Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.16 KB, 25 trang )

CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Nội dung của chính sách giáo dục - đào tạo
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (Hiến pháp
1992 sửa đổi) thì phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo,
có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu
nước mạnh, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [49,
tr.211].
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và
hệ thống văn bằng.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; thực hiện
phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập
và các hình thức giáo dục khác.
Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản hồ Chí Minh,
các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm
giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng [49, tr.211].
Về thẩm quyền hoạch định chính sách GD-ĐT, theo quy định của Luật tổ
chức Chính phủ thì Chính phủ quy định chính sách cụ thể về giáo dục để đảm bảo
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu; ưu tiên đầu tư, khuyến khích các nguồn
lực để phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát hiện,
bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về
mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế


thi cử, hệ thống văn bằng, chức danh khoa học, các loại hình trường lớp và các


hình thức giáo dục khác; thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở và chống tái
mù chữ.
- Ở cấp Trung ương
Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục, đào
tạo; tham mưu cho Chính phủ xây dựng chính sách giáo dục theo quy định của
Luật tổ chức Chính phủ và Nghị định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2003 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT còn có trách nhiệm phối
hợp với các cơ quan khác trong việc hoạch định chính sách GD-ĐT.
- Ở cấp địa phương
+ HĐND cấp tỉnh quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp
GD-ĐT; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo cơ sở vật chất và điều kiện cho
các hoạt động GD-ĐT ở địa phương.
+ UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về GD-ĐT trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, UBND
tỉnh chịu trách nhiệm trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự
án phát triển GD-ĐT trên địa bàn tỉnh trình HĐND cấp tỉnh thông qua hoặc trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
+ Sở GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh. Xây dựng và trình UBND
cấp tỉnh quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển giáo dục ở địa
phương; tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ HĐND cấp huyện quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây
dựng mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy
hoạch chung.


UBND cấp huyện chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh về phát triển giáo
dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn huyện. Xây dựng các chương

trình, đề án phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện, trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp thông qua; tổ chức và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chương trình, đề án
giáo dục đã được phê duyệt; đảm bảo các điều kiện về ngân sách và biên chế giáo
viên, cơ sở vật chất và kỹ thuật để thực hiện theo quy định của pháp luật.
Phòng GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn huyện. Chủ trì xây dựng và trình UBND
cấp huyện các chương trình, đề án phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện; tổ chức
thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ HĐND cấp xã quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ
em vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học; tổ
chức các trường mầm non, thực hiện bổ túc văn hoá và xoá mù chữ cho những
người trong độ tuổi. UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo
thẩm quyền về giáo dục trên địa bàn xã.
1. 2. Nội dung của việc thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo
- Ở cấp Trung ương
Theo quy định pháp luật thì Bộ GD&ĐT là cơ quan tham mưu cho Chính
phủ trong quản lý nhà nước về GD&ĐT. Các Bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nhà nước quy định tại Nghị định của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của mỗi Bộ; đồng thời phối hợp với
Bộ GD&ĐT bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Các Bộ, ngành
tham gia ý kiến với Bộ GD&ĐT xây dựng chương trình khung giáo dục đại học,
trung học chuyên nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 5 của Nghị định số
43/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục. Cụ thể, trong việc thực hiện


chính sách GD-ĐT, Bộ GD&ĐT có thẩm quyền:
+ Chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở giáo dục trực thuộc thực hiện các quy định về
mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế
thi cử và quản lý hệ thống văn bằng theo quy định.

+ Thực hiện quản lý các cơ sở giáo dục trực thuộc về tổ chức, biên chế, nhân
sự, tài chính, tài sản và cơ sở vật chất theo quy định của pháp luật; bảo đảm các
điều kiện giảng dạy, học tập và các hoạt động khác của các cơ sở giáo dục trực
thuộc.
+ Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục
đối với các cơ sở giáo dục trực thuộc; xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo
đối với các cơ sở giáo dục trực thuộc theo quy định của pháp luật.
+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan, tổng hợp chỉ tiêu đào tạo và bồi dưỡng
hàng năm và đưa kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; chịu trách nhiệm về tính hợp lý, sự đáp ứng nhu cầu thực
tiễn và cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng dự toán,
phân bố, tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; xây dựng các chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức về tài chính - ngân sách; bảo đảm tài chính và thực hiện
thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách đối với lĩnh vực GD-ĐT theo quy định của
Luật ngân sách Nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan.
+ Phối hợp với Bộ Nội vụ thực hiện những quy định về quản lý biên chế
ngành GD-ĐT quy định tại Điều 8, Điều 9, Điều 11 của Nghị định số 71/2003/NĐCP ngày 19 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ và thực hiện quản lý viên chức sự
nghiệp giáo dục và đào tạo theo quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 49 của Nghị
định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển


dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà
nước.
- Ở cấp địa phương
+ HĐND cấp tỉnh giám sát việc thực hiện chính sách giáo dục trong phạm vi
tỉnh, đảm bảo cho công tác GD-ĐT phát triển đúng quy hoạch, kế hoạch và định
hướng của địa phương.
+ UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm về phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh,

