Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Phân tích, đánh giá tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.95 KB, 33 trang )

Lời nói đầu
Albert Einstein, nhà khoa học vĩ đại của thời đại nguyên tử đã từng nói: “Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh,
Thượng đế, cá nhân, không giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, xuất phát
từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa.
Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”
Điều gì khiến một “nhân vật của thế kỷ 20”, một nhà vật lý vĩ đại của nhân loại
đánh giá cao về Phật giáo như vậy? Thông điệp của đức Phật về chân lý, hòa bình,
từ bi và khoan dung rất là thích hợp đối với xã hội ngày nay cũng như nhiều thế kỷ
trước đây. Thời gian trôi qua đã làm cho những ánh sáng càng tỏa sáng hơn. Sự lan
tràn của chủ nghĩa vật chất và sự theo đuổi những thành đạt của cá nhân bất chấp
mọi giá đã làm xói mòn giá trị đạo đức xã hội, tình huynh đệ và tính cộng đồng.
Trong những tình huống này, việc chúng ta nhớ lại và truyền bá thông điệp về từ bi
và trí tuệ của đức Phật để hận thù có thể được thay thế bằng tình thương, xung đột
bằng hòa bình an lạc, và sự cạnh tranh bằng hợp tác lẫn nhau là cần thiết biết bao.
Ở Việt Nam, cùng với dòng chảy của lịch sử Đạo Phật có ảnh hưởng sâu rộng và
đóng góp đáng kể đến mọi mặt đời sống văn hoá-xã hội.
Đó là lý do tôi lựa chọn chủ đề: “Phân tích, đánh giá tư tưởng triết học Phật
giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội”. Nội dung bài viết này
gồm có: Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển của Đạo phật, nội dung cơ bản của tư
tưởng triết học Phật giáo, những đặc điểm của Đạo Phật và ảnh hưởng nó đỗi với
đời sống xã hội người Việt. Đồng thời, dưới con mắt khách quan của một người
không theo tôn giáo nào đưa ra những ưu điểm và những mặt hạn chế còn tồn tại
của Phật giáo hiện nay. Qua đó tôi có cơ hội tìm tòi những tư liệu về Đạo Phật và
hiểu thêm ý nghĩa nhân văn, giá trị chân-thiện-mỹ từ những lời dạy của Đức Phật.

Chương I: Lịch

sử ra đời và phát triển của Đạo Phật


1


1.Tình hình xã hội và tư tưởng triết học-tôn giáo Ấn Độ khi Đức Phật xuất
thế.
Cách đây trên 2500 năm, xã hội Ấn Độ là một chế độ xã hội và chính trị đầy
dẫy những bất công. Dân chúng Ấn Độ thời bấy giờ bị chia thành rất nhiều đẳng
cấp khác nhau, đó là: Tăng lữ Bà la môn là hạng cao thượng lãnh đạo tinh thần
dân tộc, có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất.
Tầng lớp quý tộc là hàng vua chúa quý phái nắm giữ quyền hành thống trị dân
chúng. Những thương gia chủ điền giàu có có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế
trong nước và Nô lệ và nông nô làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên. Ngoài
bốn giai cấp trên, còn có một hạng người bần tiện nhất là giống dân tộc mọi rợ, bị
coi như sống ngoài lề xã hội, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ
nhục, tối tăm..
Hạng Bà la môn hưởng sung sướng nhàn hạ bao nhiêu thì đám người bần tiện ở
dưới lại khổ sở bấy nhiêu. Sự bất công xã hội thật không thể nào diễn tả nổi.Theo
luật Bà la môn, chỉ ba giai cấp trên có quyền đọc kinh, học đạo, còn hai giai cấp
dưới thì đời đời chỉ làm nô lệ cho ba giai cấp trên mà thôi.
Về phương diện tôn giáo, triết học, tư tưởng thì xã hội Ấn Độ thời bấy giờ
cũng diễn ra một cảnh tượng vô cùng hỗn tạp: Về tín ngưỡng người thờ thần lửa,
kẻ thờ thần núi, thần sông, kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt trời. Về triết học
gồm một trăm phái khác nhau, luôn đả kích chống báng nhau.
Tóm lại, xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ là một xã hội về vật chất thì đang rên siết
dưới ách bất công, áp bức, về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những
luồng tư tưởng lý thuyết rối reng. Xã hội ấy đang khao khát tình thương và bình
đẳng, đang mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí tuệ. Trong hoàn cảnh
ấy, Đức Phật Thích Ca đã xuất hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ.
2. Đức Phật Thích Ca, vị giáo chủ của Đạo từ bi và trí tuệ.
Đức Phật giáng sinh ở miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nêpal, một nước ở

ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, xuất thân là một Thái tử một tiểu vương quốc.
Một buổi bình minh, Hoàng hậu đang dạo chơi trong vườn hoa Lâm-Tỳ-Ny thì
2


sinh hạ Thái tử ở đấy. Thái tử được đặt tên là Tất Đạt Đa và theo tục lệ Ấn Độ lấy
họ mẹ là Thích Ca. Sau khi hạ sinh Thái tử Tất Đạt Đa được 7 ngày, Hoàng hậu tạ
thế và em gái của Hoàng hậu đã thay chị nuôi Thái Tử cho đến lớn. Ngay từ khi
mới ra đời tướng mạo của Thái tử có những nét đặc biệt khác thường: Ngài có ba
mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, đạo sĩ
Asita đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường chỉ
lối cho chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân hồi. Thuở thơ ấu, tư chất thông minh và
tính tình đức độ của Ngài đã biểu lộ một cách rõ rệt. Những đạo sĩ thông thái,
những võ sĩ tài danh điều được vua cha mời đến dạy cho Thái tử; và chẳng bao lâu
Thái tử đã trở thành một vị văn võ toàn tài, không ai sánh kịp.
Và cũng do tư chất thông minh ấy, Thái tử đã sớm nhìn thấy rõ được tính cách
giả dối, vô thường của sự thế, và với lòng thương vô hạn, không thể ngồi yên để
nhìn thấy sự rên siết, khổ đau của cõi đời, nên tâm hồn của Ngài không bao giờ
được yên ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến phương pháp cứu khổ cho chúng
sinh. Mặc dù, để làm khuây khỏa lòng con, vua cha Tịnh Phạn truyền dựng lên một
cung điện nguy nga, bày đủ trò đàn ca múa hát, và còn cưới cho Ngài một người
vợ đẹp tuyệt thế giai nhân nhưng Thái Tử vẫn không khuây nỗi buồn mênh mông
của cõi thế. Năm Ngài 29 tuổi, sau khi đã để lại cho Tịnh Phạn vương một người
cháu nội, Thái tử quyết đinh từ bỏ cuôc đời vinh hoa phú quý, rời hoàng cung, rời
gia đình vợ con bắt đầu con đường tu hành khổ luyện, tìm phuơng pháp cứu độ
chúng sinh thoát khỏi vòng khổ ải và đưa họ lên bờ giác ngộ vĩnh viễn yên vui.
Trong sáu năm trời tu hành khổ hạnh, Ngài cũng chưa thu thập được kết quả gì khả
quan, bấy giờ Ngài mới đi đến núi Tượng Đầu, ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ Đề
và thề rằng: "Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương
tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy".Và đến ngày thứ bốn mươi chín, lúc sao mai

vừa mọc, thì Ngài hốt nhiên đại ngộ, thấy được chân lý của vũ trụ và nguồn gốc
sinh tử của chúng sinh. Ngài đã thành Phật với danh hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành đạo, Đức Phật chu du khắp các lưu vực sông Hằng, đem đạo vô
thượng của Ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo,
sang hèn, màu da, chủng tộc, trí thức hay ngu si.
3


Nhờ lòng từ bi không bờ bến, đức hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói
pháp trên năm trăm hội, hóa độ vô số quần sinh, thoát vòng mê mờ khổ não. Và do
đó, đạo Phật được thành lập trên cõi đời. Năm Ngài 80 tuổi, nhận thấy chiếu
nguyện của mình đã thực hiện, nhiệm vụ độ sinh của mình đã đầy đủ, một hôm,
đức Phật cho gọi các đệ từ của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn kẽ, rồi từ giã cõi
đời một cách bình thản, giản dị: móc ở giữa hai cây bông vải ngoài châu thành
Câu-thi-la, Ngài nhập cõi Niết-bàn. Như thế ấy, một cuộc đời vô cùng vĩ đại đã
xuất hiện và biến ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi đã đánh dấu ba giai
đoạn lớn một cách vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa:
-Ra đời bên cạnh một gốc cây
-Thành đạo bên một gốc cây
-Và lìa đời ở giữa hai cành cây !
3. Lịch sử phát triển của Đạo Phật.
Đạo Phật trở thành một tôn giáo sau khi Phật tịch diệt và được truyền bá rộng
rãi. Đến thế kỷ thứ 3 trước CN, vua Acoka đã cho xây đến 8 vạn tháp thờ Phật và
thúc đẩy việc truyền đạo ra nước ngoài. Trong quá trình phát triển, đạo Phật chia ra
làm 3 môn phái khác nhau về giáo lý, tổ chức và địa bàn:
a, Phái Phật giáo nguyên thuỷ (Theravanda) còn gọi là Tiểu thừa(Hinayana - cỗ
xe nhỏ) chủ chương tu thân cho bản thân giác ngộ thành “lahán” (arhat). Phái này
theo sát chữ nghĩa kinh điển, không thờ cúng thần linh hoặc chỉ thờ Thích Ca Mâu
Ni thôi. Đạo này còn phổ biến ở Đông Nam Á (Srilanka, Thái Lan, Miến Điện,
Việt Nam, Lào, Campuchia...)

b, Phái Đại thừa (Mahayana - cỗ xe lớn) chủ trương tự giác và giác ngộ cả
chúng sinh, tu thành bồ tát (bodhisattva) trước khi thành Phật. Không cố chấp chữ
nghĩa kinh điển, thờ nhiều Phật, phổ biến ở Nepan, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật
Bản, Việt Nam). Một nhánh của Đại thừa là phái Thiền.
c, Phái Tantrayana- Mật tông hay Vadshrayana -Kim cang thừa có tính chất bí
truyền, kết hợp phù chú, bùa linh để tu giải thoát, phổ biến ở Tây tạng, Mông Cổ,
Xibia.
4


