Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

HUYỀN THOẠI KHỦN TINH MỘT TÁC PHẨM ĐẶC SẮC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.17 KB, 13 trang )

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

HUYỀN THOẠI KHỦN TINH MỘT TÁC PHẨM ĐẶC SẮC CỦA CỘNG ĐỒNG
DÂN
TỘC
THÁI
VIỆT
NAM

Trong kho tàng văn học dân gian của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói
chung và dân tộc Thái nói riêng, có truyện thơ “Xống chụ xon xao” từng được ví như một
“Truyện Kiều của dân tộc Thái” và đã được nhiều người biết đến, tuy nhiên khi nói đến
huyền thoại về Khủn Tinh thì từ trước đến nay cho dù đã có một vài bài nghiên cứu cá
biệt, xu hướng chung vẫn coi huyền thoại về Khủn Tinh như là một truyện thơ đơn thuần
của người Thái. Với góc độ nhìn nhận như vậy, Huyền thoại Khủn Tinh chưa bao giờ thể
hiện được những giá trị độc đáo của mình và do vậy không nhận được sự quan tâm đầy
đủ
theo
nghĩa
tương
xứng
với
vai
trò
vốn

.
Nghiên cứu về các huyền thoại là một công việc còn khá mới mẻ ở nước ta. Trên tạp
chí “Văn hoá nghệ thuật” số 6 năm 2005, trong bài viết Cách đọc huyền thoại trong bối
cảnh lý thuyết thế kỷ XX giới thiệu về tác phẩm Thi pháp của huyền thoại của E.M.


Meletinsky, PGS- TS Trần Nho Thìn đã phải viết: “Chủ nghĩa hiện thực vẫn được chúng
ta xem là thành tựu cao nhất của văn học nên chúng ta thường có nhận thức không đầy
đủ, thiếu khách quan khoa học về huyền thoại...”(trang 110). Ít lâu sau, cũng trên tạp chí
“Văn hoá nghệ thuật” (số 8 năm 2005), tiến sĩ Đỗ Lai Thuý có nêu trong bài Phương
pháp phê bình thi pháp học, khi đề cập đến vai trò của vô thức: “Đặc biệt, khi phát hiện
được vai trò quan trọng của vô thức trong sáng tạo nghệ thuật, người ta thấy trong tạo
phẩm không chỉ có những chủ ý của nhà văn, mà còn có những điều nằm ngoài ý định mà
ngay nhà văn cũng không biết đến hoặc không kiểm soát nổi.” (trang 12) ( Điều này cũng
đúng và có vai trò hết sức quan trọng đối với các văn bản thuộc về thể loại huyền thoại).
Bản thân cuốn sách Thi pháp của huyền thoại và những ý kiến khác trong những bài viết
của các bậc học giả trên đây đã mở ra con đường để có thể tiếp cận với các giá trị bấy lâu
nay còn tiềm ẩn trong Huyền thoại Khủn Tinh. Một trong những giá trị đó thể hiện ở việc
tâm thức của cộng đồng đã xây dựng nên hình tượng An Ca (xem Sầm Văn Bình“Huyền thoại Khủn Tinh- những cứ liệu bên ngoài một lễ hội”- T/c Văn hoá Nghệ An số
71, ngày 25/2/2006, tr.13). Theo đó, An Ca mang trong bản thể mình ba dòng huyết
thống: người- tiên- rồng. Đây là một “mảnh văng ra” từ huyền thoại về Lạc Long QuânÂu Cơ được biết đến trên suốt các chặng đường đấu tranh lâu dài trong lịch sử của toàn
dân tộc. Có thể nói rằng, chưa cần kể đến các giá trị khác, chỉ riêng một điều này thôi
cũng đủ tạo nên giá trị đặc sắc cho Huyền thoại Khủn Tinh, bởi khó có thể tìm được cách
xây dựng hình tượng như vậy trong những câu chuyện huyền thoại của các dân tộc khác
trên
đất
nước
Việt
Nam.
Một cốt truyện mang nội dung của huyền thoại được phát triển theo những quy luật
riêng liên quan đến lý thuyết của huyền thoại. Câu chuyện huyền thoại có không gian
riêng, có tư duy và sự vận động riêng; nó chú trọng đến việc phục vụ cho tâm thức của cả
cộng đồng và do đó, nó không chấp nhận một vài áp đặt về mặt khoa học hoặc lịch sử...
Một ví dụ: trong không gian của huyền thoại, Promete bị thần Dớt trừng phạt bằng cách
trói vào một mỏm đá trên đỉnh núi Capcadơ để ngày ngày bị một con kền kền lớn đến mổ
moi móc tim gan...Theo lý thuyết thì cho đến tận bây giờ Promete vẫn đang tiếp tục phải

chịu đựng hình phạt đó. Tuy nhiên, du khách nào cũng biết rõ mười mươi là việc lặn lội
leo trèo lên đỉnh núi với mục đích nhìn thấy Promete là một việc vô nghĩa lý, bởi vì du
khách đang sống trong không gian thực. Hoặc như, tâm thức cộng đồng của toàn thể nhân


