quản lý và hiệu quả hoạt động của công ty đã được triển khai nhiều và cũng có
nhiều kết quả khác nhau. Tuy nhiên, sau thời gian tìm hiểu và nghiên cứu kĩ
lưỡng các nghiên cứu trước đây, nhóm tác giả nhận thấy rằng, các nghiên cứu về
chủ đề này tại Việt Nam hiện nay còn chưa nhiều; đặc biệt là các nghiên cứu
chuyên sâu được thực hiện trên đối tượng mẫu lớn, thời gian nghiên cứu dài lại
càng hiếm hoi. Hơn nữa, việc áp nguyên một mô hình nghiên cứu cụ thể về sự
tác động của nữ giới trong quản lý tới HQHĐ công ty của nước ngoài vào Việt
Nam là không phù hợp do hoàn cảnh cũng như môi trường áp dụng là hoàn toàn


8
khác nhau. Chính vì những lý do đó, nhóm tác giả quyết định sẽ nghiên cứu thực
hiện đề tài dựa trên mô hình nghiên cứu có đưa ra các yếu tố đánh giá phù hợp
với Việt Nam:
“Ảnh hưởng của nữ giới trong vai trò người quản lý cấp cao tới hoạt
động của các công ty niêm yết trên sàn HOSE”
1.2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là : “Ảnh hưởng của phụ nữ trong hội
đồng quả trị và của nữ tổng giám đốc tới hiệu quả hoạt động của DNNY trên

sở giao dịch chứng khoán TP HCM (HOSE)”
Về thời gian nghiên cứu: Khoảng thời gian được chọn để làm đề tài là
2007-2013.
Về không gian nghiên cứu: Đề tài thực hiện nghiên cứu trên các DNNY
trên sở giao dịch chứng khoán TP HCM. Đề tài cũng đã loại trừ các tổ chức tài
chính như ngân hàng, công ty tài chính… và các công ty không có thông tin để
tính toán trong khoàng thời gian này.
1.3.

Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện các mục tiêu sau:
- Làm rõ tác động của phụ nữ trong quản lý (với vai trò là thành viên
HĐQT hay CEO) tới HQHĐ (hiệu quả kế toán và hiệu quả thị trường) của
công ty được niêm yết trên HOSE.
Đối với hầu hết các công ty cổ phần thì hiệu quả hoạt động là một vấn đề
quan trọng. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động giúp các công ty có cái nhìn đúng
đắn về khả năng, thế mạnh cũng như những hạn chế trong quá trình hoạt động
của mình. Mặt khác, việc nghiên cứu tác động của phụ nữ trong quản lý đến
hiệu quả hoạt động cũng là một vấn đề quan trọng và cần thiết trong bối cảnh
kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu này sẽ đóng góp vào cơ sở
lý luận cho các nhà quản trị trong quá trình điều hành công ty cũng như giúp các
nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cho mình chiến lược đầu tư hợp lý.
Ngoài ra, một kết luận về sự ảnh hưởng tích cực của phụ nữ trong quản lý tới


9
hiệu quả hoạt động của các công ty có thể hỗ trợ thay đổi nhận thức, chính sách
của Nhà nước để dẫn tới sự hiện diện nhiều hơn của phụ nữ, không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế.

- Đưa ra đề xuất về giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như cải
thiện tỉ lệ phụ nữ tham gia vào quản lý ở các công ty cổ phần Việt Nam.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm thực hiện được các mục tiêu đã nêu trên, đề tài cần trả lời được các
câu hỏi nghiên cứu tương ứng sau:
- Hiệu quả hoạt động của các công ty cổ phần được niêm yết trên sàn chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng như thế nào từ sự có mặt
của nữ giới trong vai trò người quản lý cấp cao? Sự tham gia của phụ nữ
trong Hội đồng quản trị hay Ban giám đốc sẽ tác động thế nào đến hiệu
quả doanh nghiệp, liệu có sự khác biệt khi phụ nữ chứ không phải nam
giới là người nắm quyền quản lí?
- Thực trạng sự tham gia của phụ nữ trong quản lý hiện nay tại các công ty
được niêm yết trên HOSE là như thế nào?
- Làm thế nào để cải thiện tỉ lệ phụ nữ tham gia vào quản lý ở các công ty
cổ phần Việt Nam và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty này.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, nhóm nghiên cứu tiến hành so
sánh và chọn phương pháp định lượng các biến phù hợp trong khả năng thu thập
số liệu từ tế. Từ công thức định lượng đã chọn, tiến hành phu thập số liệu từ các
báo cáo tài chính đã kiểm toán của mẫu 284 công ty niềm yết trên HOSE trong 7
năm từ năm 2007-2013.
Trong bài nghiên cứu này, dữ liệu được sử dụng để nghiên cứu là dữ liệu
mảng, chứa các quan sát của chuỗi thời gian và của nhiều đối tượng. Để xử lý
dữ liệu mảng, nhóm nghiên cứu nhận thấy có thể sử dụng các phương pháp ước
lượng như mô hình hồi quy gộp (Pooled OLS), mô hình hồi quy biến giả bình
phương tối thiểu (Least Square Dummy Variable - LSDV), mô hình các ảnh
hưởng cố định (FEM), mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM).


