Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn trung và dài hạn của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.55 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ
DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
0.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
0.1.1 Khái niệm
1.1.2. Phân loại nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại
1.1.2.1- Tiền gửi
1.1.2.2-Tiền vay
1.1.2.3-Nguồn ủy thác
1.1.2.4-Vốn và quỹ
1.1.3. Vai trò của nguồn vốn trung và dài hạn trong hoạt động của ngân
hàng thương mại
0.2 Chính sách huy động vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.1.1. Chính sách lãi suất
1.2.1.2 Chính sách sản phẩm
1.2.1.3 Chính sách xúc tiến khuyếch trương
1.2.2. Công cô huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
1.2.2.1- Huy động tiền gửi trung và dài hạn
1.2.2.2 -Vay trung và dài hạn
1.2.2.3- Nhận uỷ thác tài trợ phát triển

1


0.3 Điều kiện để tăng cường huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng
Thương mại

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG


ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2. 1. Khái quát về Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam
2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch ngân
hàng đầu tư và phát triển việt nam
2.1.2 Môi trường hoạt động của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát
triển việt nam
2.1.3. Kết quả kinh doanh chủ yếu
2. 1. 3. 1. Công tác huy động vốn
2. 1. 3. 2. Công tác tín dụng
2. 1. 3. 3 Hoạt động dịch vụ
2. 1. 3. 4 Công tác khách hàng
2.1. Thực trạng công tác huy động vốn trung và dài hạn tại Sở giao dịch I
ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.2.1. Nguồn huy động tiền gửi trung và dài hạn
2.2.2. Vốn vay trung và dài hạn
2. 3. Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn trung và dài hạn của Sở
giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam
2.3.1. Kết quả
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY
ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3. 1. Định hướng phát triển của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam trong năm tới
3.1.1. Định hướng phát triển của SGD ( 2000-2005)
3.1.2. Định hướng huy động vốn trung và dài hạn của SGD

3. 2. Giải pháp
3.2.1. Chú trọng công tác phân tích nguồn vốn trung và dài hạn
3. 2.1.1. Phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn
3.2.1.2..Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý
3.2.2. Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện Ých cho khách
hàng
3.2.3. Nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới công tác quản lý
3.2.4. Đa dạng hoá các hình thức huy động
3.2.5. Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng cáo
3.3.Kiến nghị
3.3.1. Đối với nhà nước
3.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


LỜI NÓI ĐẦU

Vốn là một trong những nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại
của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là vốn trung và
dài hạn. Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Trong giai đoạn từ năm
2001-2005, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,2%/năm thì đòi
hỏi lượng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 50-60 tỷ USD, trong đó vốn trung và
dài hạn chiếm khoảng 40%-50% vốn đầu tư.
Trước tình hình đó, huy động vốn trung và dài hạn để đáp ứng như cầu
vốn cho phát triển kinh tế là một vấn đề rất cấp thiết. Trong khi Thị trường
chứng khoán Việt Nam mới bước đầu hoạt động còn chưa phát huy được hiệu

quả thực sự của nó thì Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam vẫn giữ vai
trò là một “kênh” huy động vốn trung và dài hạn đặc biệt quan trọng. Nằm
trong hệ thống ngân hàng thương mại, Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng khích lệ trong công
tác huy động vốn trung và dài hạn trong những năm qua . Qua đó đã góp phần
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế, giữ vững vai trò là Ngân hàng..
Song kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong thời gian tới.
Vì các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy
động vốn trung và dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam ”
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn trung và
dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy
4


động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Qua
đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.

Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Hoạt động huy động vốn trung và dài hạn ở NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn trung và dài hạn tại Sở
giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn trung và dài hạn tại
Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, tôi mong muốn được sự góp ý chân thành
của thầy cô và các bạn. Nhân dịp hoàn thành đề tài, tôi xin chân thành cảm ơn:
cô giáo hướng dẫn T. S Trần Đăng Khâm, chị Nguyễn Thái Anh và các Anh
(Chị) ở Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tận tình

giúp đỡ tôi nghiên cứu đề tài này. Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính (ĐHKTQD) và các cán bộ
làm việc tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo
điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian nghiên cứu đề tài này.

