Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Vị thế của các đồng tiền mới nổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.14 KB, 45 trang )

Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

MỤC LỤC
Tỷ giá EUR/USD ở Việt Nam...................................................................................16
Về lĩnh vực đầu tư............................................................................................................................38
Về lĩnh vực vay nợ nước ngoài:.........................................................................................................38
Về dự trữ ngoại tệ:...........................................................................................................................38
Về tỷ giá hối đoái..............................................................................................................................39
Về chính sách lãi suất........................................................................................................................39

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
CECA
CEEA
CNY
DM
EC
ECB
ECU
EMU
EMS
EU


EUR
Eurozone
FF
IMF
JPY
NHTM
NHTW
USD

Nội dung
Cộng đồng than thép Châu Âu
Cộng đồng nguyên tử Châu Âu
Đồng Nhân dân tệ
Đồng Mác - Đức
Cộng đồng Châu Âu
Ngân hàng Trung ương Châu Âu
Đơn vị tiền tệ Châu Âu
Liên minh tiền tệ Châu Âu
Hệ thống tiền tệ Châu Âu
Liên minh Châu Âu
Đồng Euro
Khu vực đồng tiền chung Châu Âu
Đồng Phrăng Pháp
Quỹ tiền tệ thế giới
Đồng yên Nhật
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương
Đôla Mỹ

Nhóm 2 – Cao học 20S



Khoa Tài chính – Ngân hàng

1

Tài chính quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn
ra hết sức mạnh mẽ. Sự tham gia vào xu hướng chung đó gần như là lực chọn bắt buộc
đối với mỗi quốc gia nếu như muốn tồn tại và phát triển kinh tế theo kịp trình độ phát
triển của nền kinh tế thế giới. Liên minh Châu Âu ra đời là kết quả của hoạt động liên
kết kinh tế quốc tế. Năm 1999, đồng Euro chính thức ra đời đã đánh dấu một bước phát
triển mới của liên minh Châu Âu nói riêng và của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, với việc Trung Quốc vươn lên trở thành
nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới thì đồng Nhân Dân Tệ cũng đang dần có một vị thế nhất
định. Cả đồng Euro và đồng Nhân Dân Tệ đều có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống kinh
tế, xã hội của các nước thành viên và các nước khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu về vị thế đồng Euro và đồng Nhân Dân Tệ, cũng như ảnh hưởng
của các đồng tiền mới nổi này đối với các nước là hết sức cần thiết và đang trở thành đề
tài đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế hiện nay.
Được sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo, nhóm chúng tôi đã lựa
chọn đề tài “Vị thế của các đồng tiền mới nổi ” làm đề tài thảo luận nhóm. Nội dung bài
viết gồm có 3 chương:
Chương 1: Liên minh tiền tệ Châu Âu và vị thế đồng Euro hiện nay.
Chương 2: Vị thế đồng Nhân Dân Tệ.
Chương 3: Ứng dụng mô hình toán để đánh giá rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối.
Mặc dù vậy, do còn có những hạn chế nhất định trong kiến thức và kinh nghiệm

thực tiễn nên bài viết của nhóm em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn để nhóm em có thể nâng cao kiến thức, kỹ
năng và hoàn thiện bài viết hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

1

CHƯƠNG 1
LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ
VỊ THẾ CỦA ĐỒNG EURO HIỆN NAY
1.1 - LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU
1.1.1 - Sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu
Ngày 01/07/1967, Cộng đồng Châu Âu (EC) chính thức ra đời dựa trên sự hợp
nhất của Cộng đồng than thép châu Âu (CECA), cộng đồng nguyên tử châu Âu (CEEA)
và cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC). Tât cả các thành viên của EEC đều tham gia vào
EC. Mục đích chính của việc thành lập EC là tạo ra sự hợp tác, liên kết ở mức độ cao
hơn, mở rộng phạm vi liên kết, không chỉ là liên kết kinh tế.
Qua các lần mở rộng, số thành viên tham gia nhiều hơn, Cộng đồng châu Âu lớn
mạnh dần về quy mô. Tuy nhiên càng mở rộng nhiều thành viên hơn, sự phối hợp sẽ
phức tạp hơn và nhiều vấn đề về lợi ích sẽ khó dung hòa hơn. Điều đó đã thôi thúc châu
Âu đi tới hội nghị Maastrich ký ngày 07/02/1992. Cộng đồng châu Âu đổi tên thành
Liên Minh Châu Âu (EU) và chính thức hoạt động ngày 1/1/1993. EU gồm 15 thành
viên, mục đích chính của EU là tạo ra sự thống nhất cao, tạo điều kiện phát triển kinh tế

các nước thành viên, củng cố sức mạnh toàn khối tiến tới thành lập khu vực tiền tệ để
EU có đủ sức mạnh cạnh tranh và hợp tác có hiệu quả với các nước, các khối liên minh
khác. Liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hóa và dịch vụ, đã có cự hợp
tác liên kết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Song để thị trường chung thực sự trở nên
thống nhất thì các rào cản tiền tệ phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều này chỉ có được khi
chỉ có một đồng tiền chung được lưu hành và được điều hành thống nhất bằng một chính
sách tiền tệ chung. Chính vì vậy, Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) được thành lập mà
nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành đồng tiền chung trong toàn khối. Cùng
với sự ra đời của Hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) là sự ra đời của đơn vị tiền tệ châu
Âu: đồng ECU có chứ năng nhất định như tính toán, thanh toán, dự trữ, song rất hạn chế
trong phạm vi nhất định.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

2

Quá trình xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ gồm 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Từ 01/07/1990 đến 31/12/1993: phối hợp chính sách tiền tệ và chính
sách kinh tế giữa các nước, hoàn chỉnh quá trình lưu thông và tự do vốn, phối hợp chính
sách tiền tệ giữa các nước, đặt nền kinh tế quốc gia dưới sự giám sát nhiều bên.
Giai đoạn 2: Từ 01/01/1994 đến 01/01/1999: tiếp tục phối hợp chính sách kinh tế,
tiền tệ nhưng ở mức cao hơn, để chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của đồng Euro.
Giai đoạn 3: Từ 01/01/1999 đến 30/06/2002: ra đời đồng Euro, công bố tỷ giá
chính thức giữa đồng Euro và các đồng tiền quốc gia.
1.1.2 - Quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu – Đồng Euro