Số tín đồ Phật giáo trên thế giới là hơn 600 triệu người. Ở Việt Nam, đạo Phật
được du nhập vào từ thế kỷ thứ 2 qua đường biển từ Ấn Độ và đường bộ từ Trung
Quốc - chủ yếu là tư tưởng Thiều tông kết hợp với lối tu của Tịnh độ tông thờ A Di
Đà cùng Quan Âm và của Mật tông. Từ thế kỷ thứ 5, đạo Phật ở Ấn Độ bắt đầu bị
Ấn Độ giáo tấn công và đến thế kỷ thứ 12 bị đạo Hồi(một tôn giáo nguyên ở Thổ
Nhĩ Kỳ) khi đã xâm nhập Ấn Độ bằng quân sự đã dùng những thủ đoạn khốc liệt
để hủy diệt chính pháp, tàn hại Phật Giáo bằng cách đập tháp, phá chùa, đốt kinh
điển, giết hại Phật tử. Những điều đó đã làm cho Đạo Phật ở Ấn Độ tàn lụi thêm.

5


Chương 2:

Nội dung cơ bản tư tưởng triết học Phật giáo

Kinh điển của Phật giáo gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Phật giáo
cũng luận về thuyết luân hồi và nghiệp, cũng tìm con đường “giải thoát” ra khỏi
vòng luân hồi. Trạng thái chấm dứt luân hồi và nghiệp được gọi là Niết bàn.
Nhưng Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp

nào cũng được “giải thoát”.
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích
nhân-quả. Theo Phật giáo, nhân-quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và
không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân-quả này Phật giáo
thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là
nguyên nhân của một kết quả khác.
1. Về thế giới tự nhiên,
Bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên
nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Tối cao (Brahman) nào
sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định Brahman, Phật giáo cũng phủ định phạm
trù (Anatman) nghĩa là không có tôi và quan điểm “vô thường”.
Quan điểm “vô ngã” cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ
nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con
người chẳng qua là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy là không có cái
gọi là “tôi” (vô ngã).
Quan điểm “vô thường” cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất
tận: sinh - trụ- dị- diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận “thoáng
có”, “thoáng không”, cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất.
2. Về nhân sinh quan
Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” khỏi vòng
luân hồi, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn. Nội dung triết học
nhân sinh tập trung trong thuyết “tứ diệu đế” với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời.
6


1. Khổ đế.
Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát khổ) đó
là : sinh, lão, bệnh, tử , thụ biệt ly (thương yêu nhau phải xa nhau), oán tăng
hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn

nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung nấu làm khổ sở).
2. Tập đế hay nhân đế.
Phật giáo cho rằng cuộc sống đau khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi
khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên” đó là 12
nguyên nhân và kết quả nối theo nhau cuối cùng dẫn đến các đau khổ của con
người: 1. vô minh; 2.hành; 3. thức; 4 .danh sắc; 5.lục nhập; 6. xúc; 7. thụ; 8. ái;
9. thủ; 10. hữu; 11 .sinh; 12 .lão-tử. Trong đó vô minh là nguyên nhân đầu tiên.
3. Diệt đế,
Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt để đạt tới trạng thái Niết bàn.
4. Đạo đế
Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ. Đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện
đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo) đó là: 1 chính kiến (hiểu biết
đúng tứ đế); 2 chính tư (suy nghĩ đúng đắn); 3 chính ngữ (lời nói đúng đắn); 4
chính nghiệp (giữ nghiệp không tác động xấu); 5 chính mệnh (giữ ngăn dục vọng);
6 chính tinh tiến (rèn luyên tu lập không mệt mỏi); 7 chính niệm (có niềm tin bền
vững vào giải thoát); 8 chính định (tập trung tư tưởng cao độ).
Tám nguyên tắc trên có thể thâu tóm vào (tam học) tức là 3 điều cần học tập và rèn
luyện là giới – định – tuệ. Giới là giữ cho thân, tâm thanh tịnh trong sạch. Định là
thu tâm, nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không bị ngoại cảnh làm xáo động.
Tuệ là trí tuệ. Phật giáo coi trọng khai mở trí tuệ để thực hiện giải thoát.
Tóm lại, bốn sự thật mà đức Phật đã từng kinh qua chứng đắc và đem nó ra để
dạy lại các đệ tử nên thực hành như chính Ngài nếu muốn thoát khỏi khổ đau.
Sự thật thứ nhất là khổ đau, đó là kết quả bản chất của chính sự sống mà chúng
sinh hữu tình đang gánh chịu, nỗi khổ đau này, những buồn vui của nó chính trong
7


cuộc sống của mỗi chúng sinh về tâm và vật, chúng luôn luôn mang bộ mặt bất
toàn giả tạm và không làm vừa lòng mỗi chúng ta, do vô thường và huyễn hóa. Về
sự thật này, thì chúng ta phải hiểu và biết nó như một sự kiện như thật, một cách