10

Trong các mô hình chính của bài, nhóm nghiên cứu quyết định lựa chon 2
mô hình FEM, REM để phân tích dữ liệu. Để xem xét mô hình nào phù hợp hơn
bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Hausman.
Trình tự xử lý số liệu bao gồm: thống kê mô tả, khảo sát tương quan cặp
giữa các biến độc lập, đánh giá độ phù hợp của phương trình tương quan và tiến
hành hồi quy
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Lý thuyết về công ty cổ phần bao gồm khái niệm liên quan, như: công ty
cổ phần là gì, Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban giám đốc (BGĐ), mối quan hệ
giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, và đánh giá hiệu quả doanh nghiệp. Trong
đó, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh đến vai trò của HĐQT và BGĐ, cũng như làm
rõ vai trò của việc đánh giá hiệu quả doanh nghiệp, các biến số đo lường HQDN
và lý thuyết của Tobin.
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra những lý thuyết lên quan đến sự xuất hiện
của phụ nữ tong HĐQT như : Lý thuyết cho thấy sự ảnh hưởng có tính hai mặt
(tích cực và tiêu cực) của đa dạng hóa giới tính tới HQHĐ của công ty: Lý
thuyết người đại diện (Agency theory); Lý thuyết cho thấy sự ảnh hưởng tích
cực của đa dạng hóa giới tính tới HQHĐ của công ty: Lý thuyết phụ thuộc
nguồn lực (Resource dependence theory); Lý thuyết cho thấy sự ảnh hưởng tiêu
cực của đa dạng hóa giới tính tới HQHĐ của công ty: Lý thuyết bản sắc xã hội
(Social identity theory)
3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
3.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Từ trước đến nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của phụ
nữ đối với hoạt động doanh nghiệp dưới nhiều góc độ khác nhau, ở nhiều quốc
gia khác nhau, từ những nước có nền kinh tế phát triển đến những nước đang
phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi.
Về mối quan hệ giữa phụ nữ trong HĐQT và HQHĐ của doanh nghiệp,
các nghiên cứu hầu hết đều đặt giả thiết về một mối liên hệ tích cực giữa sự xuất
hiện của phụ nữ, tỉ lệ phụ nữ hay sự cân bằng giới tính trong ban quản lí cấp cao



11
(bao gồm hội đồng quản trị, hoặc ban giám đốc, hoặc cả hai) đối với hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên các kết luận đưa ra lại có nhiều chiều
hướng khác nhau. Nhóm ý kiến thứ nhất là sự xuất hiện của phụ nữ gây tác động
tiêu cực lên hiệu quả doanh nghiệp, như làm sụt giảm giá cố phiếu hay làm ảnh
hưởng đến giá trị thị trường của doanh nghiệp. Nhóm ý kiến thứ hai là cho rằng
sự xuất hiện của phụ nữ trong quản lí cấp cao không gây tác động gì đến hiệu
quả doanh nghiệp, hay mối liên hệ này là không rõ ràng. Nhóm ý kiến cuối cùng
cho rằng sự xuất hiện của phụ nữ có tác động tích cực đến hiệu quả doanh
nghiệp.
Về ảnh hưởng của nữ CEO đến HQHĐ doanh nghiệp, khác với ảnh hưởng
của sự xuất hiện của phụ nữ trong HĐQT thì các giả thiết đưa ra về mối quan hệ
này lại có nhiều chiều hướng khác nhau. Kết quả được tìm ra cũng có phần khác
biệt giữa các bài nghiên cứu. Một nhóm có quan điểm rằng nữ CEO có tác động
tích cực đến HQHĐ của doanh nghiệp. Một nhóm khác lại đưa ra kết quả ngược
lại là có ảnh hưởng tiêu cực hoặc mỗi liên hệ này là không rõ ràng.
3.2.

