Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của làng hoa kiểng Tân Quy Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.22 KB, 95 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học
- Sa Đéc là một trong hai trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh Đồng
Tháp, được hình thành từ rất sớm. Ở đây có nhiều làng nghề nổi tiếng, trong
đó có làng nghề trồng hoa kiểng ở phường Tân Quy Đông. Làng hoa này
được xem là cái nôi của làng hoa kiểng Sa Đéc - vựa hoa kiểng lớn nhất miền
Nam.
- Làng hoa kiểng Tân Quy Đông được hình thành từ rất sớm, trải qua
nhiều bước thăng trầm nhưng làng hoa kiểng Tân Quy Đông vẫn đứng vững
và từng bước phát triển, trở thành làng hoa chủ đạo của Đồng bằng sông Cửu


Long - một trong những làng hoa nổi tiếng của cả nước.
- Chọn đề tài “Làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc (Đồng
Tháp)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc
nghiên cứu Làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc - vốn là vấn đề đã
và đang được nhiều nhà nghiên cứu sử học, văn học, nhà thơ, nhà kinh
doanh, giới báo chí…quan tâm.
1.2. Về mặt thực tiễn
- Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quá trình hình thành
và phát triển của làng hoa kiểng Tân Quy Đông trong làng hoa kiểng của cả
nước. Xét từ gốc độ đó, đề tài góp phần vào việc đáp ứng nguyện vọng của
các thế hệ trồng hoa, những người dân đã từng sống và gắn bó tại làng hoa
kiểng Tân Quy Đông - Sa Đéc nói riêng và những người dân trồng hoa kiểng

cả nước nói chung hiện nay.
- Đề tài góp phần làm tư liệu để biên soạn lịch sử làng nghề địa phương,
sử dụng vào việc giảng dạy lịch sử địa phương trong các trường THCS,


2

THPT. Đề tài góp phần giáo dục tinh thần yêu nét đẹp văn hóa truyền thống
của tỉnh Đồng Tháp nói riêng và của dân tộc nói chung sẽ mãi trường tồn.
- Trong đề tài tôi có sưu tầm danh sách những người đã từng gắn bó với
làng hoa và đã trở thành những nghệ nhân. Đây là tài liệu đáng tin để các cấp
chính quyền có những chính sách thiết thực với những người trồng hoa kiểng,

để tạo nơi đây thành khu du lịch phục vụ cho khách tham quan và người dân
trong tỉnh nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Từ trước tới nay đã có nhiều tài liệu, nhiều bài báo viết về làng hoa
kiểng Tân Quy Đông như: Tạp chí cây cảnh Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí
Đồng Tháp xưa và nay, báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên…Đặc biệt, tác giả Lê
Kim Hoàng với “Làng hoa Tân Quy Đông - Sa Đéc” đã nghiên cứu về:
+ Vị trí địa lí và sự hình thành làng hoa kiểng Tân Quy Đông
+ Những người trồng hoa kiểng đầu tiên ở Tân Quy Đông
+ Các thế hệ trồng hoa kiểng ở Tân Quy Đông
+ Tư Tôn - Nghệ nhân sáng lập “Vườn hồng Tư Tôn”
Năm 2007, Đài truyền hình Việt Nam có bộ phim tư liệu Làng hoa

kiểng Sa Đéc, trong bộ phim này đã giới thiệu nhiều về làng hoa kiểng Tân
Quy Đông.
Năm 2008, Đài truyền hình Đồng Tháp có quay bộ phim tư liệu với chủ
đề Kiểng và đời, nói về triết lý của một số loài hoa kiểng.
Năm 2009, Đài truyền hình Đồng Tháp có quay hai bộ phim tư liệu:
Hoa Sa Đéc vươn xa; Hoa và Tết.
Những tài liệu trên chỉ mang tính giới thiệu khái quát và mang tính du
lịch, chưa phải là những công trình nghiên cứu toàn diện về làng hoa kiểng
Tân Quy Đông. Tuy nhiên, đó là những tài liệu tham khảo quí báu để tôi kế
thừa thực hiện đề tài này.



3

3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc (Đồng Tháp)
- Các nghệ nhân đầu tiên đã có công sáng lập làng hoa kiểng Tân Quy
Đông
- Những người tham gia lao động trực tiếp trong làng nghề trồng hoa
kiểng ở Tân Quy Đông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sự hình thành làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc (Đồng
Tháp)

- Quá trình phát triển của làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc
(Đồng Tháp)
- Ảnh hưởng của nghề hoa kiểng đối với kinh tế - xã hội phường Tân
Quy Đông
- Cơ hội, thách thức và các giải pháp, kiến nghị để làng hoa kiểng Tân
Quy Đông phát triển hơn trong thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Làng hoa kiểng Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc (Đồng
Tháp)
Về thời gian: Từ khi hình thành làng hoa kiểng Tân Quy Đông cho đến
năm 2009.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu
- Để giải quyết nội dung đề tài đặt ra, tôi sử dụng các nguồn tư liệu chủ
yếu sau đây:
+ Biên bản phỏng vấn các nghệ nhân đã từng gắn bó với làng hoa kiểng
Tân Quy Đông


4

+ Các tài liệu, sách, báo, bài viết…nói về làng hoa kiểng Tân Quy
Đông.
+ Nguồn tài liệu điền dã.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nội dung đề tài đặt ra, tôi sử dụng hai phương pháp chính
là phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Bên cạnh đó tôi còn sử dụng
một số phương pháp khác như phỏng vấn, sưu tầm, phân tích, quan sát, điền
dã, xử lí tài liệu, so sánh…
5. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quá trình
hình thành và phát triển của làng hoa kiểng Tân Quy Đông - Sa Đéc trong
làng hoa kiểng của cả nước.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình trồng và bảo vệ làng
hoa, kiểng
- Một số giải pháp, ý kiến, đề xuất về việc duy trì và phát triển cho làng

hoa, có thể phục vụ khách tham quan, du lịch trong và ngoài tỉnh
- Là tài liệu biên soạn lịch sử làng nghề địa phương, sử dụng giảng dạy
lịch sử địa phương. Góp phần vào việc giới thiệu về quê hương, con người
Đồng Tháp. Đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của làng
nghề truyền thống tỉnh Đồng Tháp. Qua đó giúp những người thưởng thức
hoa kiểng nâng cao nhận thức về những giá trị thẩm mĩ, nhận thức về cái đẹp
của thiên nhiên.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung
chính của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Khái quát về làng hoa kiểng Tân Quy Đông



5

Chương 2. Quá trình hình thành và phát triển của làng hoa kiểng Tân Quy
Đông
Chương 3. Ảnh hưởng của nghề hoa kiểng đối với kinh tế, văn hóa - xã hội
phường Tân Quy đông. Cơ hội, thách thức và các giải pháp cho làng hoa
kiểng Tân Quy Đông phát triển hơn trong tương lai.