Năm 1970, ý tưởng về Liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa lần đầu tiên.
Tuy nhiên, năm 1980 mục đích thành lập Liên Minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền
tệ thống nhất đã thất bại mà nguyên nhân chính là do sự sụp đổ của hệ thống Bretton
Woods. Thay vào đó Liên Minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972.
Đến năm 1979, hình thành hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) với nhiệm vụ:
+ Phối hợp thanh toán và chuyển nhượng giữa các đồng tiền trong cộng đồng
+ Hướng tới thành lập NHTW cho cả châu Âu
+ Phát hành EUC trái phiếu vào năm 1986-1987
Năm 1988, một Ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo
của Chủ tịch Ủy ban châu Âu đã soạn thảo đưa ra phương án thành lập Liên Minh kinh
tế và tiền tệ châu Âu hướng tới hình thành đồng tiền chung theo 3 bước:
Bước 1: Ngày 01/07/1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước
trong Liên Minh Châu Âu.
Bước 2: Ngày 01/01/1994, Viện Tiền tệ Châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước
thành viên bắt đầu được xem xét. Ngoài ra, ngày 16/12/1995 Hội đồng châu Âu quyết
định tên gọi của tiền chung là “EURO”.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

3

Tài chính quốc tế

Bước 3: Tháng 05/1998 tiến hành lựa chọn những quốc gia hội đủ các điều kiện
Maastricht để trở thành thành viên EMU và đồng thời công bố tỷ giá song phương giữa
các đồng tiền thành viên. Bước chuyển đổi này được mô tả thông qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ 1: Được bắt đầu từ tháng 5/1998, Hội đồng châu Âu xác định những
nước hội tụ đủ các tiêu trí hội nhập trong năm 1997 và khả năng hội nhập của từng nước
trong năm 1998. Sau khi các nước đã được lựa chọn trỏa thành thành viên EMU thì ECB
cũng đuọc thành lập trên cơ sở Viện Tiền tệ châu Âu với nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm
quá trình chuyển tiếp xảy ra một cách trơn chu và hình thành chính sách tiền tệ chung
của đồng Euro.
Thời kỳ 2: Bắt đầu từ 01/01/1999 bằng việc cố định tỷ giá của các đồng tiền thành
viên với Euro. Đồng Euro trở thành đồng tiền hợp pháp và thay thế đồng ECU tại mức tỷ
giá chính thức. Trong thời kỳ này, đồng Euro chưa xuất hiện ngay dưới hình thức giấy
bạc và tiền xu, nhưng bảo đảm rằng hầu hết các số dư trên tài khoản ngân hàng và nợ
quốc gia mới phát sinh phải được ghi bằng đồng Euro. Cũng tại thời điểm này, Viện
Tiền tệ châu Âu giải thể và Hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm ECB và
các Ngân hàng trung ương quốc gia bắt đầu hoạt động với đồng Euro. Song song với các
đồng tiền quốc gia, Euro được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch ngân hàng dựa theo
nguyên tắc chỉ đạo là “không cấm, không bắt buộc”.
Thời kỳ 3: Được bắt đầu từ 01/01/2002, song song với những tờ giấy bạc và tiền
xu quốc gia là sự xuất hiện của các tờ giấy bạc và tiền xu bằng Euro trong thời gian tối
đa là 6 tháng. Cả 2 loại tiền quốc gia và Euro đều là đồng tiền hợp pháp và mọi người
đều có quyền chuyển đổi tự do đồng tiền quốc gia sang Euro tại các Ngân hàng Thương
mại (NHTM) hay tại Ngân hàng Trung ương (NHTW) quốc gia. Tại thời điểm cuối
tháng 6/2002, đồng Euro trở thành đồng tiền hợp pháp duy nhất tại các quốc gia thành
viên EMU.
1.2 - VỊ THẾ ĐỒNG EURO
1.2.1 - Vai trò của đồng Euro
1.2.1.1 - Đối với các quốc gia thành viên

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng


Tài chính quốc tế

4

Đồng Euro ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế giữa các nước này. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện
thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác
động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo
bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem
lại lợi cho các nước EU khoảng 200 tỷ ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các
nước thành viên.
Sự ra đời của đồng Euro sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của
việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như
việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối. Cuộc khủng hoảng EMS năm 1992 là một
ví dụ: Để thu hút ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh
tế bị phá sản của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm
cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với
mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các
đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương
hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM).
Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn
công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc
khủng hoảng EMS vào năm 1992-1993 đã làm cho EMS cũng như nền kinh tế các nước
thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm
cho các nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng Euro với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) - thay thế các NHTW các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện
một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không

còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài
chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và
phát triển hơn trước.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

5

Tài chính quốc tế

Người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một
khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng
việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các
nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng Euro được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá
bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng Euro nên sẽ làm
giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên
việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa
các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không
còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời EMU, duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ
có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia EMU.
Thứ nhất, trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ, việc ECB đảm nhiệm
chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia EMU
mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh
tế gặp khủng hoảng.
Thứ hai, việc duy trì được một đồng Euro mạnh là một vấn đề khó khăn cho các

nước tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau,
mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc
đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm bảo
cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu
EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo trong
ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu cho
phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất
là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở nhiều nước Tây
Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ đương quyền mỗi khi
các cuộc bầu cử đến gần.
1.2.1.2 - Đối với nền kinh tế thế giới

