Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.64 KB, 105 trang )

LUẬN VĂN:

Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị
của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN, của người
lao động. Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn
luyện, xây dựng GCCN. Vai trò này của Công đoàn Việt Nam đã được Hiến pháp Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Công đoàn khẳng định.
Từ khi ra đời, qua các chặng đường lịch sử gian khổ và vinh quang của đất nước,
Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng, thể hiện rõ vai trò của mình, đặc biệt
trong việc tuyên truyền giáo dục, giác ngộ ý thức chính trị cho GCCN, để GCCN thấy rõ
và từng bước hoàn thành SMLS của mình. Công đoàn Việt Nam đã góp phần không nhỏ
vào thắng lợi của cách mạng nước ta, đã xứng đáng với niềm tin của Đảng, là chỗ dựa
vững chắc của Nhà nước và là trường học CNCS của GCCN.
Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi lớn lao và đầy phức tạp. Cách mạng
khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội. Kinh tế
tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn
cầu hóa là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia... Trong khi đó thì
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNTB hiện đại lại đang nắm ưu thế về nhiều
mặt... Thế giới đang chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra
gay gắt. Những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trách nhiệm nặng nề cho nhân loại: bảo vệ
môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm
quốc tế...
Đất nước sau nhiều năm đổi mới đã có những thành tựu to lớn và rất quan trọng
làm cho thế và lực của chúng ta lớn mạnh lên nhiều. Thế nhưng, vẫn còn nhiều yếu kém


và khuyết điểm: kinh tế phát triển chưa vững chắc, một số vấn đề văn hóa - xã hội bức
xúc chưa được giải quyết, cơ chế và chính sách không đồng bộ, tham nhũng, suy thoái về


tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng... Đất nước vẫn phải đối mặt với bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ ra là:
tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, tham nhũng và quan liêu, "diễn biến hòa
bình".
Tất cả những vấn đề trên của quốc tế và dân tộc đã tác động trực tiếp theo hướng
cả tích cực lẫn tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức của công nhân nước ta. Đảng ta, trong
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã lưu ý có "một bộ phận công nhân chưa nhận thức
được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng" [6, tr. 68].
Vì vậy, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, như Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, đang đòi
hỏi GCCN Việt Nam - lực lượng đi đầu trong sự nghiệp ấy, phải được "... coi trọng phát
triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
và nghề nghiệp..." [9, tr. 124].
Công đoàn Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN
đã góp phần to lớn vào xây dựng GCCN nước ta phát triển toàn diện. Công đoàn Việt
Nam thực sự đã là hình ảnh đẹp đẽ, là niềm tin yêu và hy vọng của GCCN Việt Nam.
Tuy thế, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng nước ta, hoạt động của Công đoàn,
trong đó có nhiệm vụ nâng cao ý thức chính trị của GCCN, còn nhiều bất cập.
Vì vậy, đề tài " Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chớnh trị của giai cấp
cụng nhõn ở nước ta hiện nay " mang tính cấp bách và thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước yêu cầu của thực tiễn xây dựng GCCN vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là
lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, xuất phát từ
tầm quan trọng của việc nâng cao vai trò của Công đoàn để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ
mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã tập
trung nghiên cứu về GCCN và Công đoàn. Có thể liệt kê một số tác giả, tác phẩm mới được
công bố những năm gần đây như: "Giai cấp công nhân Việt Nam mấy vấn đề lý luận và

thực tiễn " của Bùi Đình Bôn, Nxb Lao động, 4-1996; "Một số vấn đề về giai cấp công


nhân và lao động Việt Nam" của Văn Tạo, Nxb Chính trị quốc gia, 4-1997; "Đảng Cộng
sản Việt Nam với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam", Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam - Ban Tư tưởng - văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000; "Xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội, 1999...
Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu về GCCN và lao động trên các tạp chí,
các báo như: "Giai cấp công nhân phát huy truyền thống vẻ vang đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Lê Khả Phiêu, Báo Nhân Dân, 1998, ngày 6
tháng 11; "Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử" của
Nguyễn Viết Vượng, Báo Nhân Dân, 1998, ngày 1 tháng 11; "Vấn đề xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta" của
Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Khoa học Chính trị, 1998, số 1; "Giai cấp công nhân Việt Nam
tự nhận thức về giai cấp mình trong thời đại mới" của Văn Tạo, Tạp chí Lao động và
Công đoàn, tháng 1 năm 2000; "Công đoàn Việt Nam với cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng" của Cù Thị Hậu, Tạp chí Cộng sản, tháng 4 năm 2000; "Mấy suy nghĩ về công
tác đào tạo, quy hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay" của Lê Phan Ngọc Rỉ, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, ngày 2 tháng 8 năm 1999...
Các công trình và bài viết nêu trên phần lớn tập trung phân tích và khẳng định
những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về SMLS của GCCN, đồng thời đặt nó trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Về Công đoàn, các công trình, bài viết đó cũng chỉ đề cập
đến mối quan hệ giữa Đảng và Công đoàn, những giải pháp để nâng cao vai trò của Công
đoàn nói chung. Vấn đề "Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp
công nhân" chưa trình bày một cách cơ bản và có hệ thống trong bất kỳ một công trình
khoa học nào, nếu có chỉ được trình bày lướt qua, đề cập đến một biểu hiện nào đó của
vấn đề. Vì vậy, đề tài "Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công
nhân ở nước ta hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.
Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình

có trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng


hy vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để
tổ chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong việc nâng cao ý thức chính trị cho
GCCN để GCCN xứng đáng là giai cấp lãnh đạo quá trình CNH, HĐN đất nước.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Luận văn nhằm khẳng định vai trò to lớn của Công đoàn Việt Nam trong việc
nâng cao ý thức chính trị cho GCCN, từ đó đưa ra những giải pháp để tổ chức Công đoàn
thực hiện tốt hơn nữa vai trò này của mình trong thực tiễn đổi mới của đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
Một là: Làm rõ khái niệm "ý thức chính trị", những biểu hiện của ý thức chính trị
của GCCN Việt Nam và sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của GCCN trong giai
đoạn hiện nay.
Hai là: Phân tích vai trò quan trọng của Công đoàn trong việc nâng cao ý thức
chính trị của GCCN Việt Nam. Qua đó, đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của
việc thực hiện vai trò này trong thời gian vừa qua.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn trong việc
nâng cao ý thức chính trị của GCCN nước ta để GCCN thực sự trở thành giai cấp tiên
tiến của xã hội, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐN của đất nước, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn bàn đến vai trò của Công đoàn Việt Nam, nhưng chủ yếu ở các hoạt
động tác động đến ý thức chính trị của GCCN. Cũng như vậy, luận văn đề cập đến
GCCN Việt Nam, nhưng tập trung chính vào các biểu hiện của ý thức chính trị của giai
cấp này.