6


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ LÀNG HOA KIỂNG TÂN QUY ĐÔNG
1.1. Vài nét về thị xã Sa Đéc
1.1.1. Tên gọi vùng đất Sa đéc
Từ lâu, địa danh “Sa Đéc” đã là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu:
Dựa vào yếu tố tự nhiên của vùng đất Sa Đéc, Nguyễn Hữu Hiệp cho
rằng Sa Đéc không phải là “chợ sắt”, bằng những cách lí giải của mình về
vùng đất Sa Đéc với đặc điểm của nó như có bãi cát đẹp độc đáo mà người
xưa đã gọi địa danh nơi ấy bằng tiếng khởi đầu đó là “Sa”. Còn từ “Đéc” thì
được giải thích như sau: “Sa Đéc” theo tiếng Việt là Sa Đét. Trong Đại Nam
Quốc âm tự vị và Đại Nam nhất thống chí đều viết là “đét”. Đét có nghĩa là

“bộ sợ sệt, bộ lấm lét”.
Ở miền Nam, người dân thường phát âm đéc và đét như nhau. Sa Đéc là
nơi mà cấu tạo đất tự nhiên có thành phần cát (sa). Sét pha cát là nguyên liệu
dùng để làm gốm và gạch ngói. Ngày nay nghề truyền thống gạch ngói ở Sa
Đéc vẫn còn. Sa Đéc là nơi có những bãi cát và cù lao cát được bồi tụ thành
thế phong thủy rất đặc trưng. Chính điều đó đã cho chúng ta nghĩ rằng sự
hình thành địa danh Sa Đéc là do người Việt gọi “Sa Đét”, sau này đã bị viết
lệch thành Sa Đéc [23, 17] cho đến ngày nay.
Chợ Sa Đéc từ lâu đã là một nơi rất nổi tiếng, điều đó đã được Trịnh
Hoài Đức mô tả trong Gia Định thành thông chí: “Chợ Sa Đéc ở phía Đông
huyện lỵ Vĩnh An, phố chợ dọc theo bờ sông, nhà hai bên liên tiếp 5 dặm,
dưới sông có những nhà bè, gác làm phòng ốc, đậu sát nhau, bán dầu rái,

than, mây, tre... trên bờ và dưới sông hàng hóa tấp nập, trông khá vui vẻ, thật
là nơi thắng địa phồn hoa’’ [12, 200]. Với những cách lý giải của mình,
Nguyễn Hữu Hiếu đã cho rằng Sa Đéc là một ngôi chợ nổi tiếng trên sông


7

nước, do đó người Khơme gọi là Shsa Ădek (chợ nổi) và người Việt đã phát
âm thành “Sa Đéc’’.
Sa Đéc, theo truyền thuyết của dân gian thì đó là tên của một người con
gái xinh đẹp có tên là Phsa - desk, do tình duyên của mình không thành nên
cô đã xuất gia đầu phật. Sau khi cha cô qua đời đã để lại cho cô một tài sản

đồ sộ, cô đã dùng tài sản này được để chia cho dân nghèo, đắp đường và xây
dựng một nhà lồng chợ để cho người dân có chỗ trú nắng, trú mưa, ngôi chợ
đó được gọi là chợ “Phsa-desk”, lâu ngày người dân nói lệch đi thành “Sa
Đéc”. [28, 223]
Theo Trương Vĩnh Ký, vào những năm 1860 thì Sa Đéc là tiếng Khơme
Phsar-Dek. Sa Đéc là “chợ hàng sắt”. Khảo cổ học chưa tìm thấy dấu vết gì
của chợ hàng sắt dưới thời Chân Lạp (thế kỉ VII – XVII). [11, 15]
Trong Đại Nam nhất thống chí lục tỉnh Nam Việt có viết: “Chùa Tô Sơn
ở địa phận thôn Hưng Nhượng, huyện Hà Dương (tỉnh An Giang), phía Tây
núi có viên đá hình con rùa, người xưa truyền rằng gặp khi trời hạn thì đến
đấy cầu đảo ắt có được mưa, thổ nhân bèn lập đền phía chân núi để thờ, gọi
là Sa Đéc (thủy thần)” [28, 221]. Cách lý giải này mang tính tâm linh của con

người.
Qua đó, ta thấy rằng có rất nhiều cách lý giải khác nhau về địa danh Sa
Đéc. Sa Đéc đó là sự kết hợp của ba yếu tố: truyền thuyết, tính ngôn ngữ và
đời sống tâm linh của con người.
Thế kỷ XVII, đã có nhiều người Việt từ miền Bắc, miền Trung đến Sa
Đéc lập nghiệp, cùng với người Hoa và một số người Khơme đã đến đây và
hình thành nên cộng đồng dân cư. Trong buổi đầu khai hoang họ đã có sự gắn
kết cộng đồng, đoàn kết với nhau, và gắn bó với vùng đất mà họ đã khai
hoang.


8


Vùng đất Tầm Phong Long từ năm 1757 đã là quyền cai quản của chúa
Nguyễn. Chúa Nguyễn đã cho phép người dân ở đây biến ruộng đất hoang
thành ruộng đất của mình.
Là vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, cộng với vị trí địa lý
thuận lợi, nên vùng đất Tầm Phong Long được chúa Nguyễn cho Nguyễn Cư
Trinh lập thành ba đạo: Tân Châu Đạo, Châu Đốc Đạo và Đông Khẩu Đạo là một đơn vị hành chính tại vùng đất mới mới khai hoang. Bộ máy hành
chính chưa được tổ chức hoàn chỉnh, nên phải giao cho quân binh quản lý
vùng đất này.
Người Kinh, người Hoa ở đây đã khai thác những tiềm năng và lợi thế
hiện có của vùng đất này, biến nơi đây thành vùng đất trù phú, lập thành 60
thôn. Dân Ngũ Quảng di cư vào Nam sinh sống, chúa Nguyễn đã cử người tổ