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

6

Tài chính quốc tế

 Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới:
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế
kỷ qua bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và
đồng Euro chi phối. Nếu đồng Euro giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và
vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh.
 Sự thách thức của đồng Euro đối với đồng USD trên các lĩnh vực dự trữ ngoại
tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán:
- Về dự trữ ngoại tệ: Khi Euro ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở
thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu

về dự trữ ngoại tệ của ECB sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng ECB sẽ bán đi một số
lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng Euro trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế
mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ
giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng Euro (mức độ ít nhiều còn
tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng Euro). Đây có thể là một nhân tố gây tác động
làm giảm giá đồng đôla Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước
đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và
ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều
nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ
của ta sau này.
- Về ngoại thương: Trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất
khẩu) dùng nhiều USD nay chuyển sang thanh toán bằng đồng Euro sẽ làm cho kim
ngạch thanh toán bằng đồng đôla Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU
chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá
trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc
Mỹ phải sử dụng đồng Euro, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả Euro. Đối với thương mại
thế giới khi đồng Euro ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có
xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng Euro thay thế USD trong thanh toán một số giao

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

7

Tài chính quốc tế

dịch ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm

giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới.
- Về giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán: Dung lượng và khả năng
thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của
tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU
chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Do đó, khi Euro xuất hiện trên thị trường tài
chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng khoán và trong việc phát hành
công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng Euro, do vậy nhu cầu về USD trên
thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
 Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng Euro có thể sẽ gây ra một số
rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm
trong quan hệ quốc tế phát triển.
- Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của
đồng Euro và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Đồng Euro ra đời sẽ
là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí
truyền thống của đồng USD. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu
giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn.
- Sau khi Euro ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ
phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các
nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó, một
phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng Euro ra đời.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước
thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng Euro.
Tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng Euro là cố định, nhưng lãi suất
sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước
nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích
hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng Euro.
Tóm lại, sau khi đồng Euro ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi cơ
bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc

Nhóm 2 – Cao học 20S



Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

8

tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở
các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ
xuất hiện thêm Euro, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của
USD, và như vậy việc ra đời của Euro không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác
động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
1.2.2 - Diễn biến và vị thế của đồng Euro từ khi ra đời cho tới nay
1.2.2.1 - Vị thế đồng Euro giai đoạn đầu
Từ 1/1/1999 bắt đầu đưa đồng Euro (EUR) vào lưu hành. Giai đoạn đầu từ
1/1/1999 đến 1/1/2002 đồng EUR không lưu hành bằng tiền mặt. Từ 1/1/2002 đến tháng
7/2002 bắt đầu lưu hành đồng EUR bằng tiền giấy và tiền kim loại song song với các
đồng tiền bản địa, tại 12 quốc gia châu Âu là Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp,
Ireland, Italia, Luxemburg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Và từ tháng 7/2002 các
đồng tiền bản địa không còn tồn tại. Ngoài ra đồng tiền này còn là đồng tiền chính thức
của công quốc Monaco, San Marino và Vatican.

Các kết quả thống kê, thăm dò của Ủy ban châu Âu (EC) cho biết 5 năm sau khi
được lưu hành trên thị trường (từ 1/1/2002), đồng tiền chung châu Âu - Euro đã trở
thành một phần trong cuộc sống và sinh hoạt của những người dân châu Âu trong khu
vực sử dụng đồng tiền chung (eurozone). Ngoài eurozone, tiền giấy euro cũng đã khá
thông dụng.



Euro đã dần trở thành đồng tiền mạnh

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

9

Tài chính quốc tế

Trước khi đồng tiền này chính thức ra thị trường, mọi người đã nghi ngờ và có cái
nhìn tiêu cực về mọi điều, nhưng 3 năm qua và đến nay đồng euro tiếp tục mạnh lên. Các
nhà phân tích thị trường tiền tệ cho rằng cái nhìn tiêu cực giờ đây đã là chuyện lịch sử.
Euro giờ được xem là đồng tiền mạnh. Và sau những thăng trầm trong 4 năm đầu tiên,
đồng euro đã tạo được vị thế đáng kể, đánh bạt các chỉ trích, nghi ngờ về tính cạnh tranh
của nó với đồng đôla Mỹ, đồng bảng Anh và đồng Yên Nhật. Theo thống kê của EC,
tổng giá trị euro giấy lưu hành trên thị trường đã tăng gấp ba lần so với thời điểm mới
được lưu hành, từ 221 tỷ euro trong tháng 1/1999 lên 595 tỷ vào tháng 10/2006. Lượng
tiền xu được lưu thông có phần hạn chế hơn, từ 13 tỷ euro lên 17,6 tỷ euro.
Ngoài Eurozone, tiền giấy euro được sử dụng khá thông dụng, thậm chí được lưu
hành gần như song song với đồng nội tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế. Lượng
tiền mặt lưu hành trên thị trường tăng nhanh và đã lên tới 600 tỷ euro (cuối năm 2006).
Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng EUR cũng thể hiện qua một khía cạnh
khác: trong năm 1999 có 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng EUR, trong
năm 2001 là 27,4% và năm 2003 đã là 33%.
Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các
loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi. Cuối tháng 9/2004 có
trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế giới, trong đó có
5.400 tỉ là đồng EUR, 4.800 tỉ là đồng Đôla Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yên

và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đôla Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các
tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5%
trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền EUR tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%.
Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán EUR trên các thị trường ngoại tệ là 25% so với 50% của
đồng Đôla Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yên Nhật. Đồng Euro vì vậy là
tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.
Đồng euro ngày càng được các công ty cũng như các chính phủ từ Trung Quốc
đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ . Đồng đôla Mỹ có lúc
trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an toàn cho nền tài chính tiền tệ các nước và nhiều
nước chủ trương thay thế vị trí độc tôn của USD bằng euro.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

10

Bảng 1.1: Tỷ giá hối đoái EUR/USD (Đôla Mỹ/ 1 Euro) qua các năm
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

2007
2008
2009
2010

Thấp nhất ↓
Ngày
Tỷ giá
03/12
$1.0015
26/10
$0.8252
06/07
$0.8384
28/01
$0.8578
08/01
$1.0377
14/05
$1.1802
15/11
$1.1667
02/01
$1.1826
12/01
$1.2893
27/10
$1.2460
04/03
$1.2555

05/05
$1.2924

Ngày
05/01
06/01
05/01
31/12
31/12
28/12
03/01
05/12
27/11
15/07
03/12
13/01

Cao nhất ↑
Tỷ giá
$1.1790
$1.0388
$0.9545
$1.0487
$1.2630
$1.3633
$1.3507
$1.3331
$1.4874
$1.5990
$1.5120

$1.4563

(Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB)
 Đồng Euro ngày càng khẳng định vị trí của mình trong quỹ dự trữ của các
Ngân hàng Trung ương trên thế giới
Theo một nghiên cứu của ECB, trong giai đoạn 2001 – 2003, tỷ lệ của đồng Euro
trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu đã tăng lên, còn tỷ lệ của đồng Đôla Mỹ giảm xuống.