Bối cảnh thực tiễn của các vấn đề được nêu ở luận văn chỉ chủ yếu giới hạn trong
giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh và điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu để thực hiện được nhiệm vụ và đạt
được mục đích mà luận văn đề ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Quan niệm về ý thức chính trị của GCCN thông qua việc chỉ ra những biểu hiện
cơ bản của nó trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Trình bày một cách có hệ thống những giải pháp để Công đoàn phát huy vai trò
quan trọng của mình trong việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN nhằm đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.


Chương 1
ý thức chính trị và sự cần thiết phải nâng cao
ý thức chính trị cho giai cấp công nhân nước ta

1.1. ý thức chính trị
1.1.1. Quan niệm về ý thức chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, toàn bộ đời sống xã hội chia thành
hai lĩnh vực lớn: vật chất và tinh thần. Đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Nó bao gồm tình cảm, tập quán,
truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận.v.v. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý
thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội

như thế nào, ý thức xã hội như thế ấy. Khi tồn tại xã hội biến đổi, thì những tư tưởng và
lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học,
nghệ thuật... sớm muộn cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, ý thức xã hội cũng có tính độc lập
tương đối, nó có những tư tưởng tiến bộ, vượt trước so với tồn tại xã hội và nó có tác
động trở lại đối với tồn tại xã hội.
ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như chính trị, pháp
quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo,khoa học... Mỗi hình thái ý thức xã hội
phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội nhưng giữa
chúng có mối liên hệ với nhau. ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử xã hội
cụ thể mà thường có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu, ở chúng biểu hiện
tập trung ý thức của thời đại đó và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Tuy
nhiên, trong tính tổng thể của ý thức xã hội, thì ý thức chính trị có tầm quan trọng. Nó
quyết định đến xu hướng và bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác. Vậy, ý thức
chính trị là gì?
Để hiểu ý thức chính trị, cần bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm chính trị và ý
thức. Chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước hay công việc xã


hội liên quan với Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc
và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nước.
Theo Lênin, cái quan trọng nhất trong chính trị là "Tổ chức chính quyền nhà
nước", chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các cộng đồng xã hội về vấn đề nhà
nước; là sự tham gia của nhân dân vào các công việc nhà nước; là tổng hợp những
phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của đảng
phái; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, các Nhà nước để thực hiện
đường lối đã được lựa chọn nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra.
ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não của con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ánh ý thức là hình ảnh chủ quan vì nó không
có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh thần, nó cải biến cái vật chất được di truyền vào trong

bộ não của con người thành cái tinh thần. ở đây không phải sự phản ánh tùy tiện, xuyên
tạc hiện thực khách quan và cũng không phải là sự phản ánh thụ động giản đơn mà là sự
phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan.
Từ khái niệm về chính trị và ý thức, có thể nhận thấy rằng ý thức chính trị chính
là sự hiểu biết, sự quan tâm đến những vấn đề chính trị. Cụ thể hơn, ý thức chính trị là sự
phản ánh các quan hệ kinh tế - xã hội, phản ánh những lợi ích cơ bản và địa vị của các
giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp đó trong việc giành hoặc duy trì quyền điều
hành nhà nước. Theo Lênin, ý thức chính trị bao gồm:
"Những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, các tầng lớp với Nhà nước và
Chính phủ, lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau" 21, tr. 101.
ý thức chính trị rất phong phú nhưng cái cốt lõi của nó là những hiểu biết, những
nhận thức của một giai cấp về địa vị lịch sử, về đường lối, chiến lược, sách lược, những
nhiệm vụ của giai cấp mình trong sự phát triển của lịch sử.
Theo Lênin, chính trị là tham gia vào các công việc của Nhà nước, các định
hướng của Nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Vì


thế, ý thức chính trị còn là sự nhận thức về Nhà nước, về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như
con đường, lực lượng xã hội để thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước đó và sự tham
gia của chủ thể vào hoạt động của Nhà nước đó.
Nhà nước bao giờ cũng là Nhà nước của một giai cấp nhất định, bị chi phối trực
tiếp của một đảng phái nào đó. Bên cạnh những đảng phái cầm quyền là nhiều đảng phái
khác nữa (cả đảng đối lập và đảng không đối lập) đại biểu cho hệ tư tưởng, cho lợi ích của
các giai cấp trong xã hội. Mọi quan hệ giữa các đảng phái ấy là chính trị. Vì thế ý thức
chính trị đồng thời với việc nhìn nhận Nhà nước, là thái độ đối với hoạt động của các
đảng phái.
Trung tâm của đời sống chính trị là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị là
quyền lực của một giai cấp hay của liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội, nó nói lên khả
năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình: "Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa
của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" 29, tr. 628.

Quyền lực chính trị nói lên thực chất hoạt động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái
trong xã hội có giai cấp. Giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm, muốn chi phối
quyền lực chính trị. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng
yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã hội khác theo hướng có
lợi cho giai cấp mình, nhóm mình. Do đó, ý thức chính trị còn thể hiện ở sự nhận thức
được nhu cầu, lợi ích chính trị, hay nói cách khác, là sự nhận thức về quyền lực chính trị.
Đối với mỗi công dân nói chung thì nhu cầu và lợi ích chính trị thể hiện ở sự nhận thức
được quyền và nghĩa vụ công dân.
Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các
giai cấp trở nên gay gắt không thể điều hòa được. Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái
kinh tế - xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định, trong đó có những giai cấp cơ bản,
những giai cấp không cơ bản và những tầng lớp xã hội. Vì vậy, ý thức chính trị còn thể
hiện ở quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp, tầng
lớp xã hội đó đang theo đuổi; ở sự liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai
cấp, tầng lớp vì những yêu cầu nhất định.