chức các cuộc di cư này và lập nên các thôn, xóm,làng, của cộng đồng người
Việt. Các chúa Nguyễn đã tiến hành song song việc bảo vệ dân chúng khẩn
hoang và xác lập chủ quyền. Hơn một thế kỷ, Sa Đéc đã hoàn toàn nằm trong
lãnh thổ nước Việt Nam và nhanh chóng trở thành vùng đất phát triển về mọi
mặt. Đó là công sức của cả cộng đồng dân cư Sa Đéc.
Chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XVII, nhiều
thương nhân phương Tây đã tìm “đối tác” bằng thuyền buôn và đã đi trên
sông Cửu Long, ngang qua đoạn sông Sa Đéc, họ đến Nam Vang, lên BăngCốc, Miến Điện với nhiều nguồn lợi lớn. Không lâu sau, Sa Đéc đã dần dần
trở thành một đầu mối giao lưu, mua bán khá sầm uất ở trong vùng đồng
bằng sông Cửu Long.
Pháp đã khai thông tuyến đường thủy Sài Gòn - Nam Vang khi chúng
xâm chiếm Nam Kỳ, tàu của Pháp đã đi trên sông Sa Đéc. Hệ thống sông

ngòi chằng chịt đã nối Sa Đéc với các địa phương lân cận trong vùng, Sa Đéc
trở thành nơi vận chuyển hàng hóa đi các nơi. Con đường bộ nối liền Sài Gòn


9

- Hà Tiên cũng được hình thành và cũng đi qua Sa Đéc. Điều đó cho thấy Sa
Đéc phát triển từ lâu đã có vị trí thuận lợi. Sa Đéc đã trở thành một tụ điểm
“văn minh miệt vườn”. Trong danh sách “miệt vườn”, Sơn Nam đã cho Sa
Đéc đứng đầu: “miệt vườn, gọi tổng quát những vùng cao ráo có vườn chanh,
vườn cam, vườn quít ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh
Long, Mỹ Tho, Cần Thơ”. Hai chữ “văn minh” mà nhà văn ghép với miệt

vườn được giải thích: “… nghĩ rằng văn minh là nếp sống vật chất, là ăn mặc,
ở, cách thức sinh nhai…ông Kỳ lão già trên bảy mươi tuổi, nếu sinh trưởng ở
Cái Bèm, ở Tam Bình, ở Sa Đéc thì đã là một pho tượng “Văn minh miệt
vườn, bằng xương bằng thịt” [37, 1]. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho thấy Sa Đéc
từ lâu đã là trung tâm mua bán sầm uất.
Quân và dân Sa Đéc đã anh dũng chiến đấu và vượt qua những gian
nguy thử thách của chiến tranh để giành lấy thắng lợi năm 1975 và cùng với
nhân dân cả nước đã vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sa Đéc đã giành
được nhiều thành tựu sau chiến tranh để bước vào công cuộc đổi mới và tiếp
tục thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Hiện nay Sa Đéc đã
trở thành đô thị loại 3, đây là điều mà người dân Sa Đéc luôn cảm thấy tự
hào.

Người dân Sa Đéc luôn có lòng khoan dung độ lượng để cùng chung sức
với nhân dân cả tỉnh xây dựng quê hương. 250 năm trôi qua, Sa Đéc đã dựng
nên những truyền thống quý báu, đó là truyền thống truyền thống hiếu học,
truyền thống cách mạng và truyền thống văn hóa …
Qua 250 năm, thời gian không dài lắm so với tiến trình lịch sử của dân
tộc, nhưng đối với lịch sử hình thành và phát triển của một địa phương thì nó
có ý nghĩa rất quan trọng, nó đã khẳng định vị trí, vai trò trong sự phát triển
của vùng miền và của cả nước. Từ Đông Khẩu Đạo đến Sa Đéc đô thị loại 3
là một chặng đường đầy gian khó để chinh phục thiên nhiên, đấu tranh với


10


mọi kẻ thù, xây dựng và phát triển không ngừng. [54, 17]. Cho dù Sa Đéc có
thay đổi ra sao, nhưng vẫn luôn phát triển hài hòa cùng cả xứ, cả tỉnh và cả
nước.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên – xã hội
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Diện tích đất tự nhiên: 59,5 km2
Dân số: trên 104.000 người (2005) [7, 241].
- Về đơn vị hành chính: gồm 9 xã, phường. Sa Đéc có 6 phường là
Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường An Hòa, phường Tân Quy
Đông và 3 xã: Tân Quy Tây, Tân Phú Đông, Tân Khánh Đông.
- Vị trí địa lý:

+ Phía Đông giáp Sông Tiền
+ Phía Tây giáp huyện Lai Vung
+ Phía Nam giáp huyện Châu Thành
+ Phía Bắc giáp huyện Lấp Vò.
Sa Đéc cách thành phố Hồ Chí Minh 140 km, là nơi khởi nguồn của
rạch Cần Thơ, nên dễ dàng giao thông buôn bán với khu vực phía nam sông
Hậu. Thị xã có quốc lộ 80 chạy qua, có tỉnh lộ 848 rất thuận lợi cho trao đổi
và giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển về kinh tế.
1.1.2.2. Điều kiện xã hội
Là một trong hai trung tâm kinh tế - văn hóa của tỉnh Đồng Tháp, được
hình thành từ thế kỷ XVII. Nằm ở phía nam sông Tiền, từ xưa đã là một
trung tâm quan trọng với phố, chợ sầm uất. Ngày nay với vị trí thuận lợi, Sa

Đéc có nhiều lợi thế trong liên kết và hợp tác phát triển với các huyện phía
Nam, cũng như trung tâm phát triển kinh tế của vùng đồng bằng Sông Cửu
Long. Sa Đéc còn sở hữu nhiều làng nghề truyền thống như làm bột, dệt
chiếu, trồng hoa kiểng…, có những biệt thự đẹp cổ kính, lâu đời nép mình