Theo những số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF)công bố vào cuối
quý I/2007, tỷ trọng của đồng Euro trong quỹ dự trữ trao đổi ngoại tệ trên toàn cầu đã
đạt mức 25,8% (tính đến hết năm 2006), so với năm 1999, thời điểm đồng Euro mới
được đưa vào sử dụng, tỷ lệ này chỉ là 17,9%.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

11

Tài chính quốc tế

Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng đã giảm đồng USD trong kho dự trữ
ngoại tệ, tăng dự trữ các ngoại tệ khác, trong đó phần lớn là euro. Các ngân hàng trung
ương của Qatar, Thụy Điển, Nga và Các tiểu vương quốc Arab cũng theo đó chuyển
USD khỏi kho dự trữ ngoại tệ. Và đồng euro là ứng cử viên hàng đầu cho sự chuyển
hướng đó. Đây là xu hướng chung của khu vực châu Á. Các quỹ dự trữ ngoại tệ trao đổi
của các ngân hàng Trung ương châu Á đã tăng 150% trong vòng 5 năm, đạt con số 5.000
tỷ USD tính đến hết năm 2006. Trong đó, không thể kể đến phần dự trữ đáng kể của
Trung Quốc với con số hơn 1.000 tỷ USD trong năm 2006; vượt qua Nhật Bản. Tiếp đến

là một loạt các Ngân hàng Trung ương khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông cũng
đang cuốn trong vòng xoáy này.
Theo Francoise Bernard, phụ trách Ban Chiến lược Thị trường tài chính của Ngân
hàng Quốc tế Fortis, đánh giá rằng nguyên nhân của việc các ngân hàng Trung ương đều
hướng tới đồng Euro rõ ràng là do việc đồng Euro tăng giá trong thời gian này. Tuy
nhiên, để đồng Euro thực sự trở thành đối trọng trong quỹ dự trữ ngoại tệ cần một quá
trình dài lâu. Để có được sự thay đổi mang tính chất quyết định đối với vai trò của đồng
Euro hiện nay trên toàn cầu, theo Francoise Bernard, đó là sự tham gia của các nước có
thế mạnh về sản xuất nguyên liệu cơ bản như Anh, Na Uy vào khu vực sử dụng đồng
tiền chung châu Âu. Trong kịch bản này, việc định giá tất cả các mặt hàng sản xuất sẽ
được căn cứ theo đồng Euro. Cho đến nay, đồng Bảng của Anh vẫn giữ một vị trí rất
quan trọng trong quỹ dự trữ ngoại tệ thế giới; với tỷ trọng đạt 4,4% vào năm 2006 (so
với 2,8% vào năm 2003). Việc Anh gia nhập khu vực sử dụng đồng Euro sẽ là động lực
tạo nên sự khác biệt cho vị thế của đồng Euro.
 Những vấn đề của đồng Euro
Trong khi đồng euro nhanh chóng trở thành một đồng tiền chuẩn dùng trong mua
bán, thì theo thăm dò của Viện Gallup, có 4 nước trong số các nước dùng đồng Euro nói
vẫn gặp khó khăn với đồng tiền này. Mua bán những món hàng lớn, như nhà cửa, xe hơi
họ vẫn tính theo đồng tiền cũ hơn là đồng Euro. Có đến 41% vẫn cho rằng họ có một số
khó khăn với đồng Euro.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

12

Tài chính quốc tế


Hiện nay, đồng euro vận hành tốt nhất ở Ireland và Luxemburg: 81% và 77% dân
hai nước này nói họ không gặp vấn đề gì khi sử dụng đồng tiền này. Nhưng tại Italia, số
người gặp rắc rối với đồng euro (56%) đông hơn người nói chẳng có khó khăn gì (45%).
Tại Đức, Hà Lan và Áo, đồng xu bị “chê” nhiều nhất với tỷ lệ lần lượt: 37%, 31% và
29%. Với người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Phần Lan, chuyện về những đồng xu
nặng túi chỉ chiếm 7% đến 9% . Tỷ lệ những người xem việc sử dụng tiền giấy euro khó
khăn là khá thấp.
Các cuộc thăm dò cũng cho thấy mặc dù có tới 68% người dân châu Âu tỏ ra hài
lòng với đồng euro nhưng cũng tồn tại cảm giác cho rằng chính đồng euro là nguyên
nhân mặt bằng giá cả sinh hoạt tăng cao.
Nhìn chung, đồng tiền chung Châu Âu – Euro ra đời đã mang lại nhiều lợi ích cho
nền kinh tế EU ở tầm vĩ mô và vi mô, giúp hạn chế lạm phát, ổn định tình hình kinh tế.
1.2.2.2 - Vị thế đồng Euro trong cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu hiện nay
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2009 và đặc biệt bước
sang năm 2011, nền kinh tế các nước nhóm EU và đồng Euro đang phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn. Các nhà phân tích kinh tế quốc tế ở Châu Âu cảnh báo không nên ảo
tưởng về triển vọng kinh tế Châu Âu và khẳng định cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay
đang lan tới trung tâm Khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone). Lời cảnh báo trên
được đưa ra trong bối cảnh các thị trường ở Eurozone có nhiều diễn biến tiêu cực và một
số cơ quan xếp hạng tín dụng quốc tế cảnh báo sẽ hạ mức xếp hạng tín dụng của một số
nền kinh tế đầu tàu trong Eurozone.
Nhận xét về tình hình kinh tế hiện nay, Ủy viên châu Âu phụ trách vấn đề kinh tế
và tiền tệ Olli Rehn ủng hộ chủ trương Ủy ban châu Âu áp đặt các chính tế kinh tế khắc
khổ và khẳng định đó là phương hướng đúng để có thể giúp vực dậy các nền kinh tế
đang khó khăn trong khu vực.
Cùng ngày, cơ quan xếp hạng tín dụng Moody's cảnh báo nợ công ngày càng tăng
cùng với tăng trưởng kinh tế đang yếu đi ở Pháp có thể làm khiến các nhà phân tích có
những dự đoán bi quan về triển vọng của nền kinh tế lớn thứ hai Eurozone này. Moody's