Các nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam vấn đề ảnh hưởng của đa dạng giới tính trong quản lý đến
hiệu quả hoạt động của các công ty cổ phần cũng đã được đề cập đến ở một số
công trình nghiên cứu, các bài báo… Kết quả đưa ra hầu hết là khẳng định ảnh
hưởng tích cực của phụ nữ đến HQHĐ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề này
vẫn còn khá mới mẻ và chưa có nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu, chủ yếu chỉ
mới dừng ở bước phân tích thống kê, mô tả trên số lượng mẫu quan sát nhỏ,
chưa mang tính đại diện cao. Vì vậy, nhóm tác giả nhận thấy cần thực hiện một
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về vấn đề này tại Việt Nam, nhất là khi bình

đẳng giới trong quá trình tuyển dụng, thăng tiến đang là một vấn đề rất được xã
hội quan tâm.
3.3.

Phát triển giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát kết quả của những bài nghiên cứu trước, kết hợp với
việc xem xét thị trường Việt Nam, nhóm đề xuất 5 giả thuyết nghiên cứu:


12
• Giả thuyết 1: “Sự xuất hiện phụ nữ trong HĐQT ảnh hưởng tích cực
đến hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần”
• Giả thuyết 2: “Sự đa dạng giới tính trong HĐQT ảnh hưởng tích cực
đến hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần”
• Giả thuyết 3: “Tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của các công ty cổ phần theo mô hình chữ U ngược”
• Giả thuyết 4: “Nữ CEO ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kế toán của
công ty cổ phần”
• Giả thuyết 5: “Nữ CEO ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thị trường
của công ty cổ phần”
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 284 công ty được niêm yết trên HOSE
trong khoảng thời gian 7 năm từ 2007-2013. Dữ liệu đầu vào để tính toán các
biến được nhóm nghiên cứu tổng hợp từ 1988 báo cáo tài chính thường niên của
các công ty. Các báo cáo tài chính, báo cáo quản trị của các công ty được nhóm
thu thập từ trang web hsx.vn, và trang web chính thức của từng công ty.
Trên cơ sở lý thuyết và các bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự có mặt
của nữ giới trong vai trò nhà quản lý cấp cao và hiệu quả hoạt động của công ty
trước đây, nhóm quyết định đánh giá hiệu quả hoạt động của các công ty cổ

phần thông qua hai biến phụ thuộc, bao gồm : ROA và Tobin’s Q. Sự kết hợp
của hai nhóm hệ số này có thể đưa ra cho nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp,
cổ đông và thị trường những đánh giá bao quát về hiệu quả tài chính trong quá
khứ cũng như tiềm năng lợi nhuận và tăng trưởng tương lai của doanh nghiệp.
Có nhiều cách để đo lường thể hiện sự có mặt của phụ nữ trong hội đồng quả trị
của công ty, tuy nhiên trong bài nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn 4 biến
độc lập như sau: Biến giả để nhận biết sự hiện diện của phụ nữ trong hội đồng
quản trị (Woman), 2 biến số đo độ đa dạng giới tính là :Blau Index và Shannon
Index, biến giả nhận biết CEO là nữ (CEO). Trong tất cả các mô hình của bài
nghiên cứu, các biến kiểm soát được sử dụng là: Leverage (đòn bẩy tài chính),
FAge (số năm hoạt động của công ty), Fsize (quy mô công ty).


13
Đầu tiên, để xác định ảnh hưởng của phụ nữ trong hội đồng quản trị,
nhóm tiến hành chạy mô hình lần lượt 2 biến phụ thuộc với lần lượt 4 biến độc
lập Woman, PerWo, Blau index, Shannon index cùng với tất cả các biến kiểm
soát.
Mô hình 1 đến mô hình 8 như sau:

Trong đó:
Firm Perit lần lượt là các biến phụ thuộc: ROA, Tobinq.
Genderit lần lượt là các biến độc lập: Woman, PerWo, Blau, Shannon.
Uit: sai số ngẫu nhiên
Tiếp theo, để kiểm định giả thuyết “ảnh hưởng của tỷ lệ phụ nữ trong hội
đồng quản trị lên hiệu quả hoạt động của công ty theo mô hình chữ U ngược”,
nhóm sử dụng thêm biến bình phương tỷ lệ phụ nữ trong hội đồng quản trị
(PerWo2), tiến hành hồi quy Tobin’s Q theo biến phụ thuộc PerWo, PerWo2 và
các biến kiểm soát.
Mô hình 9:


Trong đó:
Uit: sai số ngẫu nhiên
Để đánh giá sự khác biệt giữa phụ nữ làm CEO và nam giới làm CEO,
nhóm chạy mô hình lần lượt các biến phụ thuộc với biến độc lập CEO và tất cả
các biến giải thích.
Mô hình 10 và 11 như sau:

Trong đó:
Firm Perit lần lượt là các biến phụ thuộc: ROA, Tobinq.