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận đối với việc bàn luận xem việc bà Âu Cơ đẻ ra
cái bọc trăm trứng là có hay không... Hoặc như, huyền thoại Mị Châu- Trọng Thuỷ có
mối liên quan với dấu tích Loa thành nổi tiếng...Trong lịch sử hình thành của một câu
chuyện huyền thoại, luôn có hiện tượng tồn tại một thực thể/ biểu tượng làm cầu nối qua
lại giữa không gian thực và không gian huyền thoại; và trong công việc nghiên cứu về
huyền thoại thì phải biết chấp nhận những điểm dừng thích hợp. Sở dĩ phải nói khá rườm
rà về điều này là do Huyền thoại Khủn Tinh có phần liên quan với nhân vật Tạo Nọi (có
cuộc sống trong không gian thực) được phụng thờ ở Mường Ham (Châu Cường, Quỳ
Hợp). Chắc hẳn nhiều người đồng ý rằng, trong hoàn cảnh mập mờ lẫn lộn và không
phân định rõ sự đúng sai thì việc phủ nhận đối với một mối quan hệ là công việc dễ dàng
và đơn giản nhất, ít gặp rắc rối nhất. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn sau đây có thể giúp cho
việc tiếp cận để có cơ sở kết hợp hai trường không gian (thực và huyền thoại), hay nói
cách khác- nhân vật Tạo Nọi sẽ là một thực thể kết nối: “...cơ sở huyền thoại được bảo
tồn cả trong các hình thức cổ điển của sử thi. Nhưng các hình thức cổ điển được phát
triển trong điều kiện thống nhất các dân tộc (...), đã hoàn thành những bước tiến quan
trọng trên con đường giải huyền thoại hoá. Khác với sử thi cổ đại, chúng dựa vào các
truyền thuyết lịch sử và trước hết chúng sử dụng ngôn ngữ của truyền thuyết lịch sử để kể
về các sự kiện của quá khứ xa xăm, nhưng không phải là quá khứ huyền thoại, mà là quá
khứ lịch sử, hay đúng hơn là quá khứ dã sử. Sự khác biệt chủ yếu với sử thi cổ đại không
phải ở mức độ xác thực của câu chuyện, mà là ở chính “ngôn ngữ” kể chuyện được
truyền đạt thông qua các thuật ngữ của nhân chủng học, chứ không phải là của vũ trụ học,
được giải thích bởi các tên địa dư; các tên gọi lịch sử (...) được xây dựng theo kiểu thời

gian huyền thoại, thời gian khởi thuỷ và thời gian hành động tích cực của các bậc tiên tổ
tiên định trật tự kế tiếp,...” (E.M. Meletinsky- Thi pháp của huyền thoại, nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 374). Người viết bài này muốn nói thêm rằng, việc tìm
cách kết hợp hai trường không gian là việc khó khăn nhưng không phải là không thể làm
được. Điểm mấu chốt ở đây là phải có các bước tiếp cận với lý thuyết về huyền thoại
(như đã nói ở trên đây, lý thuyết này còn rất mới mẻ), tiếp cận với những hướng tư duy
nguyên thuỷ vốn là tiền đề cho việc hình thành nên nội dung của một câu chuyện huyền
thoại... Thời gian gần đây, xuất hiện một số bài viết về huyền thoại Khủn Tinh, về nhân
vật Tạo Nọi, về địa danh Mường Ham. Một vài tác giả có thể là do chưa có điều kiện tiếp
cận để tìm hiểu những lý thuyết mang tính cập nhật trong việc nghiên cứu huyền thoại (cả
ở trong nước và cả trên thế giới), hoặc bởi lý do khác, nên chưa có đủ sự tự tin để khai
thác mảnh đất mỡ màu của Huyền thoại Khủn Tinh, từ đó mà chưa hội đủ được tính
thống nhất trong quan điểm chung về các giá trị đặc sắc của Huyền thoại Khủn Tinh.
Những giá trị này luôn tồn tại một cách khách quan trong bản thân của cốt truyện, trước
đây cũng như thế, bây giờ cũng như thế và mai sau cũng như thế.
…Với những giá trị về mặt huyền thoại, Huyền thoại Khủn Tinh sẽ được coi là một trong
những câu chuyện huyền thoại hay nhất của cộng đồng dân tộc Thái Việt Nam.
SẦM

VĂN

Tạp
chí
“Văn
Số 84 ngày 10/ 9/ 2006. Trang 12- 13.

Búi

tóc


BÌNH
hoá

của

Nghệ

người

An”

Thái


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

(Sầm Văn Bình)

BÚI TÓC CỦA NGƯỜI THÁI
Thưở trước, cả đàn ông và phụ nữ Thái đều có búi tóc, về sau đàn ông mới để tóc ngắn như
bây giờ. Búi tóc ở vị trí cao nhất, linh thiêng nhất trên cơ thể nên đã được coi là nơi trú ngụ của
hồn vía, được đặt ngang hàng với thể xác. Ở quê tôi (huyện Quỳ Hợp ), khi làm lễ buộc chỉ cổ
tay (hăng vẳn ) các thầy cúng thường phải có lời mời gọi tất cả các vía của thân thể, gồm ba
mươi vía ngụ trên búi tóc, chín trăm vía ngụ trong thân mình (xảm xíp mình vẳn cau, cau họi
mình láng vẳn), gọi như thế mới được coi là đầy đủ. Cũng từ quan niệm này mà người Thái có
tục kiêng đánh vào đầu, không xoa đầu trẻ con. Trong sinh hoạt hành ngày, khi cần phải với tay
lấy vật gì ở phía trên đầu người khác thì phải có lời xin phép trước; ngoài ra người ta cũng kiêng
việc đi qua dưới dây phơi quần áo; khi đội khăn, mũ, nón…ngoài tác dụng tránh nắng, giữ ấm,
còn có thêm tác dụng bảo vệ, che chắn cho các vía đang ngụ trên đầu.