Nhóm 2 – Cao học 20S



Khoa Tài chính – Ngân hàng

13

Tài chính quốc tế

còn cảnh báo thị trường trái phiếu ngày càng bất ổn ở Pháp có thể khiến mức xếp hạng
tín dụng "AAA" hiện thời mà chính phủ nước này đang nỗ lực duy trì, bị hạ xuống mức
thấp hơn.
Trong khi đó, thị trường tài chính Tây Ban Nha cũng chưa có những dấu hiệu
khởi sắc mặc dù tân chính phủ cam kết sẽ thực hiện các biện pháp kinh tế khắc khổ để
vực dậy nền kinh tế.
Các nhà phân tích còn cảnh báo tình trạng lãi suất trái phiếu chính phủ ở một số
nền kinh tế gặp khó khăn ở Eurozone hiện nay như Tây Ban Nha, Italy, Pháp và Bỉ có
thể khiến các nhà đầu tư đổ xô sang đầu tư vào thị trường Đức mà họ cho là an toàn hơn.
Còn tại Hy Lạp, chính phủ lâm thời đang nỗ lực chạy đua với thời gian để cứu
nước này khỏi nguy cơ vỡ nợ và khả năng phải rút khỏi Eurozone.
Thủ tướng Anh cũng lên tiếng bày tỏ lo ngại về những khó khăn trong kiểm soát
nợ công ở Anh, một nền kinh tế lớn ở châu Âu không thuộc Eurozone. Ông thừa nhận
rằng việc kiểm soát các khoản nợ của Anh là “khó khăn hơn nhiều so với dự kiến”.
Trước bổi cảnh cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, đồng Euro không sụp đổ,
nhưng với vai trò là một đồng tiền dự trữ quốc tế, đồng EUR đã đang đánh mất vị thế
của mình. Cùng lúc đó là những dự đoán kinh khủng về tương lai đổ vỡ của đồng EUR,
cái giá phải trả có thể không tưởng tượng được. Nếu, ví dụ, Hy Lạp phải trở về với đồng
Drachma (đồng nội tệ của Hy Lạp trước khi gia nhập khối đồng tiền chung Châu Âu),
điều gì sẽ xảy ra với nghĩa vụ nợ của quốc gia này tính theo đồng EUR ? Liệu chúng có
được thanh toán bằng EUR, điều sẽ làm tăng gánh nặng nợ của Hy Lạp? Hay chúng sẽ
được thanh toán bằng Drachma, với tỷ giá như thế nào? Vì vậy, đồng EUR có thể rơi

vào hết cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác.
Đồng USD, đồng tiền dự trữ quốc tế, trong khi đó, được phát hành bởi một chính
phủ với sự thống nhất về tài chính và tiền tệ. Nhưng điều đó cũng không ngăn được làn
sóng tìm các danh mục tiền tệ thay thế. Trung Quốc đang thúc đẩy một đồng tiền siêu
dân tộc, một đồng tiền không phụ thuộc vào bất kỳ một quốc gia nào. Cùng lúc đó, Nga
và Trung Quốc đã quyết định sử dụng đồng tiền của hai quốc gia trong thương mại song
phương và loại bỏ đồng USD ra khỏi giao dịch. Trên thực tế, Brazil và Trung Quốc đã

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

14

Tài chính quốc tế

bắt đầu sử dụng đồng tiền riêng của hai nước để giao thương kể từ khi Trung Quốc trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của Brazil, hất cẳng đồng USD.
Không có nghi ngờ gì về việc hệ thống tiền tệ thế giới sẽ giảm bớt sự thống trị
của đồng USD trong những thập kỷ tới. Nhưng đồng EUR, với những rắc rối hiện nay
không còn được xem là một đồng tiền thay thế vững chắc.
1.2.3 - Những kịch bản cho tương lai của đồng Euro
Kinh tế khu vực đồng Euro tăng trưởng yếu trong quý một 2010. Trong đó, Ngân
hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã buộc phải can thiệp vào thị trường trái phiếu chính
phủ - một việc làm chưa từng xảy ra trước đây. Vậy, tương lai của đồng Euro sẽ ra sao?
Dưới đây là nhận định của các nhà kinh tề về đồng tiền này.
Thứ nhất: Đồng Euro sẽ hồi phục: Cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời gian
qua, buộc chính phủ các nước Châu Âu phải củng cố lại nguồn tài chính, cải thiện nền
kinh tế của nước mình và đồng Euro lại trở thành động lực để phát triển kinh tế toàn cầu.

Thêm vào đó, các chương trình cứu trợ kinh tế của EU và IMF dành cho Hy Lạp sẽ thúc
đẩy nền kinh tế nước này. Các nước khác có thể rút kinh nghiệm, đề phòng từ cuộc
khủng hoảng kinh tế của Hy lạp. Điều này có thể giúp cho nền kinh tế phát triển ở nhiều
nước. Trong tương lai, "những mất cân bằng kinh tế" sẽ sớm được giải quyết. Các thể
chế cũng sẽ được thành lập để giải quyết cuộc khủng hoảng một cách có trật tự và nhanh
chóng. Do vậy, đồng euro sẽ lại trở thành một thách thức đối với đồng đô la Mỹ trong
vài trò là một dự trữ ngoại tệ mạnh
Thứ hai: Đồng euro sẽ ổn định trở lại. Các kế hoạch cứu trợ của các nước
Eurozone và ECB có thể sẽ giúp nền kinh tế thị trường tạm thời ổn định, lòng tin của
những nhà đầu tư tạm thời phục hồi. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu Eurozone sẽ ổn
định trở lại. Tuy nhiên điều này vẫn không giải quyết được các vấn đề cơ bản trong nội
tại, đã được phơi bày trong cuộc khủng hoảng. Những thay đổi đó không đủ để eurozone
tăng trưởng.
Thứ ba: Đồng euro yếu. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu yếu đi vĩnh viễn.
Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ tại nước

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế

15

này. Một loạt các nước bước theo chân Hy lạp như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Các
nước này buộc phải đưa ra chính sách thắt lưng buộc bụng. Kéo theo đó là bất ổn xã hội
tăng lên. Một loạt ngân hàng tại các nước Châu Âu bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng. Điều
này sẽ đe dọa toàn bộ khu vực Châu Âu rơi vào suy thoái. Đồng euro mất giá, lạm phát
tăng cao.