14
Uit: sai số ngẫu nhiên
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Biểu đồ 5.1: Tỷ lệ phụ nữ trung bình trong hội đồng quản trị qua các
năm
(Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu)
Biểu đồ 5.2: Tỷ lệ phụ nữ trung bình theo ngành giai đoạn 2007-2013

(Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu)
Chú thích:
1: Bán buôn và bán lẻ; sửa chữ ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác
2: Công nghiệp chế biến, chế tạo
3: Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải
4: Dịch vụ lưu trí và ăn uống
5: Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
6: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
7: Hoạt động kinh doanh bất động sản
8: Khai Khoáng

9: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
10: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không
khí
11: Thông tin và truyền thông
12: Vận tải kho bãi
13: Xây dựng
Biểu đồ 5.3: Số lượng công ty có CEO nữ qua các năm


15

(Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu)
Bảng 5.1: Mô tả thống kê biến phụ thuộc, biến độc lập và biến kiểm soát
Biến

Số quan Trung bình

Độ

lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn

sát

chuẩn

nhất

nhất

ROA


1901

0,0720793

0,0905952

-0,32

0,95

Tobinq

1778

1,025885

1,663962

-0,1065834

15,95856

Woman

1837

0,631295

0,4826708


0

1

PerWo

1837

0,1488644

0,1651332

0

0,7142857

Blau

1837

0,1989187

0,1937697

0

0,5

Shannon


1837

0,2983254

0,2824653

0

0.6931472

CEO

1828

0,1117958

0,3152538

0

1

Leverage

1911

0,4929433

0,3561312


0,0000648

6,515321

FAge

1917

19,41873

12,5631

2

61

Fsize

1980

13,38271

2,121874

4,709782

18,14325

(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)

Bảng 5.2: Ma trận tương quan giữa các biến
ROA

Tobinq

Woman

PerWo

Blau

Shannon

CEO

Leverag

Fage

FSize

e
ROA

1,0000

Tobinq

0,1439


1,0000

Woman

0,2497

-0,0081

1,0000

PerWo

0,1269

0,0312

0,5230

1,0000

Blau

0,1103

0,0391

0,5933

0,9576


1,0000

Shannon

0,1059

0,0423

0,6088

0,9346

0,9961

1,0000

CEO

0,1761

0,0516

0,2080

0,3163

0,2895

0,2789


1,0000

Leverage

-0,2993

-0,0264

-0,0612

-0,0315

-0,0285

-0,0279

-0,0502

1,0000

FAge

0,0443

0,0766

-0,0235

0,0132


0,0156

0,0147

-0,0024

0,0792

1,0000

Fsize

-0,0258

-0,5905

0,0763

0,0956

0,0906

0,0871

0,1087

0,0721

-0,1121


(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Bảng 5.3: Kết quả hồi quy mô hình 1 và mô hình 2

1,0000


16
Ký hiệu chung:
***: ứng với mức ý nghĩa 1%
**: ứng với mức ý nghĩa 5%
*: ứng với mức ý nghĩa 10%
Biến

Bảng A1: ROA
Mô hình 1

Mô hình 2

FE

RE

FE

RE

C

0,4363438


0,1332843

0,4611656

0,1826268

Woman

0,0241791***

0,0323077***
0,0418621**

0,1151619***

-0,0130348**

-

PerWo
Leverage

-0,0123466*

-0,0346474***

0,0593097***
FAge

-0,0158467***


-0,0003166

-

-0,0005111

0,0161422***
Fsize

-0,0049419

-0,0043776**

-0,0056687

-0,0021859

R2

70,79%

70,21%

67,67%

67,47%

P_value của kiểm 0,000


0,000

định Hausman
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Ở mô hình 1, Prob= 0,000 < 0,5 nên sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định
(FE) phù hợp hơn. β1 = 0,024 với mức ý nghĩa 1%. Từ kết quả này, nhóm nghiên
cứu đưa ra kết luận rằng, sự có mặt của phụ nữ trong HĐQT làm cho giá trị
ROA của doanh nghiệp cao hơn so với công ty không có phụ nữ trong HĐQT,
cụ thể với mức ý nghĩa 1%, nếu có sự xuất hiện của phụ nữ trong HĐQT thì
trung bình ROA của doanh nghiệp cao hơn 0,024% so với công ty có hội đồng
quản trị toàn nam giới. Ở mô hình này, R 2 nhận giá trị 70,79%, điều này cho
thấy mức độ phù hợp của phương trình hồi quy trong việc giải thích hiện tượng