Con gái Thái khi về nhà chồng mới phải búi tóc và búi tóc là sự tượng trưng cho niềm hạnh
phúc hôn nhân. Khi có người chẳng may chồng mất thì mới để xoã tóc, coi đó là dấu hiệu đau
buồn, tang thương. Ngày thường, trừ lúc chải đầu, gội đầu, hong tóc, nếu không có lý do gì đặc
biệt mà cứ để xoã tóc, người đàn bà sẽ bị cho là vô ý thức, bị coi khinh, rẻ rúng.
Có một búi tóc đẹp và đầy đặn là niềm kiêu hãnh của đôi vợ chồng và cả thông gia hai họ, bởi
mái tóc cũng được coi là lộc của chủ nhân, là phúc của tổ tiên. Lời chúc sức khoẻ và sống lâu
dành cho người cao tuổi thường dùng câu “lặp cau dù đỉ, vỉ hủa dù thau” (vuốt búi tóc bình an,
chải đầu nhàn hưởng thọ).Người phụ nữ Thái chăm chút cho mái tóc của mình từ lúc bước vào
tuổi dậy thì.
Thời gian gần đây, ngoài việc quan tâm đến mái tóc của mình, người phụ nữ Thái còn phải quan
tâm đến cả…luật giao thông. Khi tham gia giao thông bằng phương tiện mô tô xe máy trên
những đoạn đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, người phụ nữ Thái phải tạm thời sổ búi tóc
ra kẹp sau gáy để có thể đội được mũ bảo hiểm.Âu đó cũng là cách thức khả dĩ hợp tình hợp
lýđể cho búi tóc từ thời xa xưa của người Thái hoà nhập vào cuộc sống hiện đại hôm nay.

SẦM VĂN BÌNH
Địa chỉ: Sầm Văn Bình, Yên Luốm, Châu Quang, Quỳ Hợp, Nghệ An.


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

MỘT SỐ KHÁC BIỆT TRONG NGÔN NGỮ NGƯỜI THÁI NHÓM TÀY- MƯỜNG
(NGHỆ AN) SO VỚI NGÔN NGỮ THÁI CỦA CÁC NHÓM KHÁC, CÁC ĐỊA
PHƯƠNG KHÁC(Sầm Văn Bình)

.. tìm hiểu và giới thiệu về những điểm khác biệt trong ngôn ngữ người Thái thuộc nhóm
Tày Mường (Táy Mướng) ở Nghệ An so với các nhóm khác..
MỘT SỐ KHÁC BIỆT TRONG NGÔN NGỮ NGƯỜI THÁI NHÓM TÀY- MƯỜNG (NGHỆ AN)
SO VỚI NGÔN NGỮ THÁI CỦA CÁC NHÓM KHÁC, CÁC ĐỊA PHƯƠNG KHÁC

Khi tìm hiểu và giới thiệu về những điểm khác biệt trong ngôn ngữ người Thái thuộc nhóm
Tày Mường (Táy Mướng) ở Nghệ An so với các nhóm khác, các địa phương khác, chúng tôi
muốn cung cấp cho những bạn đọc có mối quan tâm chung đến ngôn ngữ Thái, kể cả ở khu
vực Tây Bắc Nghệ An và ở các địa phương khác, có cơ hội hiểu thêm về tính chất chung nhất
trong sự chuyển hoá của ngữ âm tiếng Thái qua quá trình “vận động, giao thoa” đan xen
giữa các địa phương khác nhau, các giai đoạn phát triển khác nhau từ trong lịch sử. Từ đây
sẽ có thêm những điểm nhấn về sự hoà đồng và hiểu biết về đặc điểm ngữ âm trong cuộc
sống và sinh hoạt của người Thái ở các vùng khác nhau. Đối với công việc nghiên cứu liên
quan đến ngôn ngữ Thái nói chung, cũng sẽ tránh được quan điểm phiến diện, một chiềuđôi lúc có thể gây nên sự phản cảm trong tâm lý của một nhóm cụ thể nào đó. Mặt khác, khi
được tiếp cận với các văn bản cổ được người xưa ghi chép bằng các hệ chữ Thái khác nhau,
trong một mức độ nhất định cũng cho phép đạt được sự ghi nhận, nắm bắt nội dung dễ
dàng và nhanh chóng hơn.
Dưới đây là kết quả của một số tìm hiểu ban đầu, xin được đưa ra để bạn đọc cùng tham
khảo (các từ không đặt dấu thanh điệu):
I. Chuyển hoá qua lại của phụ âm:
1, Phụ âm d- nh:
Nghệ
An
Nhao
Diêm
Da
Nha
Nhanh
Nhương
Nhan

Nhóm (địa
phương)
khác
Dao

Nhiêm
Nha
Da
Danh
Dương
Dan

Nghĩa tiếng Việt

Dài
Ngó, nhìn
Kết thúc
Bà nội
Ngắm
Bói áo
Dòng (nước)

v.v...
2, Phụ âm l- đ:
Nghệ
An
Đi
Lan
Đao
Lương


Nhóm (địa
phương)
khác

Li
Đan
Lao
Đương
Đơ

Nghĩa tiếng Việt

Đẹp, xinh
Cháu
Ngôi sao
Màu vàng
Đâu


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

v.v...
3, Phụ âm b- v, p- v:
Nghệ
An

Nhóm (địa
phương)
khác
Vi
Bi
Băng
Bao


Pi
Vi
Văng
Vao

Nghĩa tiếng Việt

Cái quạt
Cái lược
Vũng suối
Một loại ong

v.v...
II. Chuyển hoá qua lại của vần:
Vần i- ay và ua- ô:
Nhóm
(địa
phương
) khác
Phay
Chi
Lua
Khua
Chôn