Thứ tư: Đồng Euro tan vỡ. Một số nước quyết định rút ra khỏi eurozone và khu
vực eurozone đổ vỡ do căng thẳng quá mức, không thể kiểm soát nổi. Nếu kinh tế Hy
Lạp sụp đổ, suy thoái kinh tế và thất nghiệp tăng lên, sự oán giận của công chúng đối với
đồng euro tăng lên, cơn ác mộng này có thể trở thành hiện thực. Không ai muốn điều này
và cũng chưa ai nghĩ đến việc chuẩn bị cho kế hoạch eurozone tan vỡ, nhưng điều này
không phải không thể xảy ra.
1.2.4 - Những ảnh hưởng của biến động đồng Euro tới Việt Nam
Gần đây người dân VN đã dần chấp nhận đồng euro như một phương tiện để
thanh toán, đầu tư và dự trữ. Việc trao đổi, mua bán đồng euro tại các ngân hàng và các
thị trường không chính thức cũng đã phổ biến hơn. Khách du lịch có thể đổi euro tại các
quầy đổi tiền một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, tỷ trọng các giao dịch thanh toán thương
mại bằng euro mới chỉ chiếm khoảng 10-13% tổng giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ.
Nếu tính tỷ trọng tiết kiệm bằng đồng euro trong tổng tiết kiệm thì tỷ lệ này chỉ vỏn vẹn
2,7%. Trong khi đó, chỉ 10-15% các thanh toán giữa doanh nghiệp VN và doanh nghiệp
EU được sử dụng euro. Những con số này cho thấy, tỷ lệ sử dụng euro ở VN vẫn chưa
đáng kể và chưa tương xứng với tiềm năng của đồng tiền này.
Nguyên nhân của thực trạng trên được lý giải là xuất phát từ thực tế chính sách
tiền tệ quá phụ thuộc vào USD hiện nay của VN. Từ trước đến nay, chính sách tỷ giá của
VN neo chủ yếu vào đồng USD, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng USD như
là một công cụ thanh toán quốc tế chủ đạo.
Thêm vào đó, nhu cầu vay USD và nguồn tiền gửi bằng USD hiện cũng rất lớn,
trong khi nhu cầu vay euro rất thấp, chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng dư nợ cho vay bằng
ngoại tệ của VN. Chính vì vậy, lãi suất ngoại tệ trên thị trường VN được thống kê, theo

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

Tài chính quốc tế


16

dõi chủ yếu là lãi suất của USD. Sự biến động lãi suất vẫn phụ thuộc chủ yếu vào biến
động lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ và cung cầu ngoại tệ trên thị trường VN, ít
chịu ảnh hưởng của lãi suất đồng euro.
Tuy nhiên, với mối quan hệ kinh tế, thương mại đã có từ lâu, tương lai của đồng
euro ở VN được các chuyên gia kinh tế đánh giá là rất khả quan. Hiện EU đứng ở Top 5
thị trường xuất khẩu lớn của VN và là thị trường tiềm năng của các ngành công nghiệp
dệt may, thực phẩm, thuỷ sản, vật liệu xây dựng...
 Tỷ giá EUR/USD ở Việt Nam
Tính từ tháng 5 năm 2000 đến tháng 12 năm 2008 tỷ giá giữa USD so với VND
đã tăng từ 13.900VND lên mức 17.050VND tức là USD tăng 22,7% so với VND. Còn tỷ
giá giữa EUR so với VND đã tăng 66% từ 14.000VND lên mức 23.241VND
Tỷ giá giữa VND với Euro chủ yếu vẫn được tính chéo với tỷ giá của VND với
USD và Euro với USD. Do vậy, tỷ giá của VND với Euro biến động hoàn toàn gắn với
sự biến động của tỷ giá giữa Euro và USD.
Mức tăng tỉ giá VND so với một số đồng tiền
Đôla
Canada
(CAD)

Bảng
Anh
(GBP)

Franc
Thụy Sĩ
(CHF)


USD

EUR

Đôla Úc
(AUD)

01/01/2011

19500

27835.59

21254.42

20858.44

32214.87

22326.47

23/12/2011

21021

27881.45

21561.82

20841.56


33503.93

22867.39

Mức tăng

7.80%

0.16%

1.45%

-0.08%

4.00%

2.42%

(Nguồn: Vietcombank)
Tỷ giá của VND so với các đồng tiền chủ chốt khác biến động mạnh được giải
thích bởi quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhưng nhìn
chung, có hai yếu tố chính tác động đến tỷ giá VND với các ngoại tệ khác đó là cung cầu
ngoại tệ và lạm phát.
- Cung cầu ngoại tệ:

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng


17

Tài chính quốc tế

Hiện nay nguồn cung ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam là FDI, ODA và lượng kiều
hối do đồng bào việt kiều ở nước ngoài gửi về. Nhưng nước ta lại là nước nhập siêu, nên
cung ngoại tệ của Việt Nam luôn luôn thiếu so với cầu. Điều này cũng là một yếu tố
khiến tỷ giá của VND so với các đồng ngoại tệ như USD, EUR luôn luôn giảm. Cung
cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá
hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó
có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến
khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân
thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguồn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán
cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá
và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu
tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản
xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi.
Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm
cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao. Thêm vào đó là thói quen dự trữ ngoại tệ của người
dân hay còn gọi là đô la hóa. Đây là hiện tượng thường gặp phải ở các nền kinh tế
chuyển đổi. Tại Việt Nam, đôla hóa vẫn khá phổ biến với thói quen dự trữ tài sản, giao
dịch, mua bán, niêm yết giá bằng ngoại tệ. Hiện tượng đôla hoá gây ảnh hưởng nhất định
đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Mức cung tiền trở nên khó
dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định ảnh hưởng đến việc hoạch định
các chính sách.
- Lạm phát:
Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ
giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương
đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào

mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì
đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại.
Dự đoán biến động tỷ giá ngoại tệ trong thời gian tới được đánh giá là khó khăn
cho thị trường tài chính thế giới nói chung, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Yếu tố