11

bên bờ sông Sa Đéc, những chùa cổ, đình xưa, những công trình kiến trúc
độc đáo như Kiến An Cung, chùa Bà… Nơi đây còn là nơi sinh ra nhiều
nhân tài, trí thức và những người có truyền thống cách mạng như bác vật
Lưu Văn Lang, Cô giáo Ngài; Đào Thiên Hải - Đại kiện tướng cờ vua đầu

tiên của Việt Nam, anh hùng Phan Văn Út…
Ngoài ra, nơi đây còn là nơi diễn ra chuyện tình giữa nhà văn
Marquerite Duras và ông Huỳnh Thủy Lê, để rồi sau này khi trở về Pháp bà
đã viết nên quyển tiểu thuyết nổi tiếng “Người tình” và được dựng thành bộ
phim “Người tình” rất nổi tiếng. Đây là lợi thế đầy tiềm năng của thị xã để
phát triển các loại hình du lịch lịch sinh thái. Thị xã đã lập dự án đầu tư khu
vui chơi giải trí công viên Sa Đéc, làng hoa kiểng Tân Quy Đông cũng được
quy hoạch đầu tư, tạo điểm dừng chân cho khách tham quan, du lịch. Phát
huy lợi thế, lấy công nghiệp, thương mại - dịch vụ làm mũi nhọn, đẩy mạnh
quy hoạch phát triển nông nghiệp gắn với phát triển đô thị, thị xã Sa Đéc đã
đạt những thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn
(2001- 2005) đạt 15,5/năm, [7, 234]. Kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư

phát triển, công tác quy hoạch và chỉnh đốn đô thị được triển khai đồng bộ,
góp phần đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa.
Từ cuối thế kỷ XIX, Sa Đéc đã trở thành trung tâm giao lưu thương mại
của khu vực. Ngày nay vai trò của Sa Đéc vẫn được khẳng định, Sa Đéc vẫn
là trung tâm trung chuyển hàng hóa từ Thành phố Hồ Chí Minh đến các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long, Lào và Campuchia.
Với tiềm năng kinh tế của thị xã, Nông Đức Mạnh đã nói: “…Thị xã
vốn là trung tâm giao lưu hàng hóa cách đây mấy thế kỷ; con người Sa Đéc
có trình độ dân trí văn minh. Nơi đây nằm trong điểm giao lưu đường bộ lẫn
đường thủy, nơi giao thương kinh tế lớn với các vùng, vì vậy người dân tiếp
cận kinh tế nhanh, nhạy bén. Với vai trò, vị trí của Sa Đéc như vậy, sẽ tác



12

động như thế nào đến kinh tế - xã hội các vùng xung quanh và ngược lại.
Bên cạnh đó, Sa Đéc thu hút sản phẩm hàng hóa của các vùng như thế nào.
Sa Đéc sẽ đi lên với tốc độ như thế nào trong thời gian tới,…”.[7, 245]. Vì lẽ
đó, đương thời nhà thơ Nguyễn Liên Phương có bài ca ngợi “Sa Đéc cảnh
thi” như sau:
“ Sa Đéc ngày nay đã rộng thinh
Dòng sông xanh biếc thật nên tình
Thuyền ngược, thuyền xuôi về tấp nập,
Người Hoa, người Việt sống hòa mình

Dinh thự, công viên nhiều chỗ đẹp,
Chùa chiền, thánh thất lắm nơi xinh”. [53, 39]
1.2. Khái quát về phường Tân Quy Đông
1.2.1. Địa danh Tân Quy Đông
Thôn Tân Quy Đông là một trong những thôn được thành lập từ lâu đời
ở Sa Đéc, chính thức thuộc chủ quyền người Việt từ năm 1757. Năm 1802,
Gia Long lên ngôi hoàng đế, Tân Quy là nơi dân chúng mới quy tụ, trở lại
chỗ cũ, cũng có nghĩa là “mới quy phục.
Ở huyện Vĩnh An có hai thôn mang tên Tân Quy, để phân biệt, lấy sông
Sa Đéc làm phân giới, thôn Tân Quy Đông nằm về hướng Đông và thôn Tân
Quy Tây nằm về hướng Tây. [65, 13]. Địa danh đó cho đến ngày nay vẫn còn
nguyên giá trị.

1.2.2. Điều kiện tự nhiên phường Tân Quy Đông
* Đôi nét về Tân Quy Đông
Theo nghị định của Chính Phủ ngày 30/11/2004 số 194/2004/NĐ – CP.
Tân Quy Đông đã được đổi thành phường Phường. Tân Quy Đông là dãy đất
rất màu mỡ, trù phú, thích hợp cho trồng trọt và chăn nuôi, nhất là nghề
trồng hoa kiểng. Người dân Tân Quy Đông lao động cần cù sáng tạo, trong


13

chiến tranh và trong thời bình, Tân Quy Đông có vị trí chiến lược quan trọng
là cửa ngõ phía Bắc đi vào nội ô - nơi đặt cơ quan đầu não tỉnh Sa Đéc của

thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, là làng hoa kiểng duy nhất có khu công nghiệp
phát triển đầu tiên ra đời ở đây.
Từ xưa, Tân Quy Đông đã là một trong những vùng đất xinh đẹp của
đất Gia Định. Trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại
Nam nhất thống chí Quốc sử quán triều Nguyễn mô tả như: “… Nơi đây tuy
chốn lâm tuyền mà gần nơi thành thị, kẻ muốn nhàn tĩnh thì đến bến sông
phía Bắc bơi thuyền qua Tiền Giang tắm gội gió trăng. Người ưa phồn hoa
thì đến bến sông phía Nam chèo thuyền xuống sông Sa Đéc mà dạo chơi
thành thị”. “ Tiên Phố ở đất Tân Quy Đông nước trong, cát trắng, gió mát,
sông lặng. Người có nghe thuyền đem ra đậu nơi đây không bị ruồi muỗi
huyên náo nên gọi là tiên” [65, 11].
Tân Quy Đông là nơi có vị trí giao lưu thuận lợi. Ở đây vừa thôn quê,

vừa thành thị, nơi dễ dàng tiếp nhận các luồng sống văn minh. Từ lúc đặt ách
thống trị lên sáu tỉnh Nam Kỳ thì Sa Đéc là nơi thực dân Pháp tiến hành khai
thác sớm. Làng Tân Quy Đông gần một nửa phía Đông - Nam được biến
thành tỉnh lỵ của tỉnh Sa Đéc. Đương thời nhà thơ Nguyễn Liên Phương có
bài ca ngợi “Sa Đéc cảnh thi” như sau:
“Có danh đời cựu phủ Tân Thành,
Sa Đéc vui nay cảnh thích tình
Đèn Vĩnh Phước ngời hình nguyệt chiếu
Cồn Tân Qui nổi dạng cù doanh
Nhà dân phố chợ nhiều nơi lịch
Chùa Phật, đình thần lắm chỗ xinh
Vườn ruộng ấm no phong tục tốt

...” [65, 15]


14

Lợi thế của Tân Quy Đông là vùng sông nước, khí hậu mát mẻ, nước
ngọt quanh năm, đầy tiềm năng để có thể phát triển về kinh tế, đặc biệt là rất
thích hợp cho phát triển nghề trồng hoa kiểng.
* Điều kiện tự nhiên
Tân Quy Đông là một trong 9 xã, phường của thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh
Đồng Tháp. Hiện nay toàn phường được chia làm 4 khóm: Tân Huề, Sa
Nhiên, Tân Mỹ, Tân Hiệp.