chính xác và đầy đủ .
Sự thật thứ hai là Nguồn gốc tập khởi của khổ đau, tức chỉ cho nguyên nhân
mọi thứ dục vọng, mọi khát khao của ái, và tương ứng với tất cả những đam mê
xấu xa bất tịnh khác liên quan với vô minh, đưa chúng ta đến kết quả đau khổ, trôi
lăn trong sinh tử luân hồi ba cõi. Ở đây, chúng ta không những chỉ hiểu sự kiện này
một cách như thật chính nó thôi, mà chúng ta còn phải nỗ lực từ bỏ, loại bỏ nó,
bằng cách diệt trừ và nhổ nó tận gốc rễ để nó không còn là nguyên nhân trực tiếp
đưa chúng ta đến hậu quả khổ đau, trong hiện tại và tương lai nữa.
Sự thật thứ ba là sự Chấm dứt khổ đau, đạt Niết-bàn, chân lý tuyệt đối, hay là
thực tại tối hậu, là kết quả sau khi chúng sinh thực hiện con đường trung đạo. Ở
đây, việc thực hành của chúng ta là phải thực chứng nó , bằng vào những nỗ lực cả
thân và tâm trong việc thực hiện thanh tịnh hóa ba nghiệp.
Sự thật thứ tư là Con đường đưa đến thực chứng Niết-bàn. Ở đây, chúng ta
nói đến vấn đề con đường đưa đến thực chứng, tức là nói đến con đường thực hành
qua Bát chính đạo, không chỉ hiểu biết về con đường, dù có thấu triệt bao nhiêu đi
chăng nữa thì cũng không ích lợi gì. Trong trường hợp này, việc của chúng ta là
phải đi theo con đường ấy và tuân giữ nó về hai mặt thân và tâm, làm cho ba
nghiệp thanh tịnh. Có như vậy, chúng ta mới đạt được mọi sự an lạc ngay trong
cuộc sống này, mà không cần tìm đâu xa ngoài thế gian này.

8


Chương 3: Những

đặc điểm nổi bật của Phật giáo

Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt
nhỏ hẹp. Tuy nhiên, một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà
biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.

1. Thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là “In như sự thật”:
Lý thuyết, phương pháp, kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không
chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý
của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm trung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và
chỉ nói những sự thật mà sự vật có, không thêm không bớt. Đạo Phật, do đó, cấm
đoán những tín ngưỡng và hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, và
không công nhận những kết quả của tín ngưỡng mê mờ, hành động manh động là
hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
2. Thứ hai, đạo Phật giáo rất “tôn trọng sự sống”.
Không sát sinh, ăn chay, là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy.
Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự
sống ấy. Giết sự sống để nuôi sự sống là mê muội mà vì tham sống nên hại sự sống
cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để
sống còn, mà còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi
tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như 'thay khổ cho chúng
sinh' để cứu vạn loại. Đạo Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha,
nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống.
3. Thứ ba, đạo Phật chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh tồn”.
Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không phải biệt lập.
Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan;
không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay ngược lại. Bởi thế cho nên
phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối.
Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp dụng
9


trong trường hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết
trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
4. Thứ tư, đạo Phật xác nhận “con người là trung tâm của xã hội”.
Đạo Phật không hoàn toàn duy tâm, cũng không hoàn toàn duy vật, mà tất cả

đều do con người phát sinh và đều phát sinh vì con người. Kết luận này thực tế ở
đâu cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ
hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng
lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa
hay thoái hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể của xã
hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai.
5. Thứ năm, đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bệnh con người trước hết”.
Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài người, xã hội
ấy tiến hóa hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi phối; mà hoạt
động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội phản ánh trung thành
của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con
người, cải tạo tâm bệnh của con người. Tâm bệnh con người nếu còn độc tài, tham
lam, thì xã hội loài người là địa ngục, tâm bệnh con người được đối trị rồi thì hoạt
động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết quả của hoạt động ấy, cũng
rất cực lạc.
6. Thứ sáu, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi, trí, dũng”.
Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt lợi lạc.
Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ thành tàn ác
và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ trở thành gian xảo và mộng tưởng.
Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến hóa, trí là
trí thức tiến hóa, dũng năng lực tiến hóa. Con người như thế là con người mới, căn
bản của xã hội mới.
7. Thứ bảy, tư tưởng của đạo Phật là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là
con người mới.
10


Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải chiến thắng chính
mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là cái 'nhân cũ' (bóc lột,
đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả được cái 'quả mới' là là một

xã hội mới. Trong xã hội ấy quyền sống tuyệt đối bình đẳng như sự sống: Bình
đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.
8.Thứ tám, đạo Phật là “tiến lên vô thượng giác”.
Đào luyện một con người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục
đích của đạo Phật cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người lên
chóp đỉnh của sự tiến hóa là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ
toàn giác, địa vị Phật đà.
9. Thứ chín, đạo Phật là đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”.
Đấy là một tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo
con đường sáng cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà
soi đường, phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi. Con người mới là phải
tự rèn luyện; xã hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu chứng.
Tự lực giải thoát là con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An
lạc không phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Một điều nữa, nước trong bản
chất là nước đục, hoa sen không mọc trên cát vàng, cho nên người trong đạo Phật
phải tự lực giải thoát ngay trong cảnh giới đau khổ mê muội. Lánh ngoài thế gian
đau khổ để tìm giác ngộ, thì kinh dạy, đó là đi tìm sừng con thỏ. Phật tử không có
đứng vào hàng ngũ thông minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ.
Hoa Sen muôn thuở người ta chỉ tìm thấy trong ao bùn, tuệ giác vô thượng chỉ có
bởi chúng sinh.
10. Thứ mười, đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”.
Đức Phật chỉ hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay
phim cho người thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai
dạy khôn cho ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự
lực thể nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà
còn đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Thế nào gọi là sự hiện chứng? Ví dụ con
11


đường đi đến Mai thôn có mười đoạn. Người đi không ham, không thể ham nhảy

vọt đến Mai thôn mà không qua mười đoạn đường, mà phải đi từng bước, bước
từng đoạn, được một đoạn là đến Mai thôn một đoạn. Con đường vô thượng giác
cũng vậy, nương theo lời Phật chỉ dẫn, ta phải bước từng bước, hiện chứng đến đâu
thể nghiệm chân lý đến đó, cho đến khi toàn giác. Đức Phật tạo cho ta cái thang,
nhưng không kéo giàn hoa xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực mà trèo
từng nấc thang lên giàn hoa thiên lý. Trèo được nấc nào là tự thể nghiệm chân lý
nấc ấy. Đối với chân lý chưa hiện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết.
Tinh thần tu chứng đạo Phật là thế.
Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ là một tôn
giáo. 'Đạo Phật là tất cả', đó là một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết của đạo
Phật. Cho nên Phật tử không thực hành đạo Phật bằng cách để hoạt động của mình
một phần chính vào sự lễ bái cầu nguyện. Phật tử thực hành đạo Phật là áp dụng
vào đời sống, áp dụng vào tất cả mọi hoạt động. Căn bản của đạo Phật là như thật,
tinh thần đạo ấy là bi, trí, dũng. Sống trong căn bản và tinh thần ấy, Phật tử tự
nhiên không thể phủ nhận sự tàn sát, sự manh động và sự nô lệ. Cho nên họ phải tự
lực hành động để thượng thượng tăng tiến. Và hành động ấy không có lãnh vực
trong không gian, không có giới hạn trên thời gian, không có phạm vi trong tổ
chức, không có khu phân trong trường hợp. Ở đâu và lúc nào, với ai và cảnh nào,
Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần bi, trí, dũng của đạo Phật vào để tác
động và chi phối, hầu tạo thành một thế giới tịnh độ. Cho nên đạo Phật bao trùm tất
cả. Nói ngược lại, tất cả có tinh thần đạo Phật mới tốt đẹp.

12


Chương 4: Những

ảnh hưởng của Phật giáo

Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử

dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống của
người Việt.
I. Ảnh hưởng của Đạo Phật đến đời sống văn hoá-xã hội:
1.Về mặt tư tưởng triết học và đạo lý
a. Về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Ðế
và Bát chính Ðạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo,
Nguyên Thủy cũng như Ðại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Ðạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện
tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không
những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả
những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật
duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại.
Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là
điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng
Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón
và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những
điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư là Ðẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên
tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới
có thể gọi là luật nhân quả của Ðạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc
không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả,
cho một nhân khác.
Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Ðạo Phật đã trở thành nếp
sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ.
Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên
13


âm thầm của lý nghiệp báo. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều

qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương
bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động
sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi
cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không
phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác
tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ
rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này.
b. Về đạo lý
Ðạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Ðiều này
ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380-1442), một nhà văn,
nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi
và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng
trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Ðại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Ðem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta
không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về
nước.Tinh thần thương người như thể thương thân đã biến thành ca dao tục ngữ
phổ biến trong nhân dân Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Ðó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm
nhuần và thuộc lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam. Ngoài đạo
14



lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là
đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Ðạo lý
này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về
tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình
thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với
thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao cả đối với
cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Ðặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha
mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt.
Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Ðức Phật đã thuyết giảng đề tài
này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh
Hiếu Tử, kinh Ðại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan... nhắc đến công lao dưỡng
dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi
dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt
điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu". Bởi Phật
Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền
thống của dân tộc Việt.
Đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực hiện là nhắm
vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sinh, vũ trụ, đó là môi trường
sống của chúng sinh gồm cả mặt tâm linh nữa. Ðạo lý Tứ Ân còn có chung cái
động cơ thúc đẩy là Từ ,Bi, Hỷ, Xả khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên
nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường.
2. Về đời sống văn hoá-Xã hội:
a. Phật Giáo dung hòa với các tôn giáo khác ở Việt Nam
Sự phối hợp và kết tinh của Ðạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được các nhà
vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Nhờ đặc tính dung hòa này mà Phật
Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng
phải Phật giáo Ấn Ðộ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, mà là tất cả những
khuynh hướng tâm linh của người dân Việt.
Với tinh thần khai phóng, Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân, Thiện,