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

18

Tài chính quốc tế

lạm phát của Việt Nam là yếu tố chính quyết định đến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam, và
yếu tố này sẽ làm cho VND ngày càng mất giá so với các đồng tiền mạnh khác. Thêm
vào đó, việc VND đang được đảm bảo bằng USD, trong khi USD lại đang gặp rất nhiều
vấn đề nghiêm trọng. Nên không loại trừ khả năng đồng tiền Euro sẽ tăng giá rất mạnh
so với VND.
 Ảnh hưởng bởi đồng USD mất giá so với đồng EUR
Một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất thời gian qua trên thị trường tiền
tệ thế giới là sự lên giá không ngừng của đồng Euro so với USD.
Các doanh nghiệp đã nhập khẩu hàng hóa từ EU chưa thanh toán hết bằng Euro
đang lâm vào hoàn cảnh mất cả lãi và thâm hụt vốn bởi giá Euro hiện tăng quá cao so
với thời điểm 1 tháng trở về trước, khi đồng tiền này được các doanh nghiệp lựa chọn
làm đồng tiền thanh toán hàng hóa với đối tác. Các doanh nghiệp xuất khẩu còn bị nợ
tiền bằng USD cũng thiệt hại không nhỏ. Đồng USD giảm giá khiến tỷ giá VND/USD
lên cao nhất trong năm nay và câu hỏi đặt ra với nhiều doanh nghiệp là liệu Chính phủ
Việt Nam có tác động gì vào đồng bản tệ để có một ''đồng Việt Nam yếu'', giành lợi thế
cho xuất khẩu?

Trạng thái ngoại hối của các ngân hàng trong nước hiện phần lớn vẫn bằng USD.
Mặc dù ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng được duy trì một tỷ lệ nhất định
các ngoại tệ mạnh khác trong trạng thái ngoại hối, rất ít ngân hàng lựa chọn EUR. Việc
duy trì trạng thái ngoại hối bằng các ngoại tệ khác lại càng hiếm hoi. Lý do là đồng tiền
Việt Nam đang bám chặt và chỉ bám vào USD. Vì thế ở thời điểm hiện tại, USD có thể
mất giá trên thị trường quốc tế, nhưng ở Việt Nam từ đầu năm đến nay USD vẫn tăng so
với tiền đồng. Ngân hàng Nhà nước lập luận, tình hình này có tác dụng khuyến khích
xuất khẩu và bảo đảm sự ổn định của đồng nội tệ. Ở góc độ doanh nghiệp, đúng là việc
bán hàng ra nước ngoài, thu USD, không ảnh hưởng đến công việc sản xuất kinh doanh
của họ. Tuy nhiên, trên bình diện quốc gia, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam được
tính bằng USD đang giảm (với cùng một số lượng) nếu so với các ngoại tệ mạnh khác.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

19

Tài chính quốc tế

 Ảnh hưởng bởi đồng EUR mất giá so với đồng USD
Việc EUR giảm giá so với USD không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế Việt
Nam và các doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ các doanh nghiệp có các khoản nợ, hợp đồng
nhập khẩu phải thanh toán bằng EUR thì được lợi, đó là các doanh nghiệp nhập khẩu
thiết bị xi măng, dầu khí, chế biến hoa quả, hoá chất... từ thị trường một số quốc gia ở
châu Âu sử dụng EUR. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu nào có nguồn thu bằng EUR
khi tính đổi ra VND thì bị thiệt. Tuy vậy, do khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam
phần lớn đều đề nghị thanh toán bằng USD, còn khi nhập khẩu và trả nợ thì một số
doanh nghiệp đã tìm đến nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá Option của các NHTM nên

ảnh hưởng cũng không nhiều.

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

20

Tài chính quốc tế

CHƯƠNG 2
VỊ THẾ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ
Ngay khi đã vượt qua Nhật để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới sau
Mỹ, Trung Quốc đang tính đến bước tiếp theo để trở thành cường quốc thế giới: đưa
đồng nội tệ thành đồng tiền quốc tế

Phải mất bao lâu đồng nhân dân tệ mới có thể trở thành đồng tiền quốc tế?

Không ai có thể nghi ngờ về sự vươn lên mạnh mẽ của đồng nhân dân tệ. Bởi vì
nền kinh tế toàn cầu đang trở nên đa cực thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng sẽ trở nên đa
cực hơn, với một số đồng tiền cùng chia sẻ vị trí là đồng tiền dự trữ. Và cùng với quy mô
và triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc, một ngày nào đó, đồng nhân dân
tệ sẽ trở thành đồng tiền quốc tế quan trọng.
Nhưng vấn đề cần quan tâm là khi nào điều này xảy ra? Những nhà quan sát tỉ mỉ
đều cho rằng để đồng nhân dân tệ (CNY) trở thành đồng tiền quốc tế thực sự sẽ phải còn
mất rất nhiều thời gian nữa. Việc làm cho đồng tiền này hấp dẫn hơn đối với cả tư nhân
cũng như của chính phủ các nước đòi hỏi Trung Quốc phải xây dựng thị trường tài chính
sâu và thanh khoản hơn. Điều này có nghĩa là phải phát triển hệ thống thanh toán bù trừ
minh bạch đáng tin cậy hơn, với một tài sản chuẩn, một đường lợi nhuận dễ xác định, và

một lượng người nhất định tham gia thị trường… Hơn thế nữa, những thị trường này sẽ
mở cửa cho phần còn lại của thế giới. Nói cách khác, Trung Quốc sẽ phải mở cửa đầy đủ
thị trường vốn của mình trước khi đồng nhân dân tệ trở thành tiền tệ quốc tế thực sự.
Yêu cầu này lại đòi hỏi phải tạo cho các ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước một cơ sở
tài chính vững chắc và chuyển sang tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Tóm lại, cần phải có