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về GD-ĐT trên địa bàn tỉnh và có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
(1). Thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GD-ĐT
trên địa bàn tỉnh theo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh đã thông qua hoặc đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; bảo đảm các điều kiện về ngân sách, biên chế
giáo viên, cơ sở vật chất và kỹ thuật; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện của Sở
GD&ĐT, các Sở, Ban, ngành có liên quan và UBND cấp huyện.
(2). Thực hiện quản lý nhà nước đối với các loại hình trường, lớp học được
giao theo thẩm quyền. Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể, đình chỉ
hoạt động của các trường THPT, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường THCN
thuộc tỉnh, trung tâm GDTX, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tỉnh, trung
tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp trên cơ sở bảo đảm đúng quy hoạch, điều
kiện và thủ tục quy định của Bộ GD&ĐT.
(3). Chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh.
(4). Quyết định công nhận trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông đạt chuẩn quốc gia theo đúng các quy định của Bộ GD&ĐT.
(5). Quy định tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của Sở GD&ĐT theo
hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Bộ GD&ĐT.
(6). Hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp GD-ĐT trong việc lập kế hoạch


biên chế và thực hiện định mức biên chế sự nghiệp GD-ĐT theo hướng dẫn của Bộ
GD&ĐT; kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, tổ
chức bộ máy và biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp GD-ĐT.
(7). Quản lý và kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi và
việc cấp bằng, chứng chỉ theo quy định của pháp luật.
(8). Tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và phổ cập
giáo dục trên địa bàn tỉnh.
(9). Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về giáo dục ở địa phương
theo quy định của pháp luật.

(10). Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong GD-ĐT theo quy
định của pháp luật.
(11). Trình HĐND cấp tỉnh phê duyệt tổng biên chế hành chính và biên chế
sự nghiệp GD-ĐT của tỉnh hàng năm trên cơ sở định mức biên chế do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính
của Sở GD&ĐT.
+ Trách nhiệm của Sở GD&ĐT.
Sở GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh:
(1). Thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển GD-ĐT ở
địa phương; tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
(2). Chịu trách nhiệm quản lý các trường trực thuộc: trung tâm giáo dục
thường xuyên, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục cấp tỉnh, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, trường, lớp dành
cho người tàn tật, trường, cơ sở thực hành sư phạm.
(3). Giúp UBND cấp tỉnh quản lý công tác chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức,
biên chế nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động giáo dục khác của các cơ sở


giáo dục theo quy định của pháp luật.
(4). Trình UBND cấp tỉnh cấp phép hoạt động của các tổ chức dịch vụ du
học tự túc trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Chịu trách nhiệm theo dõi,
kiểm tra hoạt động của tổ chức này theo quy định của pháp luật và phân công của
Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
(5). Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện về chuyên môn, nghiệp vụ đối
với Phòng GD&ĐT và các cơ sở giáo dục trực thuộc các Sở, ngành khác.
(6). Chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp giáo dục trực thuộc lập kế hoạch
biên chế; tổng hợp và lập kế hoạch biên chế sự nghiệp giáo dục toàn tỉnh theo
hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền quản lý việc này.
(7). Tổ chức lập dự toán ngân sách giáo dục hàng năm của tỉnh gửi Sở Tài

chính, Sở kế hoạch và Đầu tư, lập dự toán chi các chương trình mục tiêu quốc gia
theo quy định của pháp luật. Sau khi được UBND cấp tỉnh giao dự toán ngân sách,
phối hợp với Sở Tài chính phân bổ và giao dự toán chi ngân sách, hướng dẫn, kiểm
tra việc thực hiện.
(8). Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành và UBND cấp huyện thực hiện xoá
mù chữ và phổ cập giáo dục trên địa bàn.
(9). Tổ chức ứng dụng các kinh nghiệm, thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến trong giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến của địa phương; quản lý, chỉ
đạo công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ trong các trường, các cơ sở giáo dục
trực thuộc sở quản lý.
(10). Hướng dẫn, chỉ đạo phong trào thi đua, xây dựng và nhân điển hình
tiên tiến về giáo dục trên địa bàn tỉnh.
(11). Quản lý, chỉ đạo việc xây dựng, bảo quản, sử dụng tài sản và cơ sở vật
chất trường học; công tác phát hành sách giáo khoa, ấn phẩm giáo dục, thiết bị thí
nghiệm và các phương tiện giáo dục khác theo quy định.


(12). Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; xử lý vi
phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
+ HĐND cấp huyện giám sát việc thực hiện chính sách GD-ĐT trên địa bàn
huyện. UBND cấp huyện thực hiện việc thực hiện các chương trình, đề án phát
triển sự nghiệp giáo dục của huyện; tổ chức và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các
chương trình, đề án giáo dục đã được phê duyệt; đảm bảo các điều kiện về ngân
sách và biên chế giáo viên, cơ sở vật chất và kỹ thuật để thực hiện theo quy định
của pháp luật. Quản lý nhà nước các cơ sở giáo dục - đào tạo đóng trên địa bàn.
Chỉ đạo việc xoá mù chữ và phổ cập giáo dục trên địa bàn huyện và thực hiện các
quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi. Chỉ đạo, triển khai thực hiện chủ
trương xã hội hoá giáo dục, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính và tổ chức đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục của huyện theo quy định
của pháp luật.