- Diện tích đất tự nhiên là 667.92 ha, trong đó: Diện tích đất nông
nghiệp là 387 ha:
+ Diện tích trồng hoa kiểng: 190,3 ha với 1238 hộ ; 4236 lao động
+ Diện tích trồng rau màu: 5,5 ha.
+ Diện tích trồng cây ăn trái: 32,4 ha
+ Diện tích trồng lúa: 150 ha
+ Diện tích ao hầm: 8,0 ha
+ Diện tích trồng sen: 0,8 ha [UBND phường Tân Quy Đông]
- Địa giới hành chính của phường
+ Phía Đông giáp sông Tiền và phường 3
+ Phía Tây giáp xã Tân Quy Tây và xã Tân Dương.
+ Phía Nam giáp sông Sa Đéc, phường An Hòa và phường 1

+ Phía Bắc giáp xã Tân Khánh Đông (phụ lục 1)
* Địa hình:
Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ, nên có địa hình tương đối bằng
phẳng, độ cao trung bình từ 0,9 m đến 1,2 m so với mực nước biển, hàng năm
vào mùa lũ có nơi còn bị ngập, địa hình của phường bị chia cắt bởi hệ thống
kênh rạch nên hạn chế cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị.
* Khí hậu:


15

Phường Tân Quy Đông có đặc điểm khí hậu chung với thị xã Sa Đéc,

nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, gần xích đạo, quanh năm nóng ẩm, lượng
mưa thấp, mang đặc điểm của đồng bằng Nam bộ, có hai mùa: mùa mưa bắt
đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa chiếm 85- 90% lượng mưa cả năm.
Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa tương đối
thấp.
* Gió: Có hai hướng gió chính:
+ Gió mùa Tây nam từ tháng 4 đến tháng 11, tốc độ bình quân 2,5 - 3
m/s, mang theo nhiều hơi nước nên thường có mưa và giông lớn, trong cơn
giông tốc độ gió có thể lên tới 22,6 m/s hoặc có gió giật mạnh, có thể gây ảnh
hưởng đến nhà cửa, công trình.
+ Gió mùa Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, khô và lạnh làm
tăng tốc độ bốc hơi nước và lượng mưa giảm rõ rệt.

* Nhiệt độ:
Nhiệt độ của phường Tân Quy Đông ổn định, cao đều trong năm, biên
độ nhiệt giữa ngày và đêm tương đối lớn, nhiệt độ cao nhất là 37,2 0C, nhiệt
độ trung bình là 270C, nhiệt độ thấp nhất là 18,5 0C. Thời kỳ nóng nhất trong
năm kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4 và tháng lạnh nhất từ tháng 12 đến tháng
1 năm sau.
* Mưa:
Lượng mưa bình quân năm: 1499 mm
Lượng mưa cao nhất: 1911 mm
Lượng mưa thấp nhất: 409 mm
* Bốc hơi :
Lượng bốc hơi hàng ngày: 3,3 mm

Lượng bốc hơi bình quân năm: 1383 mm [51,9]
* Độ ẩm:


16

Độ ẩm trung bình cả năm là 78 - 82% từ tháng 5 đến tháng 11; các tháng
mùa mưa có độ ẩm rất cao khoảng 90 - 93% cộng với mưa lớn đã làm bão
hòa về nước; mùa khô, không có mưa độ ẩm thấp nhất khoảng 2 – 3
mm/ngày, trong các tháng mùa khô khoảng 4 - 5 mm/ngày.
* Thủy văn:
Chế độ thủy văn trên địa bàn phường Tân Quy Đông chịu sự tác động

của chế độ thủy triều biển Đông, dòng chảy sông Tiền, sông Sa Đéc và mưa
tại chỗ, hệ thống kênh, rạch dày đặc, lượng mưa dồi dào, phân thành hai mùa
là mùa mưa lũ và mùa kiệt
+ Mùa nước lên ( mùa nước ngập)
Đáng chú ý nhất từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, lũ từ thượng nguồn sông
Mê Kông đổ về cộng với mực nước của đỉnh triều lẫn chân triều đều dâng
cao, do biên độ triều chênh lệch thấp cộng với khả năng thoát lũ kém. Địa
bàn của phường Tân Quy Đông chịu ảnh hưởng chung của thị xã Sa đéc
thuộc vùng ngập lũ của Đồng bằng Sông Cửu Long. Thời gian ngập lũ thuộc
vào đỉnh lũ, khả năng nước lụt dâng cao và thoát lũ, đồng thời chịu tác động
của thủy triều và mưa tại chỗ, lũ thường duy trì trong các tháng (7, 8, 9, 10)
và nước lụt rút nhanh sau thời gian ngập.

+ Mùa kiệt: mùa kiệt bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 6 trùng với mùa khô,
mực nước đỉnh triều gần như thấp hơn mực nước cao trung bình của phường,
mực nước thấp nhất vào khoảng tháng 4.
* Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên đất :
Qua kết quả khảo sát bản đồ đất của thị xã Sa Đéc thì phường Tân Quy
Đông có một nhóm đất chính là nhóm đất phù sa, bao gồm ba loại đất: đất
phù sa gley; đất phù sa có tầng loang lỗ đỏ vàng và đất phù sa lập líp. Những
loại đất này có độ phì nhiêu lớn, hàm lượng hữu cơ giảm dần ở các tầng sâu,


17


đạm khá, nghèo lân và kali cao. Nhóm đất này thích hợp cho việc trồng lúa,
cây ăn trái và xây dựng nhà ở, công trình công cộng, rau màu và đặc biệt là
các loại hoa kiểng.
- Tài nguyên khoáng sản: Đến nay, chưa phát hiện các nguồn khoáng
sản trên địa bàn của phường Tân Quy Đông.
- Đất đai được phù sa bồi đắp hàng năm, có nguồn nước ngọt dồi dào
tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng và chăm sóc hoa kiểng. Bên cạnh
đó với hệ thống kênh, rạch chằng chịt, hệ thống thủy lợi thuận lợi cho việc
tiếp nhận các nguồn nguyên vật liệu từ các nơi khác đến phục vụ cho việc
trồng hoa, kiểng và vận chuyển hoa kiểng khi thu hoạch. Thế mạnh của
phường là thương mại, dịch vụ và du lịch. [3, 4]