Nghĩa tiếng
Việt

Vần


Nghệ
An

iay
uaô

Phi
Chay

Khô
Chuôn

Vần

Nghệ
An

ay- ai
au- o
apac
angăng
ângưng
anhinh
ôpôc
ônun
ôngung
ôi- ơi

pai

bo
Lạc

Nhóm
(địa
phươn
g)
khác
pay
bau
Lạp

Tang
(bơ)
Thưng

Tăng
(bơ)
Thâng


bạc
đến

phanh

phinh

Sưởi, hơ


Tôc

Tôp

Rơi

(manh)
hôn
Mông

(manh)
hun
mung

Con ruồi

(hay)

(hay)

Chõ

Lửa
Cái dùi
Đuốc
Cái cầu
Biện, sửa

v.v...
III. Biến đổi vần:


Nghĩa tiếng
Việt

Bên, phía
Không
Kéo (đt)
bướm

Nhìn, trông
hông


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

ưa- ơ
ưaươc
ucưc
iêueo
ia- e
ăngong
iaưa
êmim
ươiơi
aư- ơ
êmên
ôi- oi
ôngong


mơi

Chươc
Ngươc
Hươc
Lưc

muôi
Bưa
Chưa
Ngưa
Hưa
luc

nhỏ
Con bướm
Sợi dây
Con rồng
hàm (răng)
Con, con cái

đeo

điêu

Một, độc

xia
bong


xe
Băng

Mất (rồi)
ẩng

hia

Hưa

Thuyền

tim

Têm

đầy

ơi

ươi

Chị gái


Xên

Baư
Xêm


Lá cây
Dây

moi
hong

Môi
Hông

Nhìn
gọi

v.v...
IV. Biến đổi qua thành ngữ:
Thành ngữ chung

Nghĩa
tiếng
Việt
Dài
đẹp, xinh
Của cải
Súng
Trong trẻo, rõ
Kêu, gọi
Thăm viếng

Nhao- hi
đi- ngam (am)
Chương- hong

Khung- ông
Xơ- xong
Hong- hiêc
Dam- dư
v.v...
V. Biến đổi phụ âm:

Phụ
âm

Nghệ
An

h- t
v- ng
h- l

tat
Nghên
lon

Nhóm
(địa
phươ
ng)
khác
hat
Vên
hon


Kh- h

hong

khong

Nghĩa tiếng
Việt

Thác nước
Ngày
Thường,
hay
Của cải


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

v- p
Ngnh
p- ph
Ch- x
v- ph
t- ch

pi
nhin

vi

nghin

Cái quạt
Nghe thấy

Phăt
xam
phen
Ta nai

Quật, giũ
Hắt hơi
Hơn, nhất
Bên ngoại

Th- đ
d- l

điêu
Liên

Păt
cham
ven
Cha
nai
Thiêu
Diên

Cái que

Xếp, ken

v.v...
VI. Biến đổi nghĩa:

Nghệ An

cum
Dươc,
diêc
Hôm
Măn
nhanh
Lang păt
Tâng
Phươn
hoc
Châm
Xi la
chang
moc

Măn
dan
Chăp
chiên
v.v...

Nhóm
(địa

phương)
khác
hen
e

Phù hộ, độ trì
Muốn

beo
Lâng
Bâng
Lôc xang
canh
pan
ep
ôt
Chăc chi
Chưt
Mươi
cong
khay
cham
Xiêm ca

Lừa, dối
Thường hay
Ngắm nghía
Cọn nước
Và, với
Mâm

Học tập
Chậm chạp, trễ
Rau thìa là
Nhạt
Sương
Dưới, bên dưới
Dầu, mỡ, béo
E ngại
Thằn lằn

Nghĩa tiếng Việt

Trong phần này, không loại trừ có một số từ đã bị Việt hoá và quá trình chuyển nghĩa
cũng đồng nghĩa với hành trình khôi phục nguyên nghĩa của các từ tiếng Thái. Công việc khôi
phục nguyên nghĩa của các từ tiếng Thái phụ thuộc rất nhiều vào ý thức bảo tồn của người
dân. Một thực tế rõ ràng là công việc này không còn có cơ hội để có thể thu được kết quả
khả quan như mong muốn bởi những người Thái có thể biết được các từ nguyên nghĩa trong
tiếng Thái đa phần đã về “mường Then” với tổ tiên. Ngoài sự tuyên truyền cần phải có để
nâng cao nhận thức của cả cộng đồng người dân tộc Thái (và cả các dân tộc khác), có một
điều rất quan trọng là tìm lại các từ nguyên nghĩa trong các văn bản chữ Thái cổ còn lưu giữ
được. Bài viết này mới chỉ là sự khởi đầu bằng cách đưa ra một số biến đổi mang tính quy
luật nhất định trong quá trình biến đổi ngữ âm Thái từ địa phương này qua địa phương khác,
từ nhóm này qua nhóm khác. Mong rằng những thông tin này sẽ còn tiếp tục được bổ sung


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

và được hoàn thiện dần trong một tương lai không xa.