Phòng GD&ĐT có trách nhiệm giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn huyện. Tham mưu cho UBND cấp
huyện thực hiện các chương trình, đề án phát triển sự nghiệp giáo dục của huyện;
tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Giúp UBND cấp
huyện quản lý công tác chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên chế, nhân sự, tài
chính, tài sản và các hoạt động khác của các trường mầm non, trường mẫu giáo,
trường tiểu học, trường THCS, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường bồi dưỡng
cán bộ quản lý giáo dục huyện theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn, kiểm tra
các cơ sở giáo dục đào tạo công lập thuộc phạm vi quản lý của huyện, xây dựng kế
hoạch biên chế sự nghiệp hàng năm để UBND cấp huyện trình cấp có thẩm quyền
quyết định. Chủ trì, phối hợp với các phòng và UBND cấp xã thực hiện phổ cập
giáo dục trên địa bàn huyện. Hướng dẫn, chỉ đạo phong trào thi đua của ngành, xây
dựng và nhân điển hình tiên tiến về giáo dục trên địa bàn huyện. Quản lý, chỉ đạo


việc xây dựng, bảo quản, sử dụng tài sản và cơ sở vật chất trường học; việc phát
hành sách giáo khoa, ấn phẩm giáo dục, thiết bị thí nghiệm và các phương tiện giáo
dục khác thuộc phạm vi quản lý. Kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm
trong lĩnh vực giáo dục.
+ HĐND cấp xã quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ
em vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập tiểu học; tổ
chức các trường mầm non, thực hiện bổ túc văn hoá và xoá mù chữ cho những
người trong độ tuổi.
UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo thẩm quyền về
giáo dục trên địa bàn xã. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa
phương. Phối hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn thực hiện kế hoạch xây dựng,
tu sửa trường lớp trên địa bàn xã trình HĐND cấp xã phê duyệt. Phối hợp với nhà
trường tổ chức đăng ký, huy động trẻ em đến trường, vào lớp 1 đúng độ tuổi và
hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn
hoá, thực hiện xoá mù chữ. Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của

nhà trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non, lớp tiểu học linh hoạt, lớp tiểu học gia đình
trên địa bàn xã. Phối hợp với Phòng GD&ĐT quản lý trường mẫu giáo, trường
mầm non, trường tiểu học, trường THCS đóng trên địa bàn.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu
quả chính sách giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hiệu quả chính sách
giáo dục - đào tạo
- Bối cảnh xã hội: Những thay đổi về điều kiện xã hội có thể tác động đến
cách thực hiện chính sách. Khi xã hội càng văn minh hiện đại, nhận thức của con
người càng tiến bộ, trình độ dân trí càng cao thì sẽ tạo nên những thuận lợi cho
việc thực hiện chính sách GD-ĐT. Chẳng hạn xu hướng dân chủ hoá hiện nay đòi


hỏi chính sách GD-ĐT phải được phổ biến và tranh thủ sự hưởng ứng của dân, đòi
hỏi Nhà nước phải thu hút sự tham gia và sự kiểm tra của công dân, của các tổ
chức đoàn thể và các tổ xã hội dân sự đối với quá trình thực thi. Mặt khác, trong
bối cảnh hiện tại khi xu hướng dân trí ngày càng phát triển, trình độ lao động đòi
hỏi ngày càng cao thì yêu cầu được đào tạo, học tập càng mở rộng. Đây là những
yếu tố xã hội có tác động trực tiếp đến kết quả thực hiện chính sách GD-ĐT.
- Bối cảnh kinh tế: Những thay đổi về điều kiện kinh tế có tác động tương
tự đối với việc thực hiện chính sách GD-ĐT. Kinh tế tăng trưởng cao thì Nhà nước
sẽ bớt khó khăn hơn trong việc thực hiện các chính sách công, nhất là các chính
sách GD-ĐT. Ví dụ việc thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh,
sinh viên; chính sách cho vay để đóng học phí, xây ký túc xá, trường nội trú... hiện
nay đang đặt ra rất cấp bách, nhưng sẽ thay đổi khi nền kinh tế phát triển.
Việc thực hiện chính sách GD-ĐT đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí nhất
định. Nguồn kinh phí này thường do ngân sách Nhà nước cấp, do các tổ chức xã
hội và nhân dân đóng góp, hoặc do nước ngoài tài trợ. Trong quá trình thực hiện
chính sách GD-ĐT, cần phải khai thác triệt để các nguồn đầu tư, nhất là các nguồn
kinh phí ngoài ngân sách Nhà nước. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã chú

trọng vào việc khai thác các nguồn lực trong dân nhằm giảm bớt chi phí cho ngân
sách, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội của dân cư.
Nếu chúng ta không có hoặc không đủ kinh phí, thì không thể thực hiện hiệu
quả chính sách GD-ĐT. Vì vậy, việc thực hiện chính sách GD-ĐT phải đi liền với
việc đảm bảo đủ kinh phí. Mặt khác, nguồn kinh phí cho thực hiện chính sách GDĐT cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần giám sát, kiểm tra chặt chẽ và định kỳ xem xét việc sử dụng kinh phí,
đánh giá hiệu quả sử dụng kinh phí được giao.
- Bối cảnh chính trị: Những biến động trong bối cảnh chính trị có tác động
tới quá trình thực hiện chính sách GD-ĐT. Một đất nước mà tình hình chính trị rối