- Tài nguyên nước: phường Tân Quy Đông có nguồn nước ngọt dồi dào,
được cung cấp từ sông Sa Đéc qua hệ thống kênh rạch lớn, hầu như có nước
quanh năm, chất lượng tốt đảm bảo cho nhu cầu tưới các loại cây trồng, đây
là điều rất thuận lợi trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt của người dân.
- Khí hậu của phường tương đối ôn hòa, nhiệt độ cao đều trong năm
thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển nhiều loại cây trồng mà đặc biệt
là các loại hoa, cây kiểng.
1.2.3. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội phường Tân Quy Đông
1.2.3.1. Đặc điểm kinh tế
Hiện nay diện tích đất lúa phần lớn đã chuyển dần sang trồng rau màu
và trồng hoa kiểng. Bên cạnh đó, phường đang tiếp tục thực hiện chuyển đổi
cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp, củng cố rau màu và cây hoa

kiểng.
Điều đó cho thấy cơ cấu kinh tế của phường đã và đang chuyển dịch dần
theo hướng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; thương mại - dịch vụ; nông
nghiệp - hoa kiểng.


18

Với lợi thế của phường có khu công nghiệp, bến cảng, phát huy tiềm
năng hiện có, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các cơ sở chế biến
lương thực, thực phẩm, cơ sở gia công, cơ sở mua bán vật tư phục vụ cho sản
xuất hoa kiểng, các cơ sở dịch vụ khách sạn, nhà trọ,… góp phần quan trọng

trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời, tạo thêm nhiều
việc làm cho người dân ở phường.
Với nghề sản xuất hoa kiểng đã mang lại nguồn thu nhập kinh tế cao, tạo
cho người dân có đời sống ổn định, nên nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi từ
đất trồng lúa sang trồng các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao và
trồng các loại hoa kiểng.
Ở phường, những nghệ nhân trồng hoa kiểng đã và đang phát huy tinh
thần lao động cần cù, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, nhu cầu của nền kinh tế thị trường để ngày càng phát huy ngành nghề
truyền thống của địa phương. Tạo nơi đây thành khu du lịch cho khách tham
quan trong và ngoài tỉnh.
1.2.3.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội

Toàn phường có ba điểm trường mẫu giáo, tỷ lệ học sinh khá, giỏi hàng
năm đều tăng và phường đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi. Công tác giáo dục và đào tạo được đầu tư xây dựng, cơ sở vật chất
tương đối đầy đủ, khang trang.
Củng cố mạng lưới y tế, hiện nay, trạm y tế phường có 6 cán bộ, trong
đó có 6 đồng chí biên chế, gồm 1 bác sĩ, 2 y sĩ và 2 nữ hộ sinh, 1 điều dưỡng,
1 trung cấp dược. Số hộ sử dụng nước sạch trong phường là 85%, tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng 15,09%. Các chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt và
đảm bảo đầy đủ.
Về lĩnh vực hoạt động văn hóa:



19

Hiện nay, toàn phường có hai bưu điện văn hóa và 5 điểm dịch vụ
Internet; có 91,79% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, có 2/4 khóm đạt
chuẩn văn hóa; phường đã có 1 câu lạc bộ đàn ca tài tử; 95% hộ dân có
phương tiện nghe nhìn, phường có 1 sân bóng chuyền; 85% số hộ sử dụng
điện thoại. [3, 6]
Đối tượng thuộc diện chính sách: hiện có 21 gia đình thương binh, 74
gia đình liệt sĩ, 33 gia đình có công với cách mạng.
Phường Tân Quy Đông không chỉ nổi tiếng với làng nghề hoa kiểng mà
cùng với nhân dân Đồng Tháp, cùng với người dân Nam Bộ, người dân Tân
Quy Đông đã viết nên những trang sử hào hùng trong hai cuộc đấu tranh giữ

nước. Ghi nhận những chiến công của làng quê Tân Quy Đông ngày
31/07/1998 Chủ tịch nước đã quyết định phong tặng danh hiệu “Anh hùng
lực lượng vũ trang” cho quân và dân phường Tân Quy Đông.
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp chính thức công nhận làng hoa kiểng
Tân Quy Đông là làng nghề truyền thống trồng hoa kiểng vào tháng 11/2007,
với việc công nhận này đã tạo điều kiện thận lợi cho việc đầu tư vốn, góp
phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động và thu
nhập kinh tế của từng hộ gia đình [3, 5], xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông
vững chắc, tạo điều kiện để phát triển các ngành nghề khác trong địa phương.
1.2.4. Dân số phường Tân Quy Đông
Dân số làng Tân Quy Đông có 4.913 người (1903) [32,18]. Theo thống
kê năm 2008 thì phường Tân Quy Đông có tổng số dân cư là 1807 hộ, với

8060 nhân khẩu, trong đó: nữ: 4093 nhân khẩu, nam 3967 nhân khẩu. [3, 4]
Dân số của phường được phân bố thành 4 khóm, tập trung chủ yếu ở
trung tâm phường và ven kênh, rạch, dọc theo các tuyến đường giao thông
chính.


20

“Miệt vườn” mà gần chợ, đầu mối từ Đông sang Tây, từ Bắc sang Nam
sông Tiền. Với vị trí địa lý đặt biệt như vậy, nên Tân Quy Đông từ xưa là cầu
nối giao lưu và tiếp nhận nhiều luồng văn hóa trong vùng. Vẫn là nông thôn ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng người dân ở đây không những có

những nét tiêu biểu cho “văn minh miệt vườn”, mà còn mang cả nét hiện đại,
sẵn sàng tiếp thu cái mới nhưng vẫn giữ được nét riêng của làng nghề, bản
sắc độc đáo của người nông dân vừa làm nông nghiệp, vừa làm thương
nghiệp và cả tiểu thủ công nghiệp. Đây là nét đặc trưng mà chỉ có ở phường
Tân Quy Đông.
Nghề trồng hoa kiểng ở Tân Quy Đông được trải qua nhiều thế hệ, được
vun bồi qua năm, tháng. Đây chính là nét đặc trưng của người dân nơi này.
Vì thế ở đây đã hình thành những con người trầm lắng mà sôi nổi; trên cái
nền chung của dân tộc, chân chất, sẵn sàng hy sinh và cũng tràn đầy “tâm hồn
nghệ sĩ”, yêu nước, cần cù, yêu quý thiên nhiên, yêu quý cái đẹp. Họ chính
là những nghệ nhân của xã hội hôm nay. Qua thời gian và với vị trí địa lý tự
nhiên thuận lợi nhưng cũng còn nhiều khó khăn thử thách, tích tụ, kế thừa

truyền thống yêu nước của dân tộc, người dân Tân Quy Đông đã thể hiện ý
chí kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để cùng với nhân dân các
nơi trong tỉnh đóng góp phần mình vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và nhất là
trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tân Quy
Đông hôm nay đã từng giờ, từng phút thay đổi dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
sự điều hành và quản lý của chính quyền địa phương để vững tin bước vào
thế kỉ XXI.
1.3. Làng hoa kiểng Tân Quy Đông - cái nôi của làng hoa kiểng Sa Đéc