17
Mô hình 2, Prob=0,000 < 0,5 nên sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định
(FE) phù hợp hơn. β1 = 0,042 với mức ý nghĩa 5%. Từ kết quả này, nhóm đưa ra
kết luận: gia tăng tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT có tác động tích cực đến hệ số ROA,
cụ thể với mức ý nghĩa 5%, nếu tỷ lệ phụ nữ tăng 1% thì trung bình ROA tăng
0,04%. Ở mô hình này, R2 nhận giá trị 67,67%, điều này cho thấy mức độ phù
hợp của phương trình hồi quy trong việc giải thích hiện tượng.
Bảng 5.4: Kết quả hồi quy mô hình 3 và mô hình 4
Biến

Bảng A2: ROA
Mô hình 3

Mô hình 4

FE


RE

FE

RE

C

0,4624166

0,1511015

0,4625775

0,1512983

Blau

0,0258381

0,0362175**
0,0165605

0,0234307**

-0,01306**

-


Shannon
Leverage

-0,0130517**

-0,0353596***

0,0353831***
FAge

-0,0161301***

-0,0004072

-

-0,0004075

0,0161338***
Fsize

-0,005697

-0,0045619**

-0,0056886

-0,0045591**

R2


68,67%

68,28%

75,06%

74,47%

P_value của kiểm 0,0000

0,0000

định Hausman
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Ở mô hình 3 và 4, nhóm tác giả sử dụng hai chỉ số về cân bằng giới là
Blau và Shannon để xác định mối liên hệ giữa đa dạng giới tính của HĐQT và
hiệu quả doanh nghiệp với đại diện là ROA. Từ kết quả hồi quy 2 mô hình,
Prob=0,000 < 0,05 nên lựa chọn mô hình cố định (FE) phù hợp hơn. Trong mô
hình FE, nhóm nghiên cứu kết luận rằng, với mức ý nghĩa 10%, sự đa dạng giới


18
tính không có ảnh hưởng đến hiệu quả doanh nghiệp. Ta có thể thấy, hai hệ số β
của Blau và Shannon đều không có ý nghĩa hồi quy với mức ý nghĩa 10%. Tuy
nhiên ở mô hình RE, 2 hệ số này có tác động tích cực đến ROA ở mức ý nghĩa
5%.
Bảng 5.5: Kết quả hồi quy mô hình 5 và mô hình 6
Biến


Bảng B1: Tobin’s Q
Mô hình 5

Mô hình 6

FE

RE

FE

RE

C

9,529025

8,049002

9,624186

8,090831

Woman

0,0785643

0,124283
1,031185***


0,9313003***

PerWo
Leverage

-0,0906807

0,0062135

-0,0968628

0,0039654

FAge

0,0578272**

0,0012628

0,0567271**

0,0008334

Fsize

-0,7160234***

-0,528992***

-


-0,5358197

0,7289326***
R2

43,96%

P_value của kiểm 0,0068

43,30%

44,89%

44,32%

0,0082

định Hausman
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Mô hình 5, Prob=0,0068 < 0,05 nên lựa chọn mô hình cố định (FE) phù
hợp hơn.
Mô hình 6, Prob=0,0082 < 0,05 nên lựa chọn mô hình cố định (FE) phù
hợp hơn.
Từ mô hình 5, sự xuất hiện của phụ nữ trong HĐQT không có tác động
đến hiệu quả doanh nghiệp (đại diện bằng Tobin’s Q), hay nói một cách khác là
công ty có phụ nữ trong HĐQT và công ty không có phụ nữ trong HĐQT không
có sự khác biệt về hệ số Tobin’s Q, với mức ý nghĩa 10%. Tuy nhiên, đến mô



19
hình 6, thì phần trăm phụ nữ trong HĐQT lại có mối quan hệ cùng chiều với
Tobin’s Q. Với mức ý nghĩa 1%, nếu tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT tăng 1% thì
trung bình Tobin’s Q tăng 0,0103. Ở mô hình này, R 2 nhận giá trị 44,89%, điều
này cho thấy mức độ phù hợp của phương trình hồi quy trong việc giải thích
hiện tượng.
Bảng 5.6: Kết quả hồi quy mô hình 7 và mô hình 8
Biến

Bảng B2: Tobin’s Q
Mô hình 7

Mô hình 8

FE

RE

FE

RE

C

9,636643

8,076902

9,63656


8,071425

Blau

0,8479432***

0,7757015***

Shannon

0,5575285*** 0,5198422***

Leverage

-0,099095

0,0026934

-0,0995956

0,0021135

FAge

0,0575261**

0,0008343

0,0575353**


0,0008597

Fsize

-0,7321248***

-0,5359316***

-

-

0,7319467*** 0,5356019***
R2

44,82%

P_value của kiểm 0,0072

44,23%

44,77%

44,17%

0,0072

định Hausman
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Mô hình 7 và 8, nhóm tác giả tiếp tục sử dụng hai chỉ số Blau và Shannon