ren không ổn định (nhiều phe phái, đảo chính, nội chiến, chiến tranh) thì tất yếu sẽ
gặp khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách nói chung và chính sách GD-ĐT
nói riêng. Mặt khác, khi nền chính trị ổn định, đảng cầm quyền luôn xem việc phát
triển nguồn nhân lực là nhân tố hàng đầu để xây dựng đất nước thì sẽ tạo ra sự
thuận lợi nhất định trong việc thực hiện chính sách GD-ĐT.
- Bối cảnh quốc tế: Cùng với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, các biến
động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng có
tác động đáng kể đến việc thực hiện một chính sách GD-ĐT của mỗi quốc gia. Đối
với Việt Nam, kể từ khi hội nhập với quốc tế, các chính sách GD-ĐT đã có những
thay đổi căn bản. Cơ hội học tập của người dân được mở rộng, đã thu hút được các
nguồn lực từ nước ngoài vào phát triển GD-ĐT. Đây là những nhân tố hết sức
thuận lợi trong việc thực hiện chính sách GD-ĐT ở nước ta hiện nay.
1.2.3.2. Các điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu quả chính sách giáo dục
- đào tạo
- Phải hoạch định được chính sách GD-ĐT hợp lý, khoa học
Đây là điều kiện tiên quyết để việc thực hiện chính sách GD-ĐT hiệu quả,
điều kiện này được xác định ngay từ quá trình hoạch định chính sách. Làm tốt công
tác hoạch định chính sách GD-ĐT sẽ tạo ra sự thuận lợi trong quá trình thực hiện.
Ngược lại, nếu chính sách bất hợp lý, thì cho dù công tác tổ chức thực hiện chính

sách đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là thất bại trong thực tế.
- Bộ máy và đội ngũ cán bộ tổ chức thực hiện chính sách GD-ĐT
Chính sách phụ thuộc vào bộ máy, cơ chế, đội ngũ cán bộ thực hiện chính
sách. Bộ máy càng gọn nhẹ, cơ chế làm việc càng minh bạch, không chồng chéo,
sự phối hợp giữa các bộ phận rõ ràng, thì việc triển khai chính sách bao giờ cũng
thuận lợi hơn. Thành công của một chính sách GD-ĐT phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng và sự hoạt động của cơ quan và cán bộ thực thi chính sách, thông thường là
các cơ quan trong bộ máy hành pháp - những người chủ yếu và trực tiếp thực hiện


chính sách.
Nếu bộ máy hành chính quan liêu, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả và các
cán bộ công chức thiếu năng lực, trách nhiệm thì sẽ gây khó khăn đến việc thực
hiện chính sách; làm cho chính sách đó không phát huy tác dụng trên thực tế, bóp
méo các mục tiêu hoặc đi ngược lại ý đồ của chính sách. Một chính sách hợp lý
nhưng nếu bộ máy và cán bộ tổ chức thực thi kém năng lực và phẩm chất thì cũng
không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả.
Mặt khác, các thủ tục hành chính cũng tác động lớn đến hiệu quả của thực
hiện chính sách GD-ĐT. Các thủ tục này tạo ra môi trường thực hiện chính sách,
mỗi cơ quan có những quy định về thủ tục hành chính, các thủ tục này sẽ tạo điều
kiện cho việc thực hiện chính sách được thuận lợi. Các thủ tục hành chính phải có
tính ổn định tương đối để không gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực hiện chính
sách. Khi những thủ tục hành chính đã trở nên lỗi thời, kìm hãm việc thực hiện
trong thực tế, thì cần phải thay thế bằng những thủ tục mới hợp lý và thuận tiện
hơn.
- Sự hưởng ứng, ủng hộ của người dân đối với chính sách GD-ĐT
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn
lần dân liệu cũng xong”. Một chính sách chỉ có thể thành công khi có sự ủng hộ,
hưởng ứng của nhân dân. Nếu bản thân chính sách đó không đem lại lợi ích cho đất
nước và cho đa số nhân dân hoặc nếu nhân dân chưa hiểu đúng ý đồ và lợi ích của

chính sách đó, thì họ sẽ không ủng hội và không thực hiện chính sách.
Yếu tố có tính quyết định nhất là chính sách đó tác động như thế nào đến lợi
ích của nhân dân, sự tương quan giữa những người được hưởng lợi và nhưng người
không được thụ hưởng do việc thực hiện chính sách này. Nếu chính sách đáp ứng
được những nhu cầu của nhân dân thì nó sẽ được ủng hộ, duy trì và phát triển.
- Sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý


Cũng như các chính sách khác của Đảng và Nhà nước, chính sách GD-ĐT
bao giờ cũng thể hiện quan điểm chính trị, lợi ích giai cấp. Vì vậy, rất có thể một
chính sách đưa ra sẽ vấp phải sự phá hoại, sự chống đối của các lực lượng thù địch
trong và ngoài nước; sự kìm hãm của những yếu tố bảo thủ, lạc hậu... Đây là
những khó khăn, phức tạp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành chính sách
và quá trình thực hiện. Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo đất nước - những người có
quyền quyết định chính sách cũng như quyết định tổ chức thực hiện chính sách
phải cương quyết, có đủ quyết tâm và bản lĩnh để thực hiện và đưa chính sách đi
đến thắng lợi cuối cùng nếu thấy rằng đó là một chính sách đúng đắn và hợp lòng
dân. Mặt khác, đội ngũ các nhà quản lý là những người có trách nhiệm cao trong
việc tổ chức thực hiện chính sách, có quyết tâm khắc phục khó khăn, vượt qua
thách thức thì quá trình thực hiện chính sách GD-ĐT cũng sẽ diễn ra thuận lợi và
đạt được kết quả.
1.2.4. Một số thách thức trong việc thực hiện chính sách giáo dục -đào
tạo ở Việt Nam hiện nay
1.2.4.1. Giáo dục - đào tạo trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi
tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất như tài nguyên, đất đai, vật tư,sức
lao động, chất xám đều được trao đổi qua thị trường. Sản phẩm của khoa học và
công nghệ, lao động quản lý, hoạt động dịch vụ đều được coi là hàng hoá, được
mua bán theo giá cả thị trường. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là sản xuất
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Cạnh tranh trên thị trường đã thúc đẩy các doanh