SẦM VĂN BÌNH
Địa chỉ: Sầm Văn Bình, Yên Luốm, Châu Quang, Quỳ Hợp, Nghệ An.
Email:

Khắp - một
(Cà Chung)

hình

thức

sinh

hoạt

độc

đáo

của

dân

tộc

Thái

Giới thiệu :

Khắp - một hình thức sinh hoạt độc đáo của dân tộc Thái

Dân tộc Thái có những hình thức sinh hoạt văn hoá rất phong phú như: các lễ hội cầu an, cầu
mưa, hội tung còn, lễ cơm mới, lễ hội xên lẩu nó, lễ cưới, lễ mừng nhà mới v.v... Trong đó
"khắp" là một hình thức sinh hoạt tinh thần không thể thiếu được. Trong đám cưới, người ta có
thể khắp với nhau kéo dài hết ngày này qua ngày khác, có khi kéo dài ba bốn ngày. Ở các ngày
lễ, Tết, lớp trai gái trẻ khắp với nhau thâu đêm suốt sáng... Cả người hát và người nghe đều say
xưa thán thưởng. Sau các cuộc vui như vậy, người ta thường không quan tâm đến bữa tiệc có
những gì, mà chủ yếu là bàn luận về những làn điệu khắp của người nọ, người kia. Vào trong
bản người Thái hiện nay, người dân không bỏ qua chương trình phát thanh khắp Thái của Đài
Phát thanh truyền hình Sơn La, thậm chí còn sốt ruột đợi chờ. Nhà nhà đều có dăm ba chục đĩa
video khắp Thái, thường mở mỗi khi có khách đến chơi nhà.
Khắp nghĩa thực là hát, nhưng còn có nghĩa là thơ ca, làn điệu dân ca, cách trình diễn thơ
ca... Những lời khắp có vần vè như thơ nhưng hơn nữa nó còn có nhạc điệu và tiết tấu rất cao.
Có lẽ ngay từ thời kỳ hái lượm, săn bắt, người Thái đã có những từ "thút phắc" (ngọn rau),
"đuông nó" (cái măng), "cản bon" (bẹ khoai nước)... Khi chuyển sang thời kỳ nông nghiệp lúa
nước định hình thì đã có các từ "pết" (vịt), "cáy" (gà), "sáy" (trứng), "xuân" (vườn)... Đó là
những từ sinh hoạt đơn giản rời rạc. Đến khi hình thành xã hội bản mường, người ta có thể ghép
những từ đơn lẻ đó thành các cụm từ như: "thút phắc, đuông nó"; "cản bon, hon nó"; "pết sáy,
cáy khăn"; "pết sáy, cáy xuân"... Những cụm từ như vậy càng ngày càng xuất hiện nhiều và dần
dà phát triển thành các câu thành ngữ, tục ngữ (quãm khống khái).
Khi xã hội bản mường phát triển thì xuất hiện những cụm từ gồm nhiều chữ hơn và có vế, có
vần như:
Khan pên pết nọi hã chí xo ép sáy
Khan pên cáy nọi hã chí xo ép khăn
Khan pên xao pun lan chí xo ép vãy tặc tuộng
(Là vịt con ta xin học đẻ trứng
Là gà con ta xin học gáy te te
Là gái lứa cháu xin học nói học chào)


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software

For evaluation only.

Phẵng quãm pết mẵn chí xia sáy
Phẵng quãm cáy mẵn chí xia xuôn
Nhẵng quãm nhuỗn năm chí xia pi nọng
(Nghe lời vịt sẽ mất trứng
Nghe lời gà sẽ mất vườn
Nghe lời xúc xiểm sẽ mất tình anh em)
Tộc té nọi kin khảu bái nó
Khó té nọi kin khảu bái bon
(Cực từ nhỏ ăn cơm trộn măng
Nghèo từ nhỏ ăn cơm trộn lá khoai nước)
Cùng với những câu có vế có vần đó người ta đã tạo cho nó những nhịp điệu, tiết tấu cho phù
hợp. Thế là khắp xuất hiện. Xã hội bản mường là điều kiện chín muồi để phát triển và định hình
các thể loại khắp, đồng thời phát triển mạnh thể loại kể chuyện dân gian bằng khắp.
Hiện nay có khá nhiều làn điệu khắp khác nhau tuỳ theo nội dung bài khắp, tuỳ thuộc ngữ
cảnh người khắp, tuỳ từng địa phương...

Theo nội dung: nếu là "Quan tô mương" hay "Táy pú xấc" (sử thi) thì không khắp mà chỉ
"lôn" tức đọc có làn điệu. Nếu là "Chương Han" (anh hùng ca) thì chỉ "khắp xư" nghĩa là ngâm
tương tự ngâm thơ trong tiếng Việt. Còn các tác phẩm như Xống chụ xon xao, Tản chụ Xiết
xương, Xcók xken thì khắp theo điệu "báo xao" hoặc "pãn lảu pãn khảu"...
Theo ngữ cảnh: khi đang trên rừng kiếm củi hái măng thì khắp theo điệu "khảm pá qua
đông" (hát qua rừng qua núi), khi đi trên đường thì khắp theo điệu "long tông" (hát đi trên cánh
đồng), khi trên mâm rượu thì khắp điệu "pãn lảu pãn khảu", khi múa vòng hay trên hạn khuống
thì khắp điệu "báo xao"...
Theo địa phương: mỗi địa phương sẽ có làn điệu khắp khác nhau như "khắp Tãy Muổi",
"khắp Tãy La", "khắp Tãy Lay"... Trong đó có thể gộp lại thành bốn nhóm chính như sau: Nhóm