Chính trị thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các
quốc gia dân tộc. Trong đó, trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế. Lênin đã cho rằng:
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Điều đó có nghĩa là sự hình thành, tồn
tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển
kinh tế, của thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế cơ bản của các giai
cấp, tầng lớp khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội thông qua hoạt động chính trị
của các tổ chức chính trị của mình để phản ánh trực tiếp vị trí, lợi ích cơ bản của giai cấp,
tầng lớp mình. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế nên ý thức chính trị cũng
gắn trực tiếp với vấn đề kinh tế. ý thức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng của cơ sở
kinh tế xác định, thuộc ý thức xã hội bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, chính trị
và ý thức chính trị không phải là hậu quả tiêu cực của kinh tế mà có sự tác động trở lại
đối với kinh tế. Nếu như không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất
định nào đó không thể giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình và do đó, cũng

không thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế.
ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên nó cũng có hai cấp độ chính.
Đó là cấp độ thực tiễn - đời thường và cấp độ tư tưởng - lý luận.
ý thức chính trị thực tiễn - đời thường là biểu hiện của các dạng tâm lý, cảm xúc,
mơ ước... nảy sinh tự phát từ trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm, xã hội của con
người, từ môi trường xung quanh và từ ảnh hưởng chính trị trực tiếp nào đó. ý thức chính
trị thực tiễn - đời thường chưa có tính hệ thống, không có tầm nhìn lịch sử rộng lớn,
không có công thức lý luận, phạm trù triết học. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nó
tầm thường, ít giá trị, mà ngược lại, nó có nội dung rất phong phú, bao hàm được nhiều
mặt của đời sống chính trị, và ở một mức độ nào đó nó đã phản ánh được bản chất của
các vấn đề chính trị. So với cấp độ tư tưởng - lý luận thì ý thức chính trị ở cấp độ thực
tiễn - đời thường có điểm mạnh ở chỗ nó gần hơn với hiện thực trực tiếp của đời sống
chính trị, do đó nó có thể phản ánh đầy đủ, toàn vẹn hơn những chi tiết của đời sống
chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị thực tiễn - đời thường là kho tàng để ý thức chính trị có
tính lý luận tìm kiếm và khái quát thành nội dung của mình.


ở cấp độ thứ hai - cấp độ tư tưởng - lý luận, ý thức chính trị được biểu hiện là
những tư tưởng, quan điểm chính trị đã được hệ thống hóa thành một chỉnh thể mang tính
hợp lý, tính khoa học, phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các hiện
tượng trong đời sống chính trị, được diễn tả dưới dạng các khái niệm khoa học và đỉnh
cao là các học thuyết chính trị - hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng - chính trị là hệ thống
những quan điểm tư tưởng thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định, được cụ
thể hóa trong cương lĩnh chính trị, trong đường lối chiến lược và sách lược của chính
đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước. Hệ tư tưởng chính trị không tách rời tổ chức
và cơ quan chính trị, thông qua các tổ chức và cơ quan đó mà một giai cấp nhất định tiến
hành cuộc đấu tranh cho lợi ích giai cấp.
Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp nắm chính quyền có vai trò rất to lớn trong đời
sống xã hội. Nó tác động trở lại cơ sở kinh tế thông qua các tổ chức nhà nước, biểu hiện ở
chỗ nó thông qua quyền lực nhà nước để bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế mà giai cấp

cầm quyền là người đại diện cho quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị trong xã hội đó.
Hệ tư tưởng chính trị còn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội nói
chung. Thông qua tổ chức nhà nước sẽ xác lập vị trí chi phối của hệ tư tưởng - chính trị
của giai cấp cầm quyền trong văn hóa, nếp sống và mọi lĩnh vực tinh thần của đời sống
xã hội. Bằng cách đó giai cấp cầm quyền hy vọng hình thành được sự thống nhất về
chính trị, tư tưởng, tinh thần trong xã hội mà hệ tư tưởng chính trị của nó đứng ở vị trí
trung tâm, mang tính chi phối.
Các hình thái ý thức xã hội đều chịu sự chi phối của ý thức chính trị, phục tùng
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Hệ tư tưởng - chính trị của một giai cấp có
thể là tiến bộ, cách mạng nhưng cũng có thể là lạc hậu, phản cách mạng. Điều đó tùy
thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp đó quyết định. Khi giai cấp đó còn là giai cấp tiến
bộ, cách mạng, tiêu biểu cho tiến trình lịch sử thì hệ tư tưởng - chính trị của nó là tiến bộ,
phản ánh đúng hiện thực của đời sống chính trị và có tác động tích cực đến sự phát triển
của xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, không còn vai trò lịch sử thì hệ tư tưởng của
nó là phản khoa học, phản ánh xuyên tạc, sai lầm các hiện thực trong đời sống chính trị
và nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.