Mỹ làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường
15


Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Ðạo giáo thực
hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất
quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ
giác ngộ để đạt tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ.
Ðó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo Việt Nam, với hình ảnh
Đức Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu vào
tâm thức của người dân Việt.
b. Sự dung hòa giữa các tông phái trong Phật Giáo
Nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia Phật
Giáo láng giềng là sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo. Ở Thái Lan,
Srilanka, Lào, Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng,Trung Hoa,
Nhật Bản, Mông Cổ thuần túy chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Việt Nam thì
lại dung hòa cả Nam Tông và Bắc Tông, vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo,
cộng với tinh thần khai phóng, Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy.
c. Với đời sống người Việt Nam
Trong buổi đầu của Phật Giáo ở Việt Nam mang dáng dấp của Phật Giáo Tiểu
Thừa và Mật Giáo, vì vậy đã dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn là tôi
luyện trí tuệ và thiền định. Ðạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng
trong ở xã hội Việt Nam, cả trong giới bình dân và trong giới trí thức. Với tính đời
trội hơn tính đạo, trong quần chúng đa số là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng
người đau khổ nhất trong xã hội cũ. Chùa làng đã từng một thời đóng vai trò trung
tâm văn hóa tinh thần của cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa không những là nơi
giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà còn là nơi hội họp. di dưỡng tinh thần, tham
quan vãn cảnh. Kiến trúc của chùa Việt Nam thường hòa hợp với cảnh trí thiên
nhiên, tạo thành một kiến trúc hài hòa với ngoại cảnh, phù hợp với dinh dưỡng tinh
thần của tuổi già.Nhờ có sự hiện diện của Phật Giáo ở Việt Nam,mà có các di tích

và danh lam thắng cảnh như chùa Hương nhộn nhịp trong ngày trẩy hội đầu
xuân,chùa Tây Phương, chùa Yên Tử mây mù, chùa Keo bề thế, chùa Thiên Mụ
soi mình trên dòng sông Hương, và có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản
như truyện Từ Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính.... có những lễ
16


hội tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương.... và trong tâm tư truyền thống cũng
vẳng tư tưởng bố thí vị tha, lòng hướng thiện và niềm tin vững chắc vào một tương
lai sáng sủa, vẳng tinh thần lạc quan yêu đời của người dân Việt.
d. Với ngôn ngữ, ca dao và dân ca
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều
từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả
những người ít học. Chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng
thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên
môn của Phật Giáo. Theo Ðạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ
trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không có một
hiện tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết
quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên đó (theo đạo
Phật gọi đó là nhân duyên) khi chín mùi, thì đem lại kết quả. Mọi người điều nói
tội nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một
chủ thuyết rất căn bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu
vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão"
Ca dao, dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian phổ
biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của
Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài
này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên rằng dạy bảo, với mục đích xây dựng
một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
e. Với quan niệm về hiếu hạnh:
Là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn

ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt. Tinh
hoa và tinh thần cao đẹp này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh
hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại, tương
xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt.
Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh
hưởng của đạo phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc từ buổi
17


đầu của công nguyên, mà đạo phật là đạo hiếu, lời dạy của phật về việc nhớ ơn và
báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của người Việt, và đã
thể hiện qua ca dao dân ca:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thực ra, hiếu tâm tức thị phật tâm, hiếu hạnh vô phi phật hạnh, làm tròn bổn
phận cùa người con đối với cha mẹ chính là một trong những pháp tu của nhà phật:
Tu đâu mà bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
f) Ảnh hưởng quan niệm nhân quả
Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại
người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp
điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.


hay: “Người trồng cây bách người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau.”
Và: "ở hiền thì lại gặp lành
ở ác gặp dữ tan tành ra tro”
g) Với các tác phẩm văn học và các loại hình nghệ thuật: hát bội, hát chèo...
18


Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm
Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), viết bằng thơ nôm.
Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn
Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn tả thân phận con người vốn khổ đau và mang
tính vô thường, ông viết:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Thi hào Nguyễn Du (2765-1820) có tác phẩm bất hủ là Truyện Kiều, một
truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó nổi bật nhất là thuyết về
Khổ Ðế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Ðế. Tiếp đến là tinh thần về
hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo, vì chính Nguyễn Du cũng tự nhận
mình là một Phật tử, từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa
Hay là:
Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong

các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và nếp sống truyền
thống của dân tộc.Trong vở chèo "Quan Âm Thị Kính", "Trương Viên", "Lưu Bình
Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu Mãi Thần"... đều mang tính thưởng thiện phạt ác.
Thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu";
"Tam Nữ Ðồ Vương"; "Diễn Võ Ðình", "Nghiêu Sò Ốc Hến"... là những vở chứa
đựng toàn vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.Ngoài
ra còn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm
19