để đánh giá tác động của đa dạng giới tính HĐQT lên hệ số Tobin’s Q của
doanh nghiệp. Cả 2 mô hình đều có Prob=0,0072 < 0,05 nên lựa chọn mô hình
cố định (FE) phù hợp hơn.
Từ kết quả hồi quy cho thấy, với mức ý nghĩa 1% thì đa dạng giới tính
trong HĐQT có tác động tích cực lên Tobin’s Q. Tuy chỉ số Shannon nhạy cảm
với sự biến động của tỷ lệ phụ nữ trong hội đồng quản trị hơn, nhưng ở mức ý


20
nghĩa 1%, hệ số này có tác động tới hệ số Tobin’s Q của doanh nghiệp xét về độ
lớn là thấp hơn so với chỉ số Blau. Ở hai mô hình này, R 2 nhận giá trị lần lượt là
44,82% và 44,77%, điều này cho thấy mức độ phù hợp của phương trình hồi quy
trong việc giải thích hiện tượng.
Ở 4 mô hình đầu, nhóm có đưa ra kết luận: “gia tăng tỷ lệ phụ nữ trong
HĐQT có tác động tích cực đến hệ số ROA, cụ thể với mức ý nghĩa 5%, nếu tỷ
lệ phụ nữ tăng 1% thì trung bình ROA tăng 0.04%”, và 2 chỉ số Blau và
Shannon với với ý nghĩa 10% không có tác động đến hệ số ROA. Nhưng tại mô
hình 6, 7 và 8 thì cả tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT và 2 chỉ số Blau và Shannon đều
tác động tích cực đến hệ số Tobin’s Q của doanh nghiệp. Điều này mâu thuẫn ở
chỗ khi tỷ lệ phụ nữ trong hội đồng quản trị vượt quá 50% thì chỉ số Blau và
Shannon bắt đầu giảm (Biểu đồ 5.4).
Biểu đồ 5.4: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT và
Chỉ số Blau

(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Vì vậy rất có thể tồn tại một điểm gãy mà tại đó, khi tăng tỷ lệ phụ nữ
trong hội đồng quản trị không còn tác động hoặc tác động ngược chiều lên hệ số
Tobin’s Q của doanh nghiệp. Để kiểm định điều này, nhóm nghiên cứu đưa
them biến bình phương tỷ lệ phụ nữ hội đồng quản trị vào mô hình (PerWo2),
tiến hành chạy mô hình hồi quy biến Tobin’s Q với các biến độc lập PerWo,

PerWo2 và các biến kiểm soát. Để đơn giản hóa, nhóm nghiên cứu bỏ qua bình
diên về không gian và thời gian của dữ liệu kết hợp, chạy mô hình hồi quy gộp
(Pooled OLS). Kết quả mô hình được mô tả trong bảng sau:
Bảng 5.7: Kết quả hồi quy mô hình 9
Biến

Tobin’s Q
(Mô hình 9)

C

7.502467


21

PerWo

0.4214853*

PerWo2

-0.6027776***

Leverage

0.1084886

Fage


0.000251

Fsize

-0.4937533***

R2

37.13%

R2 điều chỉnh

36.82%
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)

Ở mô hình này, R2 nhận giá trị 37,13 %, R2 điều chỉnh nhận giá trị
36,82%, điều này cho thấy mức độ phù hợp của phương trình hồi quy trong việc
giải thích hiện tượng. β1= 0.4214853 với mức ý nghĩa 10% và β 2= -0.6027776
với mức ý nghĩa 1%. Từ kết quả này, nhóm nghiên cứu kết luận: Tỷ lệ phụ nữ
trong HĐQT ảnh hưởng đến hệ số Tobin’s Q của doanh nghiệp theo mô hình
chữ U ngược, cụ thể khi tỷ lệ phụ nữ nhỏ hơn 34.96% tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT
ảnh hưởng tích cực đến Tobin’s Q, còn khi tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT lớn hơn
34.96% thì tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT ảnh hưởng tích cực đến Tobin’s Q. Như
vậy, qua mô hình, nhóm thấy khi tỷ lệ phụ nữ đạt 34.96% thì hiệu quả doanh
nghiệp đại diện bởi Tobin’s Q sẽ tối ưu.
Cuối cùng, để kiểm định lại điểm tỷ lệ phụ nữ tối ưu, mà tại đó doanh
nghiệp có Tobin’s Q lớn nhât, nhóm tiền hành phân tích hồi quy phân trong đó
mẫu được chia thành hai tập dữ liệu riêng biệt trên cơ sở các chỉ số Blau. Theo
đó, nhóm nghiên cứu chạy lại mô hình 7 vào các tiểu bộ dữ liệu với một chỉ số
Blau nhỏ hơn hoặc bằng 0.4547, và với một chỉ số Blau lớn hơn 0.4547. Khi