ý thức chính trị thực tiễn - đời thường và ý thức chính trị có tính lý luận có quan
hệ biện chứng với nhau vì chúng đều là sự phản ánh hiện thực đời sống chính trị. ý thức
chính trị thực tiễn - đời thường, biểu hiện dưới dạng tâm lý, tình cảm giai cấp sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng chính trị của giai cấp, ngược lại hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp lại củng cố, định hướng cho sự phát triển tâm lý, tình cảm giai cấp.
Vì mối quan hệ đó mà trong hoạt động thực tiễn giáo dục ý thức chính trị cho mỗi cá
nhân, cộng đồng cần khuyến khích, nuôi dưỡng, giáo dục cả ý thức chính trị thực tiễn đời thường và cả ý thức chính trị có tính lý luận.
Như vậy, phân loại theo trình độ phát triển của ý thức chính trị thì có hai cấp độ:
Cấp độ thực tiễn - đời thường và cấp độ tư tưởng - lý luận. Ngoài ra ý thức chính trị còn
được phân theo chủ thể. Theo cách này ý thức chính trị gồm ý thức chính trị cộng đồng
(xã hội, nhóm xã hội, giai cấp, tầng lớp v,v...) và ý thức chính trị cá nhân.
ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị nảy sinh từ nhu cầu, lợi ích chính trị

của cả cộng đồng xã hội hoặc của một nhóm xã hội, một giai cấp, một tầng lớp nào đó
trong cộng đồng. Đó là chuẩn mực giá trị chung về nhu cầu, lợi ích chính trị được cả
cộng đồng chấp nhận.
ý thức chính trị cá nhân là sự đánh giá, thái độ, sự hiểu biết của từng cá nhân về
những vấn đề hiện thực của đời sống chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị cá nhân rất đa
dạng, phong phú và mang đậm màu sắc chủ quan. Một vấn đề hiện thực của đời sống
chính trị có thể được nhìn nhận dưới những lăng kính khác nhau. Cho nên, trong thực tiễn
giáo dục ý thức chính trị cho mỗi cá nhân cần khuyến khích tính tích cực sáng tạo đồng
thời phải có sự định hướng để tránh những nhận thức không đúng dẫn đến những hậu quả
tiêu cực.
ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân có quan hệ chặt chẽ với
nhau. ý thức chính trị cộng đồng cũng là ý thức chính trị của một xã hội, của một
nhóm người, một tập đoàn người. Vì vậy nó chỉ tồn tại, phát triển, thể hiện thông qua
ý thức chính trị của mỗi cá nhân. Tất nhiên, ý thức chính trị cộng đồng không phải là
phép cộng giản đơn của các ý thức chính trị cá nhân mà nó là chất mới được kết tinh


từ những tinh hoa của các ý thức chính trị cá nhân, nó được cả cộng đồng chấp nhận.
Ngược lại, mỗi cá nhân là một phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội, được
hình thành và phát triển trong quan hệ xã hội, mỗi cá nhân đều sống trong một xã hội
cụ thể, một giai cấp cụ thể nên ý thức chính trị của cá nhân đều mang nội dung nào đó
của ý thức chính trị cộng đồng, đều bị chi phối, bị định hướng bởi ý thức chính trị
cộng đồng. Tất nhiên, ý thức chính trị cộng đồng ảnh hưởng đến ý thức chính trị cá
nhân không như nhau. Mỗi cá nhân có hoàn cảnh kinh tế, nghề nghiệp, môi trường
giáo dục, kinh nghiệm sống v,v... riêng nên lĩnh hội, tiếp thu ý thức chính trị cộng
đồng và ảnh hưởng đến ý thức chính trị cộng đồng cũng khác nhau. Những cá nhân có
tài năng, có trách nhiệm với cộng đồng sẽ có trình độ giác ngộ chính trị cao và có tác
động tích cực đến ý thức chính trị cộng đồng, những cá nhân thoái hóa, biến chất,
không giác ngộ được ý thức chính trị cộng đồng sẽ tác động tiêu cực đến ý thức chính
trị cộng đồng, thậm chí ý thức chính trị cá nhân có thể mâu thuẫn đi đến đối lập với ý

thức chính trị cộng đồng mà họ xuất thân. Từ mối quan hệ giữa ý thức chính trị cộng
đồng và ý thức chính trị cá nhân cho thấy có thể biết được ý thức chính trị của cộng
đồng nào đó thông qua việc tìm hiểu một cách tổng hợp ý thức chính trị của từng
thành viên trong cộng đồng và ngược lại.
Việc phân loại ý thức chính trị theo chủ thể đã chỉ rõ nhóm xã hội nào, tầng lớp
nào, giai cấp nào trong xã hội cũng có ý thức chính trị. Trong xã hội có nhiều nhóm xã
hội, nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp. Mỗi giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội có điều kiện sinh
hoạt vật chất riêng, có địa vị và lợi ích khác nhau, do đó sẽ có nhiều loại ý thức chính trị
khác nhau (có thể đối lập có thể không) nhưng không phải ý thức chính trị của nhóm xã
hội, tầng lớp, giai cấp nào cũng đã vươn tới có được tầm lý luận, hơn nữa có hệ tư tưởng
chính trị. Chỉ có những giai cấp có khả năng đại biểu cho một phương thức sản xuất mới,
và do đó hình thái kinh tế - xã hội mới, mới có thể hình thành tư tưởng chính trị một cách
có hệ thống, có tính lý luận, tính khoa học dưới dạng học thuyết. Và tất nhiên, khi ấy, hệ
tư tưởng chính trị của giai cấp này sẽ trở thành thống trị trong xã hội và ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để có được điều đó, trước hết
giai cấp này phải có những nhà khoa học để khái quát những tư tưởng chính trị rời rạc,


đời thường, kinh nghiệm, mang tính tự phát thành lý luận, thành hệ thống, thành học
thuyết. Sau đó, phải có những nhà hoạt động lý luận chính trị để phát triển và phổ biến
tuyên truyền học thuyết vào giai cấp và xã hội nói chung.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thống trị trong xã hội
bao giờ cũng là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế - giai cấp nắm
chính quyền. ý thức chính trị của các giai cấp bị trị khác, thường chịu ảnh hưởng hệ tư
tưởng chính trị (ý thức chính trị) của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này
chỉ là tương đối. Cùng với cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế, cuộc đấu
tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng cũng diễn ra quyết liệt giữa giai cấp thống trị và
giai cấp bị trị và làm cho hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị bị suy yếu.
Trong xã hội không có đối kháng giai cấp - xã hội XHCN, hệ tư tưởng chính trị
của GCCN giữ vị trí thống trị. Nhưng hệ tư tưởng chính trị của GCCN là tiến bộ, cách