21

Trước đây làng hoa Sa Đéc nằm trong địa phận phường Tân Quy Đông,
nhưng hiện nay đã lan ra nhiều địa phương khác như Tân Quy Tây, Tân
Khánh Đông, Lai Vung và một số nơi ở thị xã Cao Lãnh. Nhưng tập trung
chủ yếu là ở phường Tân Quy Đông và xã Tân Khánh Đông. Vào đầu thế kỷ
XXI, làng hoa kiểng Sa Đéc có trên 100 năm phát triển với bốn thế hệ trồng
hoa. Nếu như năm 1975 ở Sa Đéc có khoảng 200 hộ trồng hoa kiểng với diện
tích vài chục ha, thì đến năm 2009 đã có trên 1500 hộ với 225 ha, thu nhập
bình quân trên 180 triệu đồng/năm. Diện tích trồng hoa kiểng chiếm 4,7%
diện tích nông nghiệp, nhưng lại chiếm 22% giá trị sản xuất nông nghiệp của
Sa Đéc. [7, 243]. Thị xã đang tiến hành xây dựng trung tâm sản xuất giống,

xây dựng chợ đầu mối hoa kiểng, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ sinh học,
giúp hoa kiểng Sa Đéc ngày càng vươn xa, khoe sắc, tỏa hương trên mọi
miền đất nước.
Làng hoa kiểng Tân Quy Đông đã trở thành niềm tự hào của người dân
nơi đây, hoa kiểng Tân Quy Đông có mặt ở khắp các tỉnh thành trong cả
nước. Làng hoa kiểng Tân Quy Đông là xứ sở của muôn loài “kỳ hoa dị
thảo”. Là một trong những trung tâm hoa kiểng của miền Nam với hơn 1200
hộ, trên 4000 lao động tham gia làm nghề, với khoảng 1.500 chủng loại
phong phú và đa dạng (phụ lục 2) làm cho hoa kiểng ở tân Quy Đông không
chỉ nổi tiếng trong vùng mà còn được nhiều tỉnh thành trong và ngoài nước,
thậm chí cả nước ngoài đều biết đến. Làng hoa kiểng Tân Quy Đông là một
nơi có truyền thống trồng hoa kiểng, nghề sản xuất hoa kiểng được duy trì

qua năm thế hệ. Khi cánh én bay về báo hiệu mùa xuân đến, cũng là lúc làng
hoa kiểng Tân Quy Đông bước vào hội. Từng đoàn xe tải, ghe, xuồng tấp nập
đổ về đưa các loài hoa kiểng hối hả theo nhau chảy về thành phố Hồ Chí
Minh và các tỉnh bạn để khoe sắc, khoe hương trong những ngày Tết cổ
truyền của dân tộc. Chúng ta có thể thấy nơi đây có đủ các loài hoa kiểng quý


22

hiếm có những cây có tuổi thọ hàng trăm năm và có những loại cây rất bình
dị, gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân lao động như sung, si, mai
khế, cau cùm rụm … và qua bàn tay khéo léo, tài hoa, sự cần mẫn, kết hợp

với một tâm hồn nghệ sĩ, đã trở thành những cây kiểng quý có hình dáng đẹp,
lạ. Nơi đây - ngôi làng có bốn mùa xuân, bất cứ tháng nào trong năm chúng
ta cũng đều có thể ngắm thỏa thích cả một rừng hoa với đủ màu sắc, hương
thơm. Đặc biệt nơi đây còn giữ khoảng 50 giống hoa hồng như: hồng nhung
đỏ thắm mượt mà, hồng Gờ-ra-da màu tím sen, hồng Cơ-lê-ô-bat màu hồng
phấn, hồng Mac-ca-ra màu cam, hồng Mec-sai màu trắng, hồng Công-phiđan màu vàng hột gà, hồng Cô-kêt màu gạch tôm, hồng Phot-ti-ni trong đỏ
màu vàng, hồng Ê-li-da-bet phơn phớt, …
Hoa kiểng Tân Quy Đông không chỉ khoe màu sắc, hương thơm cho đời
mà hoa kiểng còn dùng để trang trí nội thất, cơ quan, công sở, công trình văn
hóa, nhà ở tạo cảnh quan cho công viên, khu công nghiệp... Ngoài ra, một số
loài còn có dược tính dùng để chữa bệnh cho con người như cây Trinh nữ
hoàng cung, Ngũ gia bì, Đỗ trọng...

Khách sành điệu trong nghệ thuật chơi hoa kiểng khá quen thuộc với địa
danh Tân Quy Đông – một làng quê hiền hòa, nằm nép mình bên bờ sông
Tiền quanh năm lộng gió có nhiều phù sa, đón ánh nắng mặt trời. Phù sa sông
Tiền là nguồn sữa mẹ, cùng bàn tay và tâm hồn nghệ sĩ của các nghệ nhân đã
ươm mầm, nuôi dưỡng và tạo dáng cho nhiều loài hoa kiểng nơi đây có giá
trị như một tác phẩm nghệ thuật góp phần tô đẹp cho đời.