Muổi - La - Mụak - Thanh: nhóm này mỗi mường có làn điệu rất khác nhau, nhưng vì người các

mường này có điệu nói tương tự nhau nên họ có thể hát chuẩn tất cả các làn điệu của mường
khác trong nhóm, người Mường La, Mường Mụak có thể hát chuẩn làn điệu "Tãy Muổi", "Tãy
Thanh" và ngược lại. Nhóm này thường đệm bằng các loại nhạc cụ: "pí pặp", "xlo", "pí tam lãy".
Nhóm Lay - Xo - Chiên: Nhóm này tuy có khác nhau đôi chút về làn điệu nhưng họ có thể hát
chuẩn giữa các làn điệu trong nhóm. Nhóm này thường đệm nhạc bằng "tính tẩu".
Nhóm Sang - Tấc: Nhóm này có hai làn điệu chính là "Tãy Sang" và "Tãy Tấc". Người trong
nhóm này có thể nghe và hát được làn điệu của nhau. Nhóm này thường đệm nhạc bằng "pí
thiu" (hoặc "pí khúi").
Nhóm Tãy Vạt: Người Mường Vạt thì có một làn điệu hát riêng theo giọng điệu nói của họ,
phù hợp với "kẽn la" (khèn bè) làm nhạc cụ đệm.
Ngoài ra thuộc về làn điệu khắp còn có khắp “đếch nọi” (hát đồng dao), khắp “ú u nọi” (hát


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

ru), khắp “một láo”, khắp “một ắn ni” (hát cúng), khắp “páo khuôn” (hát chiêu hồn)…
Nội dung khắp cũng rất phong phú, nhưng có thể chia làm hai loại chính là “khắp bắc” (hát
sáng tác mới), khắp “quãm pang chạu” (hát lời truyền thống). Khắp bắc là khắp trong các cuộc
hát vui, cuộc biểu diễn, đó là những bài thơ do các nhà thơ sáng tác mới để ca ngợi Đảng, ca
ngợi đất nước, con người… cũng có khi người khắp tự sáng tác cho phù hợp với ngữ cảnh. Khắp
lời truyền thống là lối khắp đang rất phổ biến hiện nay. Trong các cuộc khắp đối đáp, khắp giao
duyên, người khắp sẽ chọn những câu, đoạn trong “vốn kiến thức” của mình để khắp cho phù
hợp. Vốn kiến thức là những lời khắp trong các tác phẩm nổi tiếng như: Xống chụ xon xao, Khun
Lũ Nãng Ủa… hoặc các bài khắp truyền thống được lưu truyền trong dân gian. Các bài khắp
truyền thống hiện nay có đến hàng mấy trăm bài, chia làm các loại sau:

Tản chụ xống xương: là một khúc ca dài tự sự kể về nỗi lòng của kẻ đã uổng công vun đắp
cho một mối tình đằm thắm để đạt được một gia đình hạnh phúc. Nhưng mối tình đã bị phụ bạc,
tan vỡ. Người bị phụ tình đã thốt lên những lời oán trách đầy yêu thương.

Tản chụ xiết xương: là một hệ thống các bài hát để nói “kháy yêu” nhau theo kiểu tâng
người hạ ta. Người khắp thường khen đối phương về nhiều mặt như: xinh đẹp, khéo nói, khéo
tay, giàu sang… đồng thời cho mình là xấu xí, dốt nát, nghèo khó… đến mức quá đáng. Thực
chất là mượn chủ đề tình yêu để thi thố tài năng đối đáp văn học nghệ thuật giữa các cặp hát
đối.
Quãm Xcók - xken: Gồm các bài khắp về thách đố đùa vui thử trí thông minh đối phương.
Thường cô gái sẽ đưa ra những lời thách đố chàng trai phải làm được một điều nào đó thì mới
lấy được cô làm vợ. Có điều những lời thách đố đó là những điều bí hiểm, không có trong thực
tế. Chẳng hạn, cô muốn ăn măng tre mọc trên không trung, muốn ăn măng nứa mọc trên trời
cao, hay cô nàng đi đến một nơi nào đó trên cõi thần thiên đố chàng tìm được…
Ngoài ra khắp truyền thống còn có các thể loại “Tản ỉn tản mặc” (Lời tỏ tình), “Mỡi lảu”, “vảy
lảu” (Mời rượu, từ chối rượu), “Xống khươi, tỏn pạư (Tiễn rể, đón dâu), “Khắp tạ”, “khắp thãi
pon” (câu đố thông thường)…
Thanh niên Thái trước đây, ai cũng phải biết khắp, nếu không sẽ chẳng quen được với ai chứ
chưa nói đến yêu đương. Bởi lẽ trai gái đối đáp, giao duyên, với nhau đều bằng khắp hoặc vay
(đọc ngâm). Muốn làm quen, thăm hỏi, mời rượu, muốn từ chối rượu, muốn tỏ tình... đều phải
dùng hình thức khắp. Đây là một nét văn hoá rất đẹp của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Tuy
vậy trong vài chục năm gần đây, hình thức này đang bị mai một dần. Bởi vì hiện nay nhiều văn
hoá dân tộc khác (tiếng Việt, tiếng Anh...) được thể hiện bằng nhiều phương tiện hiện đại đã và
đang dần dần thay thế.
Để bảo tồn và phát triển nền văn hoá của mỗi dân tộc, chúng ta cần phải chú trọng quan tâm,
tạo điều kiện để dân tộc đó giữ gìn và phát triển nền văn hoá riêng của mình thông qua việc tạo
ra các phương tiện, chương trình hiện đại cho họ phát huy bản sắc dân tộc mình, như Luật di sản
văn hoá quy định “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt

động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể nhằm
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn hoá của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam”.
Cà Chung



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Ứng
(Sầm Văn Bình)

xử

với

rừng

thiêng

ỨNG XỬ VỚI RỪNG THIÊNG
Đối với người Thái, mỗi cánh rừng đều có một điều thiêng của nó: những cánh rừng
đó ở sát bên hàng rào của nhà, ở ven bản, ở đầu nguồn suối hay làm nên cả một thung lũng
rậm rạp… Người Thái sinh ra, lớn lên, đắm mình trong cái thiêng của rừng núi một cách hết
sức tự nhiên, như thể cái thiêng của núi rừng quê hương đã trở nên một phần không thể
tách rời trong bản thể và tâm linh của họ…
Vậy nhưng gần đây, những cái thiêng đó đang càng ngày càng bị mất đi. Sự xâm phạm
có thể đến từ bên ngoài, từ trên trời rơi xuống hoặc từ ngay ở một vài thành viên trong cộng
đồng. Dù với lý do gì thì sự mất mát cái thiêng của rừng đã và đang làm cho cộng đồng lo
âu, lúng túng và đôi khi nổi giận. Nơi này nơi khác, cộng đồng người dân đã bắt đầu có phản
ứng đối với những cách ứng xử làm phương hại đến rừng thiêng.
Theo đường tỉnh lộ 532 lên đến địa phận xã Châu Quang (Quỳ Hợp, Nghệ An), băng
qua cầu tràn Nậm Tôn và ngược thêm một đoạn, ta gặp ngay một khu rừng nghĩa địa (còn
hay được gọi là “rú mồ”) của người Thái. Đó là khu rừng nghĩa địa của Bản Yên trải về
hướng Bắc nối liền với khu nghĩa địa của Bản Phảy, diện tích cũng chỉ ngang bằng với các vạt

rừng “rú mồ” thông thường của các bản người Thái khác. Số cây cối ở tầm tuổi cổ thụ với
chiều cao vài ba chục mét không còn nhiều, dưới gốc cây phần lớn là các bụi rậm lúp xúp
đầy gai góc. Khi đi hết rừng người ta sẽ để ý thấy có một cây duối cổ thụ đứng đơn độc ở
phía bên trái đường đi, chiều cao cũng chỉ tầm chục mét. Đây là một cây duối “tồn cảo”theo cách gọi của người Thái. Nó có nhiệm vụ làm điểm tựa, che chở cho những cây “tồn
cảo” mà người ta đem theo lúc đưa tiễn người chết về nghĩa địa. Cây “tồn cảo” của người
Thái có dáng dấp na ná như một cây nêu, hoặc như một cái lọng nhỏ. Phần trên của nó
được trang trí bằng loại vải thổ cẩm riêng với các tua rủ dài xuống để treo các loại con vật
trang trí như ve sầu, chim chóc… đan bằng lạt dẻo, nhuộm bằng nhiều màu sắc khác nhau.
Theo quan niệm từ xưa, chỉ có người đàn ông thuộc dòng họ “quý tộc” trong xã hội người
Thái mới được phép “đem theo” cây “tồn cảo” khi về cõi chết với tổ tiên.
Trong lịch sử bản mường, không biết đã có bao nhiêu cây “tồn cảo” được nương mình
dưới bóng râm của cây duối cổ thụ. Cho đến một ngày gần đây, khi mà đường tỉnh lộ 532 được
nằm trong dự án làm đường nối Quốc lộ 7 với Quốc lộ 48. Người ta thấy rằng, vị trí đứng chân
của cây duối cổ thụ nằm bên trong phạm vi mốc lộ giới, vi phạm đến hành lang an toàn giao
thông. Vào một hôm, dân bản phát hiện ra có mấy thanh niên ở nơi khác đến hì hục đào đất
dưới gốc cây duối lên. Việc này vi phạm đến tập tục của dân bản đối với rừng nghĩa địa nên bị
bắt buộc phải ngừng ngay công việc để dân bản tra hỏi cho ra nhẽ. Đám người làm công đó nói
rằng họ chỉ làm theo lệnh của ông A. là người đã chi tiền ra thuê mượn họ. Ông A. được gọi đến
và ông giải thích rằng ông B. đã cho phép ông đào cây duối này để tập kết chung vào… bộ cây
cảnh cổ thụ mà ông đang chuẩn bị cho xe ô tô chở về xuôi. Ông B. tiếp tục giải thích thêm với
đại diện dân bản rằng, cây duối này nằm bên trong mốc lộ giới, vi phạm vào hành lang an toàn
giao thông nên trước sau gì cũng sẽ bị “giải toả” theo quy định của nhà nước. Đại diện của dân
bản nói, nhà nước làm đường rộng thêm ra thì dân bản đi lại cũng dễ dàng hơn; nếu vì an toàn
giao thông mà bắt buộc phải giải toả cây duối thì dân bản cũng đành phải ưng ý- nhưng sao lại
không báo trước cho dân bản biết để tiến hành làm lễ cúng cho cây, cho “rú mồ”… Nhỡ đâu vì


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.