mạng, nó phản ánh được những nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của toàn thể nhân dân
lao động nên có vai trò chủ đạo, định hướng đúng đắn cho ý thức chính trị của các giai
cấp, tầng lớp khác trong xã hội nhằm mục đích giải quyết tốt những quan hệ lợi ích giữa
các giai cấp, tầng lớp trong quá trình xây dựng CNXH.
Để nghiên cứu ý thức chính trị của một xã hội, một giai cấp, một tầng lớp, một
nhóm xã hội, một cá nhân nào đó cần phải thông qua những quan hệ lớn phản ánh đời
sống chính trị. Đó là nhận thức về vị trí và vai trò của giai cấp mình đối với sự phát triển
của xã hội; là thái độ đối với các bộ phận cơ bản trong hệ thống chính trị (nhà nước, đảng
phái v,v...); là sự nhìn nhận những nội dung chính trị quan trọng (chế độ, chính thể,
đường lối, chính sách v,v... phát triển đất nước); thái độ đối với các giai cấp, tầng lớp cơ
bản trong xã hội (bạn đồng minh, kẻ thù) v,v... Tùy theo đối tượng tìm hiểu mà các quan
hệ chủ yếu thể hiện ý thức chính trị nêu trên được cụ thể hóa và sắp xếp với những vị trí
khác nhau.
Vận dụng những vấn đề đã phân tích ở trên để nghiên cứu ý thức chính trị của
GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, GCCN Việt Nam là


giai cấp lãnh đạo cách mạng, nếu không có một trình độ giác ngộ chính trị nhất định, sẽ
không thể hoàn thành được sứ mệnh đó của mình.
1.1.2. Biểu hiện ý thức chính trị của GCCN nước ta
GCCN Việt Nam ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XX. Tuy ra đời muộn,
nhưng do được sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường bất
khuất chống ngoại xâm, có mối liên hệ mật thiết với nông dân và các tầng lớp lao động
khác trong xã hội và đặc biệt do sớm tiếp thu được ánh sáng khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của GCCN quốc tế, nên GCCN nước ta đã nhanh
chóng đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay,
GCCN Việt Nam thông qua Đảng tiền phong của mình đã lãnh đạo nhân dân giành được
được chính quyền, đem lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc và bước đầu xây dựng được
một xã hội mới, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Có thành quả đó, một phần
quan trọng là do GCCN có được một trình độ giác ngộ chính trị cao. Đó là một lòng yêu

nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất, là thái độ rõ ràng, dứt khoát đối với
thực dân phong kiến, là sự nhận thức được tầm quan trọng của bộ tham mưu chiến đấu
của mình - Đảng cộng sản, của kim chỉ nam cho hành động của mình - chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự nhận thức được mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và
lợi ích dân tộc, sự nhận thức được tầm quan trọng của liên minh với các giai tầng trong
xã hội.
Ngày nay, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, để hoàn
thành SMLS của mình, GCCN phải không ngừng nâng cao ý thức chính trị. Tuy nhiên,
trong điều kiện mới thì ý thức chính trị của GCCN cũng có những biểu hiện mới. Hiện
nay, ý thức chính trị của GCCN nước ta được nhận thấy thông qua những biểu hiện chính
sau đây:
Biểu hiện thứ nhất là sự giác ngộ về giai cấp.
Giác ngộ về giai cấp (ý thức về giai cấp) là sự nhận thức về chính bản thân mình
trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác và với tiến trình phát triển chung của xã
hội. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, giác ngộ về giai cấp là yếu tố hàng đầu


của ý thức chính trị của GCCN. Người công nhân có hay chưa có sự giác ngộ giai cấp, có
sự giác ngộ giai cấp cao hay thấp lại được biểu hiện ở hai vấn đề là:
- Người công nhân hiểu về giai cấp mình ra sao? Có SMLS (vai trò) như thế nào?
Tại sao lại có SMLS ấy? Điều kiện để có thể thực hiện được sứ mệnh này?
Người công nhân chưa có sự giác ngộ giai cấp khi không hiểu được hoặc hiểu sai
lệch về những vấn đề nêu trên.
Có ý thức chính trị hay ý thức giai cấp khi người công nhân biết được những ý
khái quát rằng: GCCN là giai cấp của những người lao động trong công nghiệp hiện đại,
tạo ra phần lớn sản phẩm vật chất cho xã hội, có SMLS là xóa bỏ chế độ TBCN, chế độ
người áp bức bóc lột người, xây dựng chế độ XHCN tiến lên CNCS. Sở dĩ GCCN có
SMLS ấy là vì GCCN có vai trò quan trọng trong kinh tế và các mặt phát triển khác của
xã hội, có tinh thần cách mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật, có lý luận cách mạng,
khoa học dẫn đường - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hoàn
thành SMLS của mình, GCCN phải có một trình độ giác ngộ chính trị nhất định, phải có

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải xây dựng được khối liên minh với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức.
Có ý thức chính trị cao, hay ý thức giai cấp cao, khi người công nhân nắm được
những vấn đề nêu trên một cách đầy đủ, có tính lý luận nhất định, đồng thời liên hệ được
với thực tiễn và nhất là có niềm tin vào vai trò lịch sử của giai cấp mình, tích cực chống
lại những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận SMLS ấy.
- Người công nhân nhận thức như thế nào về học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chưa ý thức được về giai cấp mình, khi người công nhân không hiểu gì hoặc hiểu
sai tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có ý thức chính trị khi người công nhân hiểu được rằng học thuyết Mác - Lênin
là hệ tư tưởng chính trị của GCCN, chỉ ra bản chất bóc lột của CNTB, xác định con
đường cách mạng để GCCN có thể thực hiện được SMLS của mình. Bên cạnh đó, GCCN