5


CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ
DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
0.4 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
0.4.1 Khái niệm
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay
đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.Do đó vốn dóng vai trò rất quan trọng đối
với hoạt động của ngân hàng. Nhìn chung có thể hiểu vốn là khoản hình thành
nên tài sản của ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cáh hiệu quả ,
nã có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể tăng giảm tùy theo tình
hình hoạt động của ngân hàng trong từng thời kỳ.
1.1.3. Phân loại nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại
Khi bàn về nguồn vốn của ngân hàng thương mại, chúng ta có nhiều
cách tiếp cận khác nhau, có nhiều cách phân chia nguồn vốn ngân hàng
thương mại khác nhau. Có thể phân chia nguồn vốn theo thời gian( ngắn hạn,
dài hạn), phân chia theo loại tiền ( nội tệ, ngoại tệ), hoặc theo đặc điểm của
nguồn( tiền nợ, tiền vay) nhưng ta có thẻ tiếp cận theo bảng tổng kết tài sản.
Theo bảng tổng kết tài sản thì nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:

6


Bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại

Tài sản

Nguồn vốn

- Dự trữ

- Tiền gửi

- Các chứng khoán

- Tiền vay

- Cho vay

- Vốn của ngân hàng

- Tài sản khác

- Nguồn khác

1.1.2.1- Tiền gửi
Tiền gửi của ngân hàng tạo ra từ dịch vụ ngân hàng cung cấp, đó là dịch
vụ nhận gửi tiền.
• Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi có thể phát séc (tiền gửi giao
dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Tiền gửi thanh toán gửi vào ngân hàng nhằm sử
dụng các tiện Ých do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu
hộ. Ngân hàng thương mại buộc các khách hàng muốn được ngân hàng cung
cấp các loại dịch vụ ngân hàng thì cần phải có một lượng tiền kí quỹ tối thiểu,
điều này giúp cho ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Tiền gửi thanh

toán có số dư tại ngân hàng, thời kì đầu có thể bị thu phí, về sau để khuyến
khích khách hàng gửi tiền, ngân hàng không thu phí cho các số dư. Về sau,
các ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau, từ việc thu phí, đến không thu
phí, ngân hàng thương mại còn trả lãi cho các số dư tại ngân hàng. Khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng ở tài khaonr này không nhằm mục đích thu lãi,
mà là sử dụng các tiện Ých do các ngân hàng cung cấp. Ngân hàng thường trả
lãi rất thấp cho số dư từ tài khoản tiền gửi thanh toán vì vậy chi phí huy động
7


vốn thấp. Đây là ưu điểm của nguồn vốn này. Đây là nguồn vốn có chi phí huy
động thấp nhất. Nhưng tính ổn định của nó là thấp nhất, do khách hàng gửi
vào đây với mục đích thanh toán nên họ có thể rót ra để chi trả, thanh toán bất
cứ lúc nào, mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của tiền gửi
thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa bàn
hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của nguồn vốn này, ta
có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dùa vào các con số
thống kê trong lịch sử mà ngân hàng đưa ra kết luận. Sử dụng nguồn vốn tiền
gửi thanh toán là ngân hàng phải thận trọng, nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra,
điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải tốn quá nhiều chi
phí để đi vay, thậm chí có thể là bị phá sản. Để huy động tiền gửi thanh toán,
ngân hàng thương mại cần khuyến khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài
khoản. Lãi suất đôi khi cũng không phải là yếu tố quan trọng, mà ngân hàng
cần chú ý tới những tiện Ých và dịch vụ do ngân hàng đem lại cho khách
hàng.
• Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn (chiếm 40% tổng số tiền gửi) là loại tiền gửi có sự
thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi tiền. TRong khoảng
thời gian thỏa thuận đó, ngân hàng tùy ý sử dụng số tiền do khách hàng ký
gửi, khi khách hàng cần rút tiền thì phải báo trước cho ngân hàng và phải được

sự đồng ý của ngân hàng. Tiền gửi có ký hạn do các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra, từ các quỹ nh quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các
nguồn thu nhập của doanh nghiệp. Khi họ biết trước được thời điểm sử dụng
tiền, họ gửi những khoản tiền nhàn rỗi này vào ngân hàng nhằm mục đích thu
lợi và an toàn. Ngân hàng thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi
có kỳ hạn, nên chi phí huy động thường cao, nhưng bù lại, tính ổn định lại
cao. Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về chi trả.