23

Chương 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

CỦA LÀNG HOA KIỂNG TÂN QUY ĐÔNG
2.1. Tổng quan tình hình sản xuất, kinh doanh hoa kiểng trên thế giới,
trong khu vực Châu Á, Đông Nam Á và Việt Nam
Thực hiện quyết định số 229/QĐ.UB-NĐ.HC ngày 30/12/2008 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc duyệt Đề án phát triển hoa, cây kiểng,
cá cảnh tỉnh Đồng Tháp từ nay đến năm 2020, Sở Nông nghiệp và PTNT
giao các đơn vị nghiên cứu triển khai thực hiện các nhiệm vụ của ngành
Nông nghiệp thuộc lĩnh vực phụ trách của đơn vị, xây dựng kế hoạch thực
hiện trong giai đoạn 2009-2010 như sau:
2.1.1. Tình hình sản xuất, kinh doanh hoa kiểng trên thế giới
Thời gian qua, sản xuất kinh doanh hoa kiểng trên thế giới ngày càng
phát triển một cách mạnh mẽ. Kim ngạch mậu dịch thế giới về hoa kiểng tiếp

tục gia tăng. Theo thống kê của Trung tâm thương mại Quốc tế thì những
năm 50, thế kỷ XX kim ngạch mậu dịch hoa kiểng trên thế giới chưa đến 3 tỷ
USD, nhưng đến năm 1985 đã lên đến 15 tỷ USD, và tiếp tục tăng nhanh, đến
năm 1990 đã là 30,5 tỷ USD. Đến nay xấp xỉ 200 tỷ USD; trong đó, theo
đánh giá của giới chuyên môn hiện giao thương các sản phẩm hoa cắt cành
là hoạt động được mở rộng mạnh mẽ nhất trên toàn cầu, dự báo đến năm
2010, giá trị giao dịch sản phẩm này trên thị trường thế giới ước đạt 16 tỷ
USD, tăng 5 tỷ USD so với hiện nay.
Sản phẩm hoa kiểng đã trở thành loại hàng hóa có khối lượng lớn trong
mậu dịch quốc tế nhưng do sự chênh lệch về trình độ khoa học kỹ thuật, sự
khác biệt về điều kiện môi trường sinh thái nên mỗi nước có tốc độ phát triển



24

hoa kiểng khác nhau. Trước năm 1990, sản xuất hoa kiểng thế giới chủ yếu
tập trung ở Châu Âu, Mỹ, Nhật. Điển hình là Hà Lan năm 1991 đã có 33.000
ha hoa kiểng; trong đó hơn phân nửa được trang bị nhà kiếng, đã đưa tổng
doanh thu xuất khẩu của nước này đạt 4,6 tỷ USD/năm. Nước Anh cũng được
coi là nơi sản xuất và là thị trường lớn của thế giới với doanh số mỗi năm 1,2
tỷ USD.
Mỹ đóng vai trò lớn nhất trong thương mại hoa, cây kiểng. Năm 1985 số
lượng thương mại của toàn cầu về các loài lan là trên 3 triệu cây, và lan rừng
cũng đã chiếm khoảng một phần hai số lượng.

Thị trường Châu Âu ưa chuộng các loại lan thích nghi được khí hậu ôn
đới như Cymbidium, Phalaenopsis và Cattlera. Riêng kim nghạch nhập khẩu
hoa lan của EU đạt tới 2,1 triệu Euro năm 2000.
Hiện nay, EU là thị trường tiêu thụ trên 50% lượng hoa của thế giới.
Nhiều quốc gia thuộc EU có mức tiêu thụt hoa cắt cành bình quân đầu người
tương đối cao.
Hà Lan là quốc gia có mức tiêu thụ hoa bình quân đầu người cao nhất
trong khu vực, kế đến là Anh, Đan Mạch và Bỉ…
Hiện nay, các nước đang phát triển đang phát huy lợi thế và giá lao động
thấp cũng như khí hậu, đất đai để phát triển nghành hoa kiểng.
Israel coi hoa kiểng là một ngành kinh tế mũi nhọn trong sản xuất nông
nghiệp, với 2.800 ha, chiếm 0,65% diện tích canh tác nhưng tỷ trọng lại

chiếm 8% tổng thu nhập của ngành. Xuất khẩu hoa mỗi năm 240 triệu USD,
chiếm 20% tỷ trọng sản xuất nông sản.
Các nước Châu Phi cũng đang đẩy mạnh phát triển ngành hoa kiểng.
Tanzania năm 1997 xuất khẩu sang thị trường Châu Âu 11,5 triệu USD/năm,


25

tăng 75% so với những năm trước đó. Kenya xuất khẩu 110 triệu USD, chủ
yếu là xuất sang thị trường Châu Âu. [50, tr. 2-3]
2.1.2. Tình hình sản xuất, kinh doanh hoa kiểng của các nước trong khu
vực Châu Á và Đông Nam Á

Nhật Bản được đánh giá là một trong những nhà sản xuất, nhập khẩu và
tiêu thụ hoa cắt cành đứng thứ ba trên thế giới sau Hà Lan và Mỹ.
Theo thống kê, hiện nay ngoài lượng hoa mà thị trường nội địa cung
cấp, hàng năm Nhật Bản còn nhập khoảng 500 triệu USD hoa ngoại. Con số
này được dự báo sẽ còn tăng mạnh trong những năm tới (khoảng 5 – 7%).
Hoa nhập khẩu chủ yếu là những loại không được trồng phổ biến ở Nhật hoặc
rất khó trồng vào vụ Thu - Đông như: Phong lan Thái và Singapore, protea và
hoa sáp ong NewZealand và Australia, cúc Đài loan, loa kèn và tuylip Hà
Lan…
Trung Quốc đang là nước sản xuất và tiêu thụ hoa cắt cành lớn nhất thế
giới với sản lượng hàng năm chiếm 1/3 tổng sản lượng hoa thế giới. Nước
này đang đề ra kế hoạch phấn đấu đến năm 2010 tăng lượng hoa hồng cắt

cành xuất khẩu đạt 4 tỷ cành, tăng 2 tỷ cành so với năm 2000.
Ấn Độ hiện đứng thứ 23 trên thế giới về kinh doanh sản xuất hoa với
khoảng 500 triệu tấn hoa cắt cành, tương đương gần 800 triệu USD. Theo
thống kê, hiện nay, Ấn Độ chiếm gần 1% trong tổng 11 tỷ USD trị giá hoa
giao dịch toàn thế giới. Dự báo năm 2010, kim nghạch xuất khẩu hoa của Ấn
Độ sẽ đạt khoảng 1 tỷ USD.
Ngành trồng hoa của Đài Loan cũng đang tăng nhanh, tốc độ 15 - 20%.
Diện tích trồng hoa hiện nay là 13.000 ha, doanh thu 400 triệu USD/năm,
trong đó giá trị xuất khẩu hàng năm ước tính 61 triệu USD, chủ yếu là hoa
lan Hồ Điệp (Phalaenopsis), đại diện cho 90% cả về số lượng và thu nhập của



×