phải biết được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào
điều kiện của Việt Nam, chỉ ra con đường cụ thể để cách mạng Việt Nam giành được
thắng lợi; hiểu được rằng hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang là
nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của GCCN, của toàn dân tộc ta trên con
đường xây dựng xã hội mới.
Có ý thức chính trị cao là công nhân nhận thức một cách sâu sắc hơn những vấn
đề nêu trên. Về học thuyết Mác - Lênin, người công nhân còn hiểu được đó là một học
thuyết hoàn chỉnh gồm ba bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa
xã hội khoa học và là vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới. Về tư tưởng Hồ Chí
Minh, người công nhân có ý thức chính trị cao, không những chỉ hiểu đó là sự phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện Việt Nam, mà còn biết được những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh như về con đường cách mạng Việt Nam, về dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc, về Đảng Cộng sản... Từ đó, đặt niềm tin tuyệt đối vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có thái độ kiên quyết đấu tranh với những
quan điểm sai trái trong việc nhìn nhận, đánh giá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh.
Biểu hiện thứ hai về ý thức chính trị của GCCN là sự nhận thức về các tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể các đảng phái, các
tổ chức chính trị - xã hội tồn tại trong khuôn khổ của pháp luật với một Nhà nước thuộc
giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm duy trì và phát
triển chế độ xã hội nhất định nào đó. Vì vậy, sự nhận thức về các tổ chức trong hệ thống
chính trị của GCCN nước ta chính là hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và về các tổ chức chính trị - xã hội, mà trước hết là
về tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp mình là tổ chức Công đoàn Việt Nam.
- Đối với Đảng:


ý thức chính trị kém khi người công nhân không có hiểu biết nhất định về Đảng,
xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, thờ ơ với những hoạt động của Đảng, không có ý
thức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Người công nhân có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của
GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vừa là bộ phận hợp thành vừa là lực lượng
lãnh đạo hệ thống chính trị XHCN. Người công nhân thấy được tầm quan trọng của vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Người công nhân quan tâm đến hoạt động của Đảng mà cụ thể là hoạt động của các tổ
chức cơ sở Đảng trong các đơn vị của mình.
Người công nhân có ý thức chính trị cao, ngoài những hiểu biết trên,còn phải
hiểu được mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là CNCS; hệ tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng là một tổ chức
chặt chẽ thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình... Đặc biệt,
người công nhân có ý thức chính trị cao phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của

Đảng, có ý thức phấn đấu để trở thành đảng viên, xác định động cơ vào Đảng đúng đắn,
có thái độ đúng mức trước những thiếu sót của Đảng, tích cực tham gia xây dựng chỉnh
đốn Đảng, thường xuyên theo dõi các Đại hội cũng như các Hội nghị Trung ương của
Đảng...
- Đối với Nhà nước:
Người công nhân có ý thức chính trị là nhận thức được rằng Nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân, vì dân; là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý toàn bộ hoạt động của
đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Người công nhân có ý thức chính trị cao, khi nói đến Nhà nước, còn phân biệt
được sự khác nhau về bản chất giữa Nhà nước XHCN và Nhà nước tư sản. Nhà nước


XHCN mang bản chất công nhân, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân lao động,
còn Nhà nước tư sản là công cụ áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao
động, nhất là đối với GCCN. Từ đó, người công nhân có ý thức và trách nhiệm đối với lá
phiếu của mình trong việc chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào tổ chức Nhà nước của
mình. Đặc biệt, người công nhân có ý thức chính trị cao, còn có thái độ đúng mức đối với
những yếu kém trong hoạt động của bộ máy nhà nước như tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu... Từ đó, có tinh thần đấu tranh chống các tiêu cực đó để xây dựng một Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
- Đối với Công đoàn:
Người công nhân có ý thức chính trị nhận thức được rằng Công đoàn là một tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN, của người lao động; cùng với cơ quan nhà
nước và các tổ chức kinh tế - xã hội khác chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế nhằm thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của công nhân, viên chức,

lao động, của tập thể, của Nhà nước một cách căn bản, từ gốc và có hiệu quả; giáo dục
công nhân, viên chức và những người lao động khác nhận thức đầy đủ về lợi ích cá nhân
gắn với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, giáo dục kỷ luật lao động, giáo dục đạo đức, giáo
dục pháp luật, tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động vững tin vào đường
lối chính sách của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước...
Người công nhân có ý thức chính trị cao, bên cạnh việc nhận thức được những
vấn đề trên, còn phải thấy rằng Công đoàn là một thành viên quan trọng trong hệ thống
chính trị XHCN, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, là người cộng tác đắc lực của
Nhà nước; Công đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; người công nhân
phải có ý thức tham gia hoạt động của tổ chức Công đoàn và có ý thức trong việc xây
dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh.


Biểu hiện thứ ba về ý thức chính trị của GCCN là thái độ đối với sự nghiệp đổi
mới của đất nước.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước là do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực
hiện và được đánh dấu từ Đại hội VI (1986). Từ đó đến nay, đất nước đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Thái độ của người công nhân về vấn đề này như thế
nào cũng là một thể hiện quan trọng về trình độ ý thức chính trị của mình.
Đối với những nội dung của sự nghiệp đổi mới, người công nhân có ý thức chính
trị khi nhận thức được rằng sự nghiệp đổi mới của chúng ta có nội dung rất rộng lớn, đổi
mới toàn diện mà trước hết là đổi mới tư duy trong sự lãnh đạo của Đảng, qua đó mà có
sự đổi mới về kinh tế và những mặt khác của sự phát triển đất nước nói chung và của các
địa phương, các ngành, các cấp, các tổ chức... nói riêng. Người công nhân có ý thức
chính trị còn thể hiện ở sự yên tâm, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, tin vào
sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước tiếp tục đưa sự nghiệp này tiến lên
với những thành tựu to lớn và vững chắc hơn nữa.
Người công nhân có ý thức chính trị cao khi niềm tin này có được trên cơ sở
nhận thức khoa học về tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới, về truyền thống dân tộc và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân, về sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta suốt hơn 70 năm qua...

Người công nhân có ý thức chính trị cao còn thấy rõ sự nghiệp đổi mới là một quá trình
phấn đấu lâu dài, đầy khó khăn, nhưng nhất định sẽ thành công.
Người công nhân nếu không có hiểu biết về sự nghiệp đổi mới, không tin tưởng
vào sự nghiệp đổi mới, hoặc coi sự nghiệp đổi mới là của Đảng, của Nhà nước chứ không
phải của chính bản thân mình, đơn vị mình... thì đó là những biểu hiện kém về ý thức
chính trị.
Có ý thức chính trị khi công nhân ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự
nghiệp đổi mới, từ đó có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp đổi mới, mà trước hết
là ý thức đối với những hoạt động đổi mới của đơn vị mình.