chuyện này mà dân bản đau ốm, bệnh tật thì sao Việc động chạm đến phạm vi của rừng nghĩa
địa từ xưa đến nay vẫn luôn kiêng lắm đấy, v.v…
Cuối cùng thì dân bản cũng được biết, thực ra việc liên quan đến sự “giải toả” cây duối cổ
thụ này đã được những người có trách nhiệm thông báo cho UBND xã, và UBND xã đã có thông
báo đến tận xóm trưởng. Về mặt văn bản thủ tục nhà nước như vậy là không có gì là sai trái.
Tuy nhiên việc giải toả cây duối này lại có liên quan đến tâm linh, tín ngưỡng của cộng đồng.
Trong mỗi bản của người Thái đều có bầu ra một nhân vật để lo liệu chung các công việc hiếu hỉ
cho dân bản, người này được gọi là ông “chà việc” hay ông “xã hội”. Người được trao chức danh
này phải là người có uy tín trong cộng đồng, có sức khoẻ để đảm nhận công việc, và nhất là phải
thông thạo các thủ tục liên quan đến văn hoá, tâm linh cộng đồng. Khi có việc cưới hỏi, ông “chà
việc” có thể làm luôn vai trò của ông mối- hoặc chí ít thì cũng làm người đại diện cho ông mối.
Khi có việc tang, ông “chà việc” là người phân công, cắt cử cho mọi người trong bản; giám sát,
quản lý và đôn đốc mọi người làm đúng phần việc được giao sao cho cộng đồng dân bản thực sự
“trọn tình, vẹn nghĩa” với người nằm xuống… Do tính chất đặc biệt như vậy nên “nhiệm kỳ” của
một ông “chà việc” thường là rất lâu, có khi lên đến vài ba chục năm. Bởi dân bản bầu ra ông
“chà việc” xuất phát từ nhu cầu về tâm linh tín ngưỡng nên thường không có cả biên bản cuộc
họp lẫn dấu mốc thời điểm họp hành cụ thể. Và tất nhiên những ông “chà việc” không hề có tên
trong danh sách của bất cứ ban ngành đoàn thể nào, cũng không hề có “quyết định bổ nhiệm”
từ trên đưa xuống… Ở một vài xóm bản thuần dân tộc Thái, có trường hợp dân bản bầu luôn
xóm trưởng làm ông “chà việc”, như vậy cũng gọn việc. Nếu trong xóm có cả người Kinh và
người Thái cùng chung sống (trường hợp này khá phổ biến) thì khó mà làm như thế, nhất là khi
xóm trưởng lại là người Kinh…
Vậy là trong việc “giải toả” cây duối cổ thụ kia, ông “chà việc” phải lên tiếng, có nghĩa là cả
cộng đồng cùng lên tiếng. Rồi dân bản họp nhau lại, bàn bạc, đề xuất… rốt cuộc vẫn không biết
phải làm sao để bảo toàn được cây duối cổ thụ kia. Không ai muốn nghĩ đến việc bất đắc dĩ phải
đem rìu ra chặt hạ cây duối xuống. May thay, đơn vị nhận việc thi công con đường mới đã cho
đưa đến một chiếc máy xúc. Chỉ trong nửa buổi, chiếc máy xúc đã đào đất đưa được cây duối
lên, sau đó đem trồng vào vị trí khác cách đấy chưa đầy chục mét, nhưng không còn ảnh hưởng
gì đến hành lang an toàn giao thông. Việc này đã làm cho dân bản hài lòng. Không ai còn nghĩ
ngược nghĩ xuôi hoặc băn khoăn lo lắng. Cả lãnh đạo địa phương và lãnh đạo đơn vị thi công

cùng thở phào nhẹ nhõm.
Cây duối đã được đưa vào đứng ở vị trí mới và vẫn đảm đương nhiệm vụ che chở cho
những cây “tồn cảo” như trước đây. Giờ đây, đường tỉnh lộ 532 đoạn đi ven theo nghĩa địa “rú
mồ” đang được nắn thẳng lại thành một con đường mới thênh thang với chiều rộng gần ba chục
mét… Người dân cũng thấy được viễn cảnh của một cây cầu mới sẽ vươn mình qua dòng nước
Nậm Tôn quanh năm đục ngầu. Thế nhưng gần đây dân bản nhận thấy cây duối đã bị chết héo,
có thể do đợt nắng hạn lâu ngày vào dịp cuối hè vừa rồi, cũng có thể do cây duối đã “tuổi cao
sức yếu” không thích nghi được với dằm đất mới; hoặc cũng có thể cây duối cảm thấy thời gian
làm bạn với con đường tỉnh lộ 532 cũ kỹ đã quá đủ rồi… Thân cây duối đã khô, lá cây đã rụng
hết nhưng cây vẫn đang che cho một cây “tồn cảo” nương mình dưới gốc. Dân bản không quá
tiếc nuối về việc cây duối khô cành rụng lá, bởi họ cho rằng không phải cây duối đã “ra đi”, mà
đang hoá thân thành một cây “tồn cảo” mới. Đúng thế, họ đã bàn nhau tìm một cây khác trồng
xuống ngay dưới gốc cây duối. Hiện thì cây này mới chỉ cao trên một mét, còn rất nhỏ nhoi và
yếu đuối. Thế nhưng một trăm năm sau, cái cây nhỏ nhoi bây giờ lại trở thành cổ thụ; tiếp tục
toả bóng che cho những cây “tồn cảo” của người Thái…
Một cái cây đã được ươm trồng lại và tiếp tục phát triển nhờ vào niềm tin của dân bản vào


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

sự thiêng liêng của nó. Dân bản quê tôi cũng hiểu rằng, việc bảo vệ rừng thiêng của mình đã bắt
đầu từ một cái cây như thế

SẦM
VĂN
(Bản Yên Luốm, xã Châu Quang, Quỳ Hợp, Nghệ An

BÌNH




×