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

21

Tài chính quốc tế

những thay đổi hết sức cơ bản đối với mô hình tăng trưởng của Trung Quốc. Tất cả điều
này rõ ràng sẽ không thể đạt được trong một sớm một chiều.
Các quan chức Trung Quốc đã đặt mục tiêu năm 2020 sẽ là thời điểm cả Bắc
Kinh và Thượng Hải trở thành các trung tâm tài chính thế giới, với thị trường tài chính
sâu và thanh khoản cao, mở cửa cho phần còn lại của thế giới. Vậy nên cũng có thể suy
luận, đó có thể sẽ là ngày mà họ muốn đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền quốc tế
hàng đầu. Vậy, liệu Nhân dân tệ trở thành đồng tiền quốc tế chính chỉ trong khoảng thời
gian một thập kỷ hay không? Chỉ có thời gian mới biết. Nhưng như lịch sử của chính
nước Mỹ đã chứng minh, tham vọng đó hoàn toàn không phải là không thể.
2.1 - TRUNG QUỐC TRONG TIẾN TRÌNH “QUỐC TẾ HÓA” ĐỒNG NHÂN
DÂN TỆ
Để thực hiện mục tiêu nâng cao vị thế của đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền
quốc tế quan trọng, Trung Quốc đã có rất nhiều các chiến lược, biện pháp cụ thể:
 Trong những tháng đầu năm 2011, Trung Quốc đã nâng giá đồng Nhân dân
tệ 5% trong năm 2011 bởi Trung Quốc cần đồng tiền mạnh để kiềm chế lạm phát

và ngăn bong bóng tài sản.
Việc đồng Nhân dân tệ tăng giá sẽ khiến hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn để làm
giảm ảnh hưởng của giá hàng hóa tăng cao từ thị trường quốc tế. Áp lực lạm phát giảm
bớt. Tuy nhiên một quan chức Bộ Thương mại Trung Quốc cảnh báo bất kỳ hoạt động
nâng giá đồng Nhân dân tệ nào cũng sẽ không thể làm giảm thặng dư thương mại mà
Trung Quốc hiện đang có với Mỹ - yếu tố đang khiến quan hệ Trung – Mỹ căng thẳng.
 Trung Quốc vẫn đang tiếp tục “tiếp thị” đồng CNY của mình theo từng
trọng điểm một. Trọng điểm mới nhất chính là đối tác lớn ngay cạnh - nước Nga
Theo thông tin vừa được Bộ Thương mại Trung Quốc công bố, NHTW Trung
Quốc và một số ngân hàng khác của nước này sẽ chính thức cùng với các ngân hàng Nga
thảo luận về những giao dịch hoán đổi tiền tệ. Trước đây, Trung Quốc đã cùng với Hàn

Nhóm 2 – Cao học 20S


Khoa Tài chính – Ngân hàng

22

Tài chính quốc tế

Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Indonesia, Argentina và Belarus ký kết các thỏa thuận
hoán đổi tiền tệ.
Cách đây vài tháng, Chính phủ Trung Quốc còn khuyến cáo các doanh nghiệp
trong nước sử dụng đồng Nhân dân tệ làm phương tiện thanh toán trên thị trường quốc tế
thay vì đồng USD như lâu nay. Đáng chú ý, các giao dịch quốc tế của các doanh nghiệp
Trung Quốc với 10 nước Đông Nam Á cũng nằm trong diện bắt buộc này. Trên thực tế
thì đồng Nhân dân tệ đã bắt đầu được sử dụng để thanh toán trong thương mại giữa khu
vực phía đông Trung Quốc gồm Quảng Đông và lưu vực sông Trường Giang với Đặc
khu hành chính Hồng Kông và Macau, giữa vùng tây nam Trung Quốc gồm Quảng Tây

và Vân Nam với các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á như Brunei, Myamar,
Cambodia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Việc “tiếp thị” đồng Nhân dân tệ với đối tác quan trọng là Nga tiếp tục cho thấy
Trung Quốc vẫn đang tiếp tục có những bước đi hết sức mạnh mẽ và kiên trì nhằm tìm
chỗ đứng cho đồng Nhân dân tệ trên trường quốc tế.
Những bước đi trước đó cho thấy Trung Quốc đã và đang thực hiện kiên trì kế
hoạch quốc tế hoá đồng nội tệ của mình, nhằm tận dụng được nhiều hơn lợi thế của toàn
cầu hoá để phục vụ cho lợi ích kinh tế nước nhà tốt hơn. Bởi phần lớn giao dịch thương
mại với nước ngoài của Trung Quốc trước nay vốn được thực hiện bằng đôla Mỹ hoặc
Euro khiến các nhà xuất khẩu bị động và dễ bị ảnh hưởng do sự thay đổi của tỉ giá.
 Trung Quốc đang đẩy mạnh khuyến khích nhiều nước và vùng lãnh thổ sử
dụng đồng tiền của mình - đồng nhân dân tệ.
Nước này đã có thỏa thuận với Brazil, tạo thuận lợi cho hai bên sử dụng đồng tiền
của nhau trong các giao dịch thương mại song phương. Bên cạnh đó là thỏa thuận trao
đổi bằng đồng Nhân dân tệ với Argentina, Belarus, Hồng Kông, Indonesia, Hàn Quốc và
Malaysia. Mùa hè năm ngoái, Trung Quốc lại mở rộng thỏa thuận thanh toán bằng đồng
nhân dân tệ với Hồng Kông và 5 thành phố khác, và cho phép HSBC Holdings bán trái
phiếu bằng đồng nhân dân tệ tại Hồng Kông. Sau đó, vào tháng 9 cùng năm, Chính phủ
Trung Quốc đã phát hành khoảng 1 tỷ USD trái phiếu mệnh giá nhân dân tệ của riêng

Nhóm 2 – Cao học 20S


×