nghiệp tìm các biện pháp làm ăn có hiệu quả. Cơ chế thị trường đảm bảo cho các
nhà sản xuất kinh doanh tự do lựa chọn và quyết định hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Kinh tế thị trường phát triển có tác động đến sự phát triển không chỉ về mặt


kinh tế của mỗi nước mà còn có tác động đến các mặt khác như xã hội, văn hoá và
giáo dục. Hiện nay, ở nước ta hiện vẫn còn đang tranh luận có hay không thị
trường giáo dục. Một số người cho rằng; không có thị trường trong lĩnh vực giáo
dục vì đó là một loại dịch vụ công. Một số ý kiến khác thì khẳng định có thị trường
trong một bộ phận nhất định của giáo dục. Thực tế cho thấy dưới hình thức không
chính thức (các trung tâm luyện thi, học thêm) cũng như chính thức (thu học phí ở
một số cấp, ngành học, trình độ đào tạo) người ta phải trả tiền cho một số dịch vụ
giáo dục.
Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý nền
giáo dục quốc dân, đảm bảo điều kiện cho những hoạt động giáo dục phục vụ
những mục tiêu trọng điểm của quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa
học - công nghệ, an ninh quốc phòng và đảm bảo phúc lợi của nhân dân. Ngoài
những phần đó,người học phải trang trải một phần kinh phí GD-ĐT, tức là chi phí
cho sự gia tăng giá trị sức lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống bản thân và chi
phí này sẽ được hoàn trả lại khi tham gia thị trường lao động sau này. Điều đó tạo
cơ hội cho GD-ĐT khai thác thêm nhiều nguồn lực ngoài kinh phí nhà nước.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường, GD-ĐT không còn là công việc riêng của Nhà nước, mà mọi thành
phần đều có thể tham gia, bởi vì, chính họ cũng là người sử dụng nhân lực được
đào tạo và sự tham gia đó càng ngày càng làm cho đào tạo gắn với sử dụng. Thực
tế cho thấy bên cạnh các trường công còn có các trường ngoài công lập như dân
lập, tư thục. Hệ thống các trường ngoài công lập phát triển đã mở rộng thêm cơ hội
học tập cho người dân và thu hút thêm nguồn đầu tư cho giáo dục ngoài ngân sách
nhà nước từ mọi thành phần, mọi tổ chức, mọi cá nhân trong xã hội.

Trong cơ chế thị trường, sự điều tiết thị trường là sự điều tiết theo cung -cầu,
khi GD-ĐT tham gia vào thị trường cũng bị tác động bởi quy luật đó. Sự tác động
này là động lực nâng cao chất lượng của GD-ĐT đồng thời tạo điều kiện để các cơ


sở GD-ĐT có khả năng cung cấp dịch vụ có chất lượng, hiệu quả cao và có thêm
cơ hội phát triển. Vì các cơ sở GD-ĐT không chỉ tạo đào tạo theo những gì mà họ
có sẵn mà phải điều chỉnh theo những gì mà xã hội cần, do đó mà đào tạo và sử
dụng gắn bó với nhau và hiệu quả trong cũng như ngoài của giáo dục và đào tạo sẽ
được nâng cao. Hơn thế nữa, kinh tế thị trường có điều kiện cung cấp các dịch vụ
GD-ĐT có chất lượng cao. Một sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục
thuộc các thành phần khác nhau sẽ tạo ra cơ hội cho người học chọn lựa nơi học và
dịch vụ có chất lượng cao nhất, do đó mà chất lượng đào tạo ngày càng được nâng
cao.
Kinh tế thị trường cũng đặt ra một số thách thức cho GD-ĐT. Kinh tế thị
trường có thể gây nên một số tiêu cực trong GD-ĐT, ví dụ, một số cơ sở đào tạo
quá nhấn mạnh hiệu quả kinh tế trước mắt của cơ sở mình mà coi nhẹ chất lượng
GD-ĐT, một số cơ sở có xu hướng thương mại hoá GD-ĐT nhằm mục đích thu lợi
nhuận, coi văn bằng chứng chỉ và sách giáo khoa là một thứ hàng hoá để mua bán
hoặc làm giả.
Kinh tế thị trường dễ dẫn đến xu hướng tăng tính thực dụng trong GD-ĐT,
trong một số trường hợp, mục tiêu trước mắt làm lu mờ mục tiêu lâu dài, mục tiêu
cá nhân lấn át mục tiêu xã hội, vì vậy mà chất lượng giảm sút.
Tuy nhiên, ở nước ta quá trình chuyển đổi còn đang tiếp diễn, cơ chế thị
trường chưa hoàn thiện. Những giá trị thu được qua đào tạo chưa được xã hội sử
dụng và đánh giá thích đáng; điều đó hạn chế động lực người học cũng như người
sử dụng nhân lực. Trong nền kinh tế thị trường, khi hiệu quả kinh tế được đề cao,
đồng tiền trở thành thước đo công khai, phổ biến, thì trong xã hội có sự đánh giá
lại và định hướng lại giá trị. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến động cơ học tập, đến việc
lựa chọn ngành nghề, đến các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Trong

hoàn cảnh đó, Nhà nước thông qua hệ thống GD-ĐT có sứ mệnh định hướng giá trị
đúng đắn cho sự phát triển nhân cách của người học. Nhà nước đảm bảo điều kiện