Biểu hiện thứ tư về ý thức chính trị của GCCN là sự nhận thức về quyền lợi và
nghĩa vụ chính trị của mình.
Người công nhân có ý thức chính trị là nhận thức được và tuân thủ những quyền
và nghĩa vụ cơ bản của mình được ghi trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam; đồng thời hiểu biết và tuân thủ những quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể
trong quy chế của ngành, địa phương, đơn vị mình đề ra.
Có ý thức chính trị cao khi người công nhân không những hiểu được những
quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của mình mà còn đấu tranh để đạt được những lợi ích chính
đáng



tự

giác

trong

việc


thực

hiện

những

nghĩa

vụ

của mình.
Biểu hiện thứ năm về ý thức chính trị là thái độ của người công nhân đối với bạn
đồng minh và người sử dụng lao động trong đó có giới chủ.
Đối với bạn đồng minh, có ý thức chính trị khi người công nhân nhận thức được
rằng cần phải liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức để tạo thành một lực
lượng cách mạng đông đảo, mới có thể xây dựng thành công xã hội mới.
Có ý thức chính trị cao khi người công nhân, không những hiểu được tính tất yếu
của liên minh trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng xã hội mới, mà
còn nắm được nội dung của liên minh công - nông - trí thức, liên minh trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Đặc biệt, người công nhân có ý thức chính trị cao còn
phải vận dụng được những đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề này
để tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của đơn vị mình nhằm xác lập trực tiếp mối
quan hệ giữa công nhân trong đơn vị mình với nông dân và tầng lớp trí thức, từ đó làm cơ
sở để xây dựng liên minh công - nông - trí thức trên phạm vi toàn xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, GCCN không còn ở vào địa
vị bị áp bức bóc lột nữa, mà đã trở thành giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo
toàn xã hội trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. GCCN cùng toàn
thể nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ



bản. Tuy nhiên trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế nước ta vẫn tồn tại nhiều
thành phần trong đó có cả những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, nên vẫn có một bộ
phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Những công nhân này vừa
tham gia làm chủ cùng toàn bộ GCCN và nhân dân lao động, vừa làm thuê xét về mặt cá
nhân. Điều này lý giải vì sao khi xem xét biểu hiện ý thức chính trị của GCCN trong giai
đoạn hiện nay lại xét cả thái độ của GCCN đối với giới chủ. Giới chủ ở đây là muốn nói
đến những người tổ chức, quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp ngoài thành phần kinh
tế nhà nước và tập thể, còn người sử dụng lao động ở đây là nói đến người tổ chức, quản
lý sản xuất trong những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và tập thể.
Về vấn đề này, người công nhân có ý thức chính trị khi thái độ đối với người sử
dụng lao động trong đó có giới chủ, phải trên cơ sở quy định của pháp luật, đặc biệt là Bộ
luật Lao động. Hiểu được những điều khoản cơ bản trong Bộ luật Lao động là người
công nhân đã hiểu được những quyền lợi và nghĩa vụ lao động của mình. Từ đấy có cơ sở
để xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định cùng nhau hợp tác vì sự phát triển
của đơn vị và do đó của đất nước nói chung.
Người công nhân có ý thức chính trị cao là hiểu được bản chất của mối quan hệ
giữa mình và người sử dụng lao động, đặc biệt là với giới chủ. Phải thấy rằng sự hợp tác
với giới chủ là cần thiết nhưng phải vừa hợp tác vừa đấu tranh trên cơ sở thấu tình, đạt lý.
Người công nhân có ý thức chính trị cao phải có lập trường kiên định, vững vàng trước
mọi cám dỗ của lợi ích vật chất tầm thường, có thái độ rõ ràng, dứt khoát với những việc
làm sai trái của giới chủ, không vì lợi ích trước mắt của mình mà đánh mất đi danh dự,
nhân phẩm, mà phản bội lợi ích của giai cấp và của toàn thể nhân dân lao động. Hơn nữa,
người công nhân có ý thức chính trị cao phải động viên mọi người thực hiện tốt các qui
định của pháp luật, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu hiện vi
phạm mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong đó có giới chủ,
trên cơ sở tuân thủ pháp luật nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích.
Từ những phân tích trên, có thể thấy sự biểu hiện ý thức chính trị của GCCN rất
đa dạng, phong phú. Các biểu hiện có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và ảnh hưởng



lẫn nhau. Từ những biểu hiện đó, chúng ta có thể xem xét, đánh giá trình độ ý thức chính
trị hay trình độ giác ngộ giai cấp của một người công nhân cụ thể hoặc của cả GCCN.
Việc nghiên cứu biểu hiện ý thức chính trị của GCCN có ý nghĩa thực tiễn rất
quan trọng. Qua đấy có thể thấy ý thức chính trị sẽ quyết định đến các hoạt động chính trị
(là những hoạt động nhằm phản ánh những mối quan hệ cực kỳ quan trọng, liên quan đến
sự tồn vong của cả một giai cấp, một dân tộc, một quốc gia, trên tất cả các mặt của đời
sống của xã hội có giai cấp, mà vấn đề trung tâm của nó là vấn đề giành, giữ và duy trì
quyền lực nhà nước). vì vậy, ý thức chính trị cao hay thấp sẽ dẫn đến những hành động
chính trị đúng hay sai, từ đó quyết định đến việc đạt hay không đạt được lợi ích chính trị.
Cho nên, phải luôn luôn chú ý đến việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của GCCN nước ta
Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của GCCN nước ta được quy định từ
nhiều lý do. Trước hết, xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự chuyển biến
của phong trào đấu tranh của GCCN từ tự phát sang tự giác. GCCN là "con đẻ" của nền
đại công nghiệp. Sự ra đời của GCCN gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp và
GCCN chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ
bản nền sản xuất thủ công. Trong chế độ TBCN, GCCN hoàn toàn không có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản, họ là giai cấp bị phụ thuộc, bị áp bức bóc lột
và có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản. Vì vậy, ngay từ khi mới ra đời, GCCN
đã bắt đầu đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Những cuộc đấu tranh đó dần phát triển từ thấp đến cao nhưng đều trong vòng tự
phát mà thôi. Ngay vào những năm giữa thế kỷ XIX, ở nhiều phong trào đấu tranh của
công nhân Châu Âu diễn ra khá sâu rộng cũng vậy. Phân tích cuộc cách mạng tháng 2
năm 1848 ở Pháp, Mác đánh giá: "ở Pháp cuộc đấu tranh chống tư bản, dưới hình thức
hiện đại phát triển của nó, đã tới điểm bùng nổ của nó, tức là cuộc đấu tranh giữa công
nhân làm thuê trong công nghiệp với nhà tư sản công nghiệp, đang còn là một hiện tượng
cục bộ" 28, tr. 30 và theo Mác, một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của cuộc
cách mạng này là do "công nhân không có lãnh tụ, không có kế hoạch hành động chung"