Blau= 0.4547 thì ta có 2 tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT là 34.96% và 65.04%, tuy
nhiên nó không thực tế khi xem xét tại tỷ lệ 65.04% vì trong mẫu quan sát của
bài nghiên cứu trên sàn HOSE, tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT tối đa, có 1 công ty đạt
71% và tỷ lệ các công ty có phụ nữ trong HĐQT trên 65% là rất thấp, vì vậy
nhóm nghiên cứu chỉ nghiên cứu chỉ số Blau đạt 0.4547 đại diện cho tỷ lệ phụ
nữ là 34.96%. Kết quả được mô tả tóm tắt trong bảng sau:


22
Bảng 5.8: Kết quả hồi quy mô hình 7 theo phương pháp phân tích hồi quy
phân đoạn
Tobin’s Q

Blau <=0.4547

Blau>0.4547

Hệ số

Sai số chuẩn

Hệ số

Sai số chuẩn

(1)

(2)

(3)


(4)

(5)











Blau

0.4211911***

0.1114008

0.853644

11.90664












Số quan sát

1346

373

R2

43.66%

1.95%

P_value (Của kiểm định 0.0000

0.5056

F)
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Bảng 5.8 cho thấy mối quan hệ giữa hệ số Tobin’s Q và chỉ số Blau trong
các khoảng khác nhau của các chỉ số Blau. Cụ thể hơn, đối với các công ty có
chỉ số Blau nhỏ hơn hoặc bằng 0.4547, chỉ số Blau có tác động tích cực đáng kể
đến hiệu quả công ty (cột 2 và 3 của Bảng 5.8). Ngược lại, đối với các công ty
có chỉ số Blau lớn hơn 0.4547, các mối quan hệ trở nên không đáng kể (cột 4 và
5 của Bảng 5.8).
Bảng 5.9: Kết quả hồi quy mô hình 10 và mô hình 11

ROA

Tobin’s Q

Mô hình 10

Mô hình 11

Biến
FE

RE

FE

RE

C

0.8851896

0,2079261

9.677353

8,167453

CEO

0.0328003*


0,0381485**

0.4304647***

0,5266107***

Leverage

-0.0253214*

-0,0585924***

-0.0837085

0,0110396


23
FAge

-0.0411801***

-0,0006274

0.0480556*

0,0005264

Fsize


0.0041063

-0,0029861

-0.7137809***

-0,5255795***

R2

46,84%

31,41%

44,67%

44,08%

P_value
kiểm

của 0,000

0,014

định

Hausman
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)

Mô hình 10, Prob=0,000 < 0,05 nên lựa chọn mô hình cố định (FE) phù
hợp hơn.
Mô hình 11, Prob=0,014 < 0,05 nên lựa chọn mô hình cố định (FE) phù
hợp hơn.
Ở mô hình 10, β1=0,033 với mức ý nghĩa 10% và ở mô hình 11, β 1 = 0,43
với mức ý nghĩa 1%. Từ kết quả này, nhóm nghiên cứu đưa ra kết luận rằng, khi
phụ nữ đảm nhiệm vị trí CEO làm cho giá trị ROA và Tobin’s Q của doanh
nghiệp cao hơn so với công ty có CEO là nam, cụ thể với mức ý nghĩa 10%, nếu
CEO là nữ thì trung bình ROA của công ty cao hơn 3,2% so với công ty có CEO
là nam; và với mức ý nghĩa 1%, nếu CEO là nữ thì trung bình hệ số Tobin’s Q
của công ty cao hơn 0,43 so với công ty có CEO là nam. Ở hai mô hình này, R 2
nhận giá trị lần lượt là 46,84% và 44,67%, điều này cho thấy mức độ phù hợp
của phương trình hồi quy trong việc giải thích hiện tượng.
Tử các bảng trên về kết quả hồi quy mô hình, các giả thuyết đặt ra đã
được chứng minh:
- Giả thuyết về sự xuất hiện của phụ nữ trong HĐQT có ảnh hưởng tích cực
đến hiệu quả của các công ty niêm yết trên sàn HOSE” được chứng minh
với biến số đại diện hiệu quả kế toán là ROA.
- Giả thuyết về tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT tác động đến hiệu quả doanh
nghiệp theo mô hình chữ U ngược được chứng minh với biến số đại diện
hiệu quả là Tobin’s Q.