cho các hoạt động GD-ĐT phục vụ những mục tiêu trọng điểm của quốc gia và
đảm bảo cung cấp giáo dục cho mọi người ở trình độ tối thiểu như một phần phúc
lợi của nhân dân.
Tóm lại, nền kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện hết sức quan trọng để
phát triển sự nghiệp GD-ĐT, song bên cạnh đó nó cũng là thách thức cho nền giáo
dục Việt Nam trong bối cảnh mới. Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường Nhà nước
có điều kiện để thực hiện các mục tiêu GD-ĐT, nhưng cũng phải đối mặt với
không ít khó khăn, mà trước hết đó là sự mất cân đối giữa nhu cầu về GD-ĐT với
khả năng thực hiện của Nhà nước. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường người dân
có cơ hội tiếp xúc các dịch vụ GD-ĐT có chất lượng; song cũng chính nền kinh tế
thị trường sẽ là nhân tố phá vỡ những giá trị truyền thống của nền giáo dục Việt
Nam.
1.2.4.2. Thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo với việc đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động
Thị trường lao động được hiểu là nơi diễn ra sự trao đổi theo nguyên tắc
thoả thuận về các quan hệ lao động (việc làm, tiền công và các điều kiện làm việc
khác) giữa người lao động (phía cung lao động) và người sử dụng lao động (phía
cầu lao động) dưới hình thức hợp đồng lao động. Lao động được mua bán và trao
đổi trên thị trường lao động là những lao động có năng lực làm việc, kết quả của sự
trao đổi này là người lao động có việc làm.
Thị trường lao động hoạt động tuân thủ theo các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường với những tính chất chung là thống nhất, tính cạnh tranh, tính
linh hoạt, thích ứng và tính thoả thuận. Cơ chế hoạt động, vận hành của thị trường
lao động có sự khác biệt giữa thị trường lao động tự do và thị trường lao động có
sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Thị trường lao động tự do hoạt động theo quy
luật khách quan, còn thị trường lao động có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước một

mặt tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường,mặt khác có sự can thiệp,


điều tiết của Nhà nước để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo
công bằng và tiến bộ xã hội.
Trước thời kỳ đổi mới 1986, nước ta vẫn trong thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp, các vấn đề về lao động đều do Nhà nước thực hiện theo kế hoạch từ
trên xuống. Vì vậy, trước thời kỳ đổi mới chưa xuất hiện thị trường lao động theo
đúng nghĩa của nó. Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu mốc quan trọng về đường
lối đổi mới, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá, gắn sản xuất với thị
trường, vận dụng các quy luật cung - cầu, phát triển mạnh thị trường hàng hoá, xoá
bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ. Đại hội Đảng VII chủ trương tiếp tục đổi mới
toàn diện và đồng bộ, đồng thời xác định cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính sách và các công cụ. Đại hội Đảng VIII,
IX và X tiếp tục khẳng định thị trường lao động phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nghĩa là thị trường lao động vừa hoạt động theo quy luật khách quan,
vừa được quản lý, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước. Cơ chế vận hành của thị
trường lao động ở nước ta là sự kết hợp và thống nhất giữa cơ chế hoạt động theo
quy luật khách quan và cơ chế điều tiết của Nhà nước.
Thị trường lao động ở nước ta theo định hướng XHCN là thị trường phát
triển, tạo cơ hội để nhiều người có việc làm với chất lượng cao, giá trị cao. Từ đó
làm cho thu nhập của người lao động tăng lên và thất nghiệp giảm xuống. Để đáp
ứng nhu cầu CNH, HĐH thị trường lao động không chỉ đòi hỏi về số lượng mà còn
về cả mặt chất lượng để nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động. Khả năng này
có được chủ yếu thông qua GD-ĐT nghề nghiệp và tiếp tục học tập trong quá trình
lao động.
Như đã phân tích ở trên, GD-ĐT có vai trò quan trọng trong việc phát triển
nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước. GD-ĐT cung cấp nguồn nhân lực
có chất lượng, có trình độ chuyên môn kỹ thuật, phẩm chất nghề nghiệp cho thị



trường lao động. Khi nền kinh tế tri thức phát triển ngày càng chiếm ưu thế và xu
hướng hội nhập, toàn cầu hoá ngày càng tăng thì trình độ nguồn nhân lực càng có
vai trò quyết định sự phát triển. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn kỹ thuật càng cao thì năng suất lao động càng cao. Hơn thế nữa hàm
lượng chất xám trong sản phẩm càng cao sẽ là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
GD-ĐT nghề cho người lao động nhằm cung cấp kiến thức, hình thành kỹ
năng và thái độ, tác phong nghề nghiệp cho người học để từ đó hình thành nên
người lao động có kỹ thuật. Ngày nay do sự phát triển nhanh của khoa học - công
nghệ nên nhiều ngành nghề mới xuất hiện, nội dung lao động nhanh chóng bị lạc
hậu. Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và có việc làm, người lao động luôn phải
học tập để cập nhật kiến thức để nâng cao trình độ, để có nghề mới. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay, nền GD-ĐT Việt Nam đang thể hiện nhiều sự bất cập, một
trong những hạn chế lớn nhất là khả năng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng đào
tạo của thị trường lao động, đặc biệt là đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật cao và
lao động có trình độ.
Mặt khác, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH nhu cầu về lao động có chất
lượng ngày càng cao, song hiện nay chúng ta vẫn chưa có được chính sách dài hạn
để đào tạo nguồn nhân lực. Sự bất cập của hệ thống chính sách GD-ĐT bộc lộ một
cách có hệ thống, từ giáo dục mầm non, đến tiểu học, THPT, đại học và hệ thống
đào tạo nghề. Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH thì những bất cập, hạn chế
trong công tác GD-ĐT cần phải được nhanh chóng khắc phục, đây là thách thức
lớn trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách GD-ĐT ở Việt Nam nói
chung và Hải Phòng nói riêng.
1.2.4.3. Đảm bảo bình đẳng trong thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo
Công bằng xã hội là mục tiêu phát triển của Việt Nam, điều đó được thể hiện
rõ qua các nghị quyết của Đảng với quan điểm “tăng trưởng kinh tế gắn liền với