28, tr. 45. Hay phong trào công nhân Mỹ, thời kỳ đầu, cũng được Ăngghen nhận xét
rằng: ... mới nhen nhóm lên, mới chỉ bao gồm một loạt những chấn động vô ý thức, và
hình như là rời rạc của cái giai cấp mà do sự tiêu diệt chế độ nô lệ đối với người da đen
và sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp nên đã trở thành tầng lớp thấp kém nhất
của xã hội Mỹ.
Vì vậy, phải đưa ý thức giai cấp, ý thức XHCN vào phong trào công nhân, làm
cho những cuộc đấu tranh của GCCN chuyển từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.
Lênin đã nói: "Nếu công nhân không tự giải phóng mình thì chẳng ai giải phóng cho họ
cả. Nhưng... chỉ có bản năng thôi thì chẳng đi được xa" và Người cũng khẳng định: chỉ
khi nào giai cấp vô sản và những người nông dân nghèo tỏ ra có đầy đủ tinh thần tự giác,
gắn bó với lý tưởng của mình, có tinh thần hy sinh bền bỉ, thì khi đó, thắng lợi của cách
mạng XHCN mới được đảm bảo, cho nên" phải nâng bản năng đó lên thành ý thức" 22,
tr. 491. Do đó, phải giáo dục, nâng cao ý thức giai cấp vô sản cho GCCN, để người công
nhân hiểu rằng họ tiến hành đấu tranh không phải chỉ để bảo vệ lợi ích riêng của mình mà
là đấu tranh để bảo vệ lợi ích cho toàn bộ GCCN và nhân dân lao động đối lập với lợi ích
của cả giai cấp tư sản.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đấu tranh của GCCN mang tính tự giác và
trước hết là tiến tới mục tiêu chính trị: giành chính quyền. Nhưng giành được chính
quyền thì mới hoàn thành được một nửa SMLS của mình, bước tiếp theo, GCCN phải sử
dụng chính quyền đó để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN. Nhiệm
vụ này khó khăn, phức tạp, lâu dài hơn nhiệm vụ trước rất nhiều. Vì vậy, để hoàn thành
SMLS của mình, GCCN phải không ngừng được nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó có
ý thức chính trị. Như vậy, việc giáo dục ý thức giai cấp chân chính cho GCCN không chỉ
cần thiết, bức xúc ở những nước GCCN chưa giành được chính quyền mà còn ở cả những
nước đã giành được chính quyền.
Hai là, sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị cho GCCN không chỉ xuất phát
từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự chuyển biến của phong trào đấu tranh của



GCCN từ tự phát sang tự giác, không chỉ xuất phát từ SMLS của GCCN mà còn xuất
phát từ vai trò định hướng của ý thức chính trị đối với các hoạt động khác của GCCN.
Có ý thức chính trị chân chính GCCN sẽ có định hướng đúng đối với hành vi của
mình. Trong đời sống xã hội có rất nhiều mặt hoạt động như hoạt động lao động sản xuất,
hoạt động khoa học, hoạt động văn hóa nghệ thuật, hoạt động thể thao, hoạt động tâm
linh, hoạt động tình cảm trong các quan hệ giao tiếp đối nhân, xử thế... ở mỗi người công
nhân thì những hoạt động đó đều nhằm đạt được những mục đích nhất định, nhằm thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của mình. Những hoạt động này đều được định hướng, chi phối
bởi ý thức chính trị của chính bản thân người công nhân. ý thức chính trị của người công
nhân sẽ quyết định nhiều đến đức tin, phẩm chất đạo đức, phương thức hành vi... của
công nhân. Có ý thức chính trị thì những hành vi của người công nhân mang tính tự giác
chứ không phải là những hành vi tự phát, nó đảm bảo tính đúng đắn, tránh được đến mức
tối đa những sai lầm trong mọi hoạt động của người công nhân. Chẳng hạn, khi người
công nhân nhận thức đúng về sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thì
sẽ lao động hăng say hơn với tinh thần trách nhiệm cao nhằm đóng góp một phần nhỏ bé
của mình vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Hoặc, khi người công nhân đã thấm nhuần
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì nếu có
nhu cầu tâm linh như lễ bái, thờ cúng, cũng chỉ giúp họ sống thiện hơn, chứ không thể
dẫn họ đến chủ nghĩa duy tâm.
ý thức chính trị có vai trò rất quan trọng đối với việc định hướng đúng với hành
vi của con người. Vì thế phải thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức chính trị cho
GCCN, phải coi giáo dục chính trị - tư tưởng là linh hồn của giáo dục phẩm chất.
Ba là, ngoài những yếu tố trên, thì sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị cho
GCCN còn bắt nguồn từ chính thực trạng ý thức chính trị của GCCN nước ta hiện nay.
Trong những năm vừa qua, do sự biến động lớn, nhanh chóng của tình hình thế
giới, đặc biệt là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng khoa học công nghệ trên lĩnh vực thông tin, do những tác động tiêu cực của
cơ chế thị trường, do công tác giáo dục tư tưởng, chính trị có những biểu hiện buông



×