24
- Giả thuyết về đa dạng giới tính trong HĐQT có tác động tích cực đến hiệu
quả hoạt động công ty được chứng minh qua biến số đại diện hiệu quả là
Tobin’s Q.
- Giả thuyết về nữ CEO ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kế toán của công
ty được chứng minh với biến số ROA
Có 1 kết quả không giống với giả thuyết bạn đầu là: Nhóm nghiên cứu đề

xuất giả thuyết nữ CEO tác động tiêu cực đến hệ số Tobin’s Q của công ty
nhưng kết quả cho thấy nữ CEO tác động tích cực đến hệ số Tobin’s Q
6. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
6.1. Thực trạng bất bình đẳng giới tại Việt Nam
Chỉ số Bất bình đẳng Giới năm 2012 do Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc (UNDP) công bố, một thước đo về mức độ bất bình đẳng giới trong
các thành tựu giữa phụ nữ và nam giới trong các lĩnh vực y tế, tăng quyền và thị
trường lao động, cho thấy Việt Nam xếp thứ 48 trong số 148 nước được thống
kê. Trong lĩnh vực kinh tế, sự bất bình đẳng thể hiện ở các khía cạnh như: bất
bình đẳng trong cơ hội việc làm, bất bình đẳng trong thu nhập, bất bình đẳng
trong cơ hội thăng tiến và đảm nhiệm vị trí quản lí cấp cao.
Quá trình rà soát các quảng cáo tuyển dụng trên VietnamWorks,
JobStreet, CareerBuilder và CareerLink từ giữa tháng 11/2014 đến giữa tháng
1/2015 cho thấy một phần năm số quảng cáo đăng tuyển có đề cập đến yêu cầu
về giới tính. Trong số các việc làm đăng tuyển có yếu tố giới, 70% yêu cầu chỉ
tuyển nam giới trong khi chỉ có 30% mong muốn ứng viên nữ nộp hồ sơ. Số liệu
của Tổng cục Thống kê cho thấy, thu nhập giữa lao động nam và nữ chênh lệch
rất lớn. Phụ nữ có thu nhập ít hơn nam giới trong mọi ngành nghề. Trong tất cả
các ngành nghề và lĩnh vực, thu nhập của nữ chỉ bằng 74,5% so với nam. Theo
Điều tra Lao động và Việc làm, tỷ lệ phụ nữ ở vị trí “lãnh đạo, quản lý và quản
trị” tăng 0,5% đến mức 24,4% năm 2013 so với năm 2012 và tăng 0,6% từ năm
2011 đến năm 2012. Dữ liệu của dự án CEO nữ toàn cầu do IFRC thực hiện cho


25
thấy chỉ 7% các CEO của tổng số hơn 600 công ty được khảo sát là phụ nữ và
14% thành viên hội đồng quản trị là nữ giới.
Chính sách đối với Lao động nữ đã được quy định trong Bộ luật Lao
động, Luật bảo hiểm, Luật Bình đẳng giới…những vẫn còn nhiều điểm bất cập
và chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, một số điều khoảng của Bộ Luật

lao động còn quy định chung chung, không cụ thể dẫn đến việc người sử dụng
lao động nữ lợi dụng những điều này để lách luật, gây hậu quả xấu đối với lao
động nữ.
6.2.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trang bất bình đẳng giới hiện nay.
Thứ nhất, là do định kiến xã hội về phụ nữ, một quan niệm xã hội cho rằng làm
chính trị là công việc của nam giới hoặc cho rằng phụ nữ là những nhà lãnh đạo
kém hiệu quả hơn nam giới. Thứ hai là do hạn chế của thị trường, khi mà thị
trường lao động thường không hiệu quả đối với phụ nữ, đặc biệt khi phụ nữ chỉ
hạn chế tham gia một số lĩnh vực hoặc một số nghệ nghiệp cụ thể. Khi một số
rất ít phụ nữ được tuyển dụng, người sử dụng lao động có thể vẫn có quan niệm
phân biệt đối xử về năng suất lao động của phụ nữ hoặc vai trò thích hợp của
phụ nữ với vị trí công việc. Bên cạnh đó, gánh nặng kép về vai trò của phụ nữ:
công việc tại nơi làm việc và công việc tại gia đình cũng là một nguyên nhân
làm cho phụ nữ không có nhiều cơ hội thể hiện mình trong xã hội. Cuối cùng, sự
thiếu hiểu biết pháp của lao động nữ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng lao động nữ không biết để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
7. KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Trên thế giới, rất nhiều nước đã thành công trong việc đảm bảo bình đẳng
giới. Nhóm nghiên cứu tìm hiểu về những nước tiêu biểu nhất và có được thành
tựu lớn nhất trong vấn đề bình đẳng giới.
Phần Lan là một trong những quốc gia hàng đầu về bình đẳng giới, nó đạt
trên mức trung bình chung của tất cả các nước EU trên tất cả các chỉ số của
EIGE, và xếp cao nhất với chỉ số trong công việc là 82,0. Tham gia vào việc làm



×