tiến bộ và công bằng trong xã hội”. Bình đẳng trong GD-ĐT là sự bình đẳng trong
cơ hội tiếp cận, tham gia vào quá trình giáo dục, là đối xử như nhau với mọi học
sinh khi học tại các cơ sở đào tạo khác nhau.
Mục tiêu của bình đẳng GD-ĐT là đảm bảo quyền hưởng thụ theo chuẩn tối
thiểu về giáo dục phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cho mọi
người dân, đảm bảo cho mọi người đều được học tập đạt trình độ phổ cập theo quy
định của mỗi quốc gia. Mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong
việc tiếp nhận và thực hiện chăm lo của Nhà nước từ lúc sinh ra cho đến tuổi đi
học đạt chuẩn phổ cập đó. Bình đẳng trong GD-ĐT còn bao gồm cả việc giải quyết
một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo dục đại trà và giáo dục trọng điểm, giữa sự
quan tâm đến quyền lợi giáo dục của số đông và dành quyền ưu tiên cho những
người có năng lực học tập đặc biệt.
Bình đẳng trong giáo dục là một trong những nội dung chính của việc xây
dựng nền giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cơ hội được học tập cho
mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân lao động, nhất là con em các gia đình nghèo
và diện chính sách được học hành. Điều này được thể hiện rõ qua các chính sách
của Đảng và Nhà nước như:
- Điều 10, Luật Giáo dục năm 2005 đã ghi rõ: “Học tập là quyền lợi và nghĩa
vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng giới
tính nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội hoặc hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ
hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện ai
cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ đề người nghèo để học tập,
đảm bảo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng. Nhà nước ưu
tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi, người
tàn tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa
vụ học tập của mình”.



- Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII Về
định hướng phát triển GD-ĐT thời kỳ CNH, HĐH đã chỉ rõ, “Thực hiện công bằng
xã hội trong GD-ĐT. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được
Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm cho những người học giỏi
phát triển tài năng”.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2001 -2010 đã đề ra: “Thực hiện công bằng
xã hội trong giáo dục - đào tạo và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn”.
Để thực hiện các mục tiêu về công bằng trong GD-ĐT, Đảng, Nhà nước đã
ban hành nhiều chính sách như : các chính sách về đảm bảo chuẩn tối thiểu trong
giáo dục (xoá mù chữ, phổ cập giáo dục); các chính sách đối với các nhóm xã hội
đặc biệt (trẻ khuyết tật, trẻ cần được sự bảo trợ); các chính sách khuyến khích và
hỗ trợ phát triển tài năng; các chính sách ưu tiên nữ; các chính sách khuyến khích
phát triển hệ thống giáo dục... Vì vậy, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong việc thực hiện bình đẳng về GD-ĐT.
Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, các yếu tố mặt
trái của kinh tế thị trường đã tác động một cách mạnh mẽ vào xã hội, trong đó có
lĩnh vực GD-ĐT, mà điều dễ nhận thấy nhất là sự bất bình đẳng, sự chênh lệch
trong việc thụ hưởng chính sách GD-ĐT. Đảng, Nhà nước cần phải có chính sách
nhằm giảm thiểu, khắc phục sự bất bình đẳng này. Cụ thể, cần có chính sách hợp lý
phát triển sự nghiệp GD-ĐT ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; với người
khuyết tật; gia đình chính sách; vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai; giảm thiểu sự
chênh lệch về chất lượng giáo dục ở các vùng, miền, địa phương...
1.2.4.4. Chính sách tài chính cho giáo dục - đào tạo
Về chính sách học phí, học bổng, Điều 59 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá
và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã


hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí,

học bổng. Nhà nước tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề
phù hợp” [49, tr.218].
Nghị quyết Trung ương IV về “Phát triển giáo dục - đào tạo ở vùng dân tộc
thiểu số và những vùng khó khăn” nhằm mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài, đặc biệt tạo nguồn đào tạo cán bộ quản lý và giáo viên
tại chỗ. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 302/TTg năm 1993 về chế
độ miễn giảm học phí cho học sinh, sinh viên thuộc các đối tượng đặc biệt là
thương binh, là con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh hạng 1. Học sinh, sinh
viên diện chính sách được nhận học bổng theo quy định hoặc nhận trợ cấp theo tiêu
chuẩn, được miễn giảm học phí tuỳ theo đối tượng đã và đang nỗ lực học tập và
rèn luyện.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự phân hoá giàu nghèo, để thực hiện sự bình đẳng và công bằng trong GD-ĐT
đại học và cao đẳng, tạo cơ hội thuận lợi cho con em các gia đình có khó khăn học
giỏi được học đại học, đồng thời thực hiện chủ trương đa dạng hoá các nguồn tài
chính cho GD-ĐT, Nhà nước đã có chủ trương cho sinh viên vay tiền.
Trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước có hạn, việc thực hiện mục tiêu và
các chính sách trên sẽ gặp không ít khó khăn. Do đó, việc tìm kiếm một cơ chế
thích hợp để hiện thực hoá các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về
GD-ĐT đang là một thách thức lớn hiện nay mà chúng ta cần phải vượt qua.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà (chủ biên) 2006), Đổi mới cung ứng dịch
vụ công ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam


(2003), Nghị quyết 32/NQTW về “Xây dựng và phát triển thành phố
Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
3. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (2002), Nxb Giáo dục, Hà

Nội.
4. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết và chỉ thị
của Đảng (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. H.K. Colebatch, Chính sách (Policy), Open University Press Buckingham
(Tài liệu riêng của TS Ngô Huy Đức).
7. Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009- 2020 (2008), Bộ
Giáo dục và Đào tạo
8. Phạm Tất Dong (1993), "Giáo dục - đào tạo - nền tảng của chiến lược con
người", Tạp chí Cộng sản, (3).
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng
2001 - 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI,VII.VIII,IX ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Văn Đồng (1999), Về giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Lê Văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đoàn Thu Hà, Nguyễn Ngọc Huyền (chủ biên) (2000), Giáo trình Chính
sách Kinh tế xã hội, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
16. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phạm Minh Hạc (2003), Về giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
18. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biờn), Phạm Thu Lan, (2006), Giỏo trỡnh Hoạch
định và phân tích chính sách công, Học viện Hành chớnh Quốc gia,



Nxb Giỏo dục, Hà Nội.
19. Vũ Ngọc Hải (chủ biên), Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện
đại hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Nguyễn Ngọc Hiến (2002), Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ
công, nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nxb Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
21. Phạm Đình Hoà (2001), "Mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá", Triết học, (9).
22. Hệ thống các văn bản pháp quy, Giáo dục và đào tạo Việt Nam (2001),
Nxb Hà Nội.
23. C.Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
24. Kiểm định chất lượng giáo dục đại học - Đại học Hải Phòng (2009), Đại
học Hàng hải Việt Nam (2005, bổ sung 2009), Đại học Y Hải Phòng
(2009), Đại học Dân lập Hải Phòng (2009).
25. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo: kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
27. Lê Chi Mai, Võ Kim Sơn, Vũ Huy Từ (1998), Quản lý khu vực công, Nxb
Khoa học kĩ thuật, Hà Nội.
28. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Chính trị
29.
30.
31.
32.
33.

quốc gia, Hà Nội.

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam (2005), Nxb Tp Hồ Chí Minh.
Luật giáo dục, Mục tiêu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2020, Chế độ chính sách mới ngành Giáo dục và

Đào tạo (2006), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
34. Những điều cần biết về tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2009 (2009),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Phát triển giáo dục - đào tạo trong giai đoạn hiện nay và một số chính
sách quy định mới đối với nhà giáo (2006), Nxb Lao động - Xã hội,


Hà Nội.
36. Vũ Thị Ngọc Phùng (chủ biên) (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
37. Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng (2001), Giáo dục - Đào tạo Hải
38.

Phòng hiện tại và hướng tới năm 2010; Nxb Thống kê, Hà Nội.
Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, UBND Thành phố Hải Phòng
(2003), Quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo thành phố Hải

Phòng giai đoạn 2001 – 2010.
39. Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, Báo cáo Tổng kết các năm học 20062007, 2007 – 2008, 2008 – 2009.
40. Tạp chí khoa học giáo dục (Từ 2005 - 2009), Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
41. Chu Văn Thành (chủ biên) 2004), Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Chính sách công: Cơ sở
lý luận, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
43. Thành uỷ Hải Phòng (2001), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành
44.
45.
46.
47.

48.
49.
50.
51.

phố Hải Phòng lần thứ XII.
Thành uỷ Hải Phòng (2005), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành
phố Hải Phòng lần thứ XIII.
Thành uỷ Hải Phòng (2005), Các văn bản chủ yếu của Thành uỷ Hải
Phòng khoá XII (Nhiệm kỳ 2001 - 2005).
Thành uỷ Hải Phòng (2008), Các văn bản chủ yếu của Thành uỷ Hải
Phòng khoá XIII (Nhiệm kỳ 2005 - 2010).
Thành uỷ Hải Phòng (2008), Kỷ yếu Hội nghị Thành ủy lần thứ 14 (mở
rộng) kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng,
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố, 10 - 2008).
Hồ Văn Thông (chủ biên) (1999), Tìm hiểu về khoa học chính sách công,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992)(2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học (1998), Nxb Đà Nẵng.
Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính (2000), Nxb Lao động.



52. Nguyễn Thị Tứ (1993), Một số vấn đề chủ yếu của chính sách giáo dục đào tạo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội.
53. Phạm Văn Vận, Vũ Cương (chủ biên) (2006), Giáo trình kinh tế công
cộng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
54. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004),
Tập bài giảng Chính trị học (Hệ Cử nhân chính trị), Nxb lý luận
Chính trị, Hà Nội.
55. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Đề
cương bài giảng Chính trị học (Hệ Cao học chuyên chính trị học), Hà Nội.
56. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006),
Lựa chọn công cộng một tiếp cận nghiên cứu chính sách công, (Tài
liệu tham khảo, lưu hành nội bộ), Hà Nội.
57. www.bachkhoatoanthu.gov.vn
58. www.haiphong.gov.vn
59. www.edu.net.vn


×