Công Cúc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi
hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn có tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.
h) Với phong tục, tập quán người Việt
Phong tục tập quán người Việt nam chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều. Đó là:
-Tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sinh và bố thí
Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã trở về
với phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn bản là
không sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động lời
nói và ý nghĩa, người Phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Ðiều không thể có được khi
con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sinh. Ðể đạt được mục đích đó, người
phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với
nhau của người Việt Nam. Không những phật tử, người mộ đạo thờ phật mà nhiều
người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh có yếu tố phật
giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm.
Xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn sâu
vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Ðến ngày rằm và mùng một, người Việt
thường hay mua chim, cá,...để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sinh.
Người Việt cũng thích làm phúc bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn
nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa.
Trong xã hội hiện nay, mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho

các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống gặp khó khăn đúng với
truyền thống đạo lý của dân tộc lá lành đùm lá rách.
-Tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo tập tục cúng rằm, mùng một là việc cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời
mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương
với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi giới khác và sự
cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi
của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ
20


sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng
là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật
giáo Ðại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, nhân
dân còn sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể
hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm
dưỡng tánh của họ. Bên cạnh đó người Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng
chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư
(Phật Ðản) và rằm tháng bảy (lễ Vu lan). Ðây là một tập tục, một nhu cầu không
thể thiếu được trong đời sống người Việt. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn
mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương
trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lòng
thành kính của họ đối với Ðức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã
góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Trong dòng người
tấp nập, đông đảo đó không phải ai cũng đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy.
Một số đông người chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm họ
cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây là cơ hội giúp họ quay về
với Ðạo Phật.
-Nghi thức ma chay, cưới hỏi, tập tục đốt vàng mã…

Trong gia đình (theo Ðạo Phật) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh
chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ. Ở những gia đình không theo Ðạo Phật
nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Ðạo Phật nên họ thỉnh chư tăng,
ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ
theo Ðạo Phật. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật
giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của
họ được thuận buồm xuôi gió.
Xuất phát từ quan điểm nhân quả luân hồi của Phật giáo, nếu đời này ai ăn ở
hiền lành, tu tâm dưỡng tính thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người hạnh phúc,
sung sướng giàu sang hoặc vãng sinh về thế giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ
bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều
21


đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục
bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những
người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của
mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi
cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng và
đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh (Phật
Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố
của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.
-Tập tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, tập tục xin xăm, bói quẻ….
Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám chết, đám
cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi giúp giùm
ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Vào dịp đầu năm mới người dân
thường cúng dâng sao giải hạn và xin xăm bói quẻ cầu may tại các chùa, đình,
miếu…..
II. Phật giáo đối với lịch sử đất nước
Ngay khi được truyền vào, từ thế kỷ đầu, Ðạo Phật đã nhanh chóng thích nghi

với lối sống của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển của đất
nước. Ðạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt Nam, đã lan tỏa khắp hang cùng
ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất định từ cung đình cho
đến làng xã Việt Nam. Ðạo lý của Phật giáo Việt Nam cũng đã ảnh hưởng và ăn
sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh
thần vô giá. Trong suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Ðạo Phật đã chứng
minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội... và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực vào các mặt nói trên.
Dưới thời Ðinh, Lê, Lý, Trần, các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều
được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của
quốc gia. Có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt Nam tham gia vào chính sự:
Thứ nhất, họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên
thấu hiểu được nổi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang.
22


Thứ hai, các thiền sư không có ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được các vua tin
tưởng và thứ ba, các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp
vua mà thôi) như các nho gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua nào đem lại
hạnh phúc cho dân chúng. Thời vua Ðinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư Ngô
Chân Lưu làm Tăng Thống. Thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Ðỗ Pháp Thuận,
ngài Khuông Việt cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh
đã có công xây dựng triều đại nhà Lý, đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế
độ tàn bạo của Lê Long Ðỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên
đầu sư.Thời nhà Trần có các thiền sư Ða Bảo, thiền sư Viên Thông.. điều được các
vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình. Thế kỷ 20, phật
tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như cuộc vận động đòi ân
xá cho Phan Bội Châu. Thời Diệm, Thiệu (1959-1975) các tăng sĩ và cư sĩ miền
Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lâp cho dân
tộc.

Hiện nay, các nhà sư Việt Nam có tham gia và đóng góp nhiều cho Quốc hội
Việt Nam.
III. Phật giáo đối với cá nhân con ngừời:
Cõi " Niết Bàn" chính là những niềm tin, những đức tin, những mơ ước của
con người sống trên trần thế. Nhiều người tuy coi mình là theo chủ nghĩa vô thần
nhưng vẫn mơ ước về một"'công xã lý tưởng" và đây cũng có thể coi như một
'Thiên Đường"; ở thiên đường ấy mọi người sống . trong hòa bình, tự do, bình
đẳng, thịnh vượng, tràn đầy hạnh phúc. Một cuộc sống ở một trình độ cao: "Làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Đó là những niềm tin, những ước mơ. Pascal,
nhà triết học Pháp thế kỷ thứ XVII cho rằng: Con người muốn hiểu thế giới không
chỉ dựa vào những nhận thức duy lý mà còn phải dựa vào những luận thức duy
cảm. Ông nói: "Con người sống không có niềm tin, không có đức tin sẽ trở
thành một quái vật"
Nếu ta nắm vững nguyên lý nhân quả nghiệp báo, thì chúng ta có thể chuyển
nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là
bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý của chính
23


mỗi cá nhân. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển
hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau. Đại đa số
người Việt Nam khi về già đều tin và theo một số những điều hay lẽ đúng trong
giáo lý đạo Phật. Chính những điều sâu sắc đó của đạo Phật đã giúp họ châm trước
những điểm còn chưa chặt chẽ, những điều chưa thực đúng khi nghiệm vào bản
thân.
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng
năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản. Bố thí là
cho người khác một cách rộng rãi. Rất quan trọng cho một Phật tử thực hành bố thí
này như một hạnh đầu tiên phải làm để đi vào con đường chân chính, vì cho người

khác là một hành động hy sinh. Có khả năng cho ra một cái gì là sửa soạn tâm trí
trọn vẹn để từ bỏ vật sở hữu của mình, cái mình yêu quý, cái mình đã buộc dính
vào. Do đó, ta đối mặt với một trong những nguyên nhân lớn nhất là dục vọng và
tham lam. Thật là hấp dẫn khi ta thấy lối sống này được hướng dẫn theo cách thức
mà khi áp dụng từng bước một, ta sẽ loại bỏ được một số nhược điểm và cá tính
con người vốn đã tạo ra sự căng thẳng và nhàm chán quấy nhiễu chúng ta hàng
ngày. Thái độ rộng lượng, bao dung với người khác là liều thuốc chống dục vọng,
tham lam, keo kiệt và ích kỷ.
Trì giới là giữ một số luật tắc đạo đức và luân lý. Đức Phật biết rõ là người ta
không thể đặt những điều lệ hay kỷ luật cho mọi người theo cùng một phương
cách. Vì vậy chỉ có một số luật tắc cho người tại gia. Có thêm một ít điều khác cho
những người muốn sống ở tự viện trở thành người xuất gia, những người tự
nguyện đi theo con đường nghiêm khắc của luật tắc và thanh tịnh hóa. Vì thế trì
giới là một sự thực hành dần dần để mỗi người chọn theo khả năng hiện tại của bản
thân.
Khác với các hệ triết học khác, Phật giáo còn một kho kinh nghiệm phong phú
về phương thức, kỹ thuật sử dụng những động tác thân xác đơn giản, hô hấp, đi,
đứng, ngồi, nằm... để thể hiện triết lý của mình trong thân xác, trong cuộc sống
hàng ngày, trong mỗi người như Thiền định. Thiền định hay luyện tập tâm trí, có
nghĩa nguyên thủy là phát triển, sự phát triển thêm trí tuệ. Đức Phật cho rằng mọi
24


sự đều phát nguồn từ tâm trí của con người, và Ngài là một trong những người đầu
tiên phát biểu về điều này. Hiến chương của Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu "Vì
chiến tranh bắt đầu từ trong tâm trí của con người, cũng từ trong tâm trí con người
mà sự bảo vệ hòa bình được thiết lập". Câu này phản ánh đúng theo tinh thần lời
dạy đầu tiên của Phật trong kinh Pháp Cú: " Tam dẫn đầu cá pháp, tâm làm chủ,
tâm tạo tác". Một tâm trí có thể được kiểm soát bởi ý chí, một tâm trì không chạy
theo ngoại cảnh để đưa đến sự căng thẳng và nhàm chán, ngược lại luôn được tỉnh

thức, luôn tự phát triển, luôn tự khám phá, một tâm trí như thế là kho báu lớn nhất
của con người.
Khi kinh tế ở giai đoạn khấm khá thì người ta có nhiều điều kiện để chú trọng
tâm linh.Mỗi người có một cái đạo của mình. Những người chọn đạo Phật thì tìm
đến cửa chùa như tìm đến niềm an vui cho tâm hồn của mình. Đạo Phật luôn tư
duy trên lợi ích của người khác (điều này đúng với đạo đức kinh doanh).
IV. Phật giáo đối với Doanh nghiệp:
Nếu có nhiều người hiểu và làm theo Phật dạy thì sẽ giúp cho họ chiêm nghiệm
đời mình, giúp họ cùng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tạo lợi nhuận mà không
gây ô nhiễm môi trường, không làm hàng giả, tham nhũng... có hại cho xã hội. Họ
làm giàu chính đáng, đem lại công ăn việc làm cho nhiều người, tạo ra cơ sở vật
chất cho xã hội. Việc làm giàu chính đáng là giúp cho đất nước phát triển và điều
này không những vô ngã mà nó còn có ích cho đất nước, cho mọi nguời. Họ xác
định việc cạnh tranh là lành mạnh, không phải là sự triệt tiêu lẫn nhau mà để cùng
nhau phát triển. Hiểu được những tư tưởng từ lời dạy của Đức Phật sẽ giúp các
doanh nghiệp và các nhà quản lý giữ được chữ”Tâm” và tạo được chữ”Tín” trong
thương trường khắc nghiệt ngày nay.

25


×