8


Việc huy động tiền gửi có kỳ hạn là nguồn có chi phí cao song ổn định.
Vì vậy, lãi suất cho số dư tiền gửi là rất có ý nghĩa cho việc huy động vốn ở
ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có thể tăng lượng vốn bằng
cách tăng lãi suất cho số dư ở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
• Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và
sinh lợi. Đây là loại tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của
ngân hàng. Người gửi tiền nhằm mục đích thu lợi, vì vậy lãi suất là yếu tố rất
được người gửi tiền quan tâm. Lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi
tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn.
Lãi suất chi trả cho tiền gửi tiết kiệm là cao nhất, huy động nguồn vốn
này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Song tiền gửi tiết kiệm lại rất ổn định, ổn
định nhất trong các loại tiền gửi. Để huy động nguồn vốn này, ngân hàng cần
chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập
của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân số- xã hội, tình hình
kinh tế xã hội. Muốn huy động nguồn tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng cần phải
chú ý đến các yếu tố thuộc về khách hàng này và điều chỉnh lãi suất huy động
cho phù hợp.
1.1.2.2-Tiền vay

Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân hàng,
ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh tiền tệ nh cho vay. Nếu sau
khi cho vay mà còn thiếu, ngân hàng vẫn cần tiền mặt, tiền gửi không đáp ứng
nhu cầu của ngân hàng thương mại thì ngân hàng thương mại có thể đi vay.
Ngân hàng đi vay để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình như cho vay, chi trả
cho người gửi tiền.
Ngân hàng thương mại có thể vay từ các nguồn sau:
• Vay từ ngân hàng trung ương

9


Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình
thức như hình thức chiết khấu, tái chiết khấu. Hình thức vay này thông qua thị
trường mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá,
khi cần tiền mặt, ngân hàng thương mại đưa lượng giấy tờ này cho ngân hàng
trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho ngân hàng thương mại vay dưới
hình thức cầm cố các giấy tờ này. Thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng
trung ương có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn
của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn nh vay để
bù đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nân cao thanh khoản.
Các khoản vay thường rất ngắn hạn.
Vay ở ngân hàng trung ương để cho vay ở các dự án mà chính phủ chỉ
định.
Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường thấp, nhưng để vay được
nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
• Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, ngân hàng thương mại có
thể vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra thị trường liên

ngân hàng trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay thường cao hơn vay từ ngân
hàng trung ương. Quy mô của các món vay phụ thuộc vào thị trường liên ngân
hàng tức là khả năng cho vay của các liên ngân hàng. Về kì hạn có thể co giãn,
có thể rất ngắn hoặc có thể tới 3-5 năm.
Nói chung, nguồn tiền đi vay khá ổn định so với nguồn tiền gửi, không
phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi, nhưng lãi suất lại cao, song
quy mô và thời gian xác định trước, ngân hàng có thể vay từ việc phát hành
các giấy tờ có giá như phát hành các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, CDs; Vay
từ phát hành các giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng lượng
tiền đi vay. Lãi suất của hình thức vay này khá cao (cao nhất trong các nguồn
10


tiền, song nguồn tiền lại ổn định, ngân hàng chỉ hoàn lại tiền cho người nắm
giữ các giấy tờ có giá vào thời điểm đáo hạn.
1.1.2.3-Nguồn ủy thác
• Nguồn ủy thác cho vay.
Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân, ủy thác tiền, tài
sản vào ngân hàng, nhờ ngân hàng để cho vay. Nguồn này khá ổn định, ngân
hàng thực hiện hộ khách hàng và thu hoa hồng.
• Nguồn ủy thác đầu tư.
Ngoài các nguồn trên, ngân hàng thương mại còn nhận được các nguồn
ủy thác đầu tư. Nguồn này hình thành trên cơ sở các tổ chức cá nhân, ủy thác
tiền bạc, tài sản vào ngân hàng. Do ngân hàng có lợi thế về thông tin, công
nghệ. Ngân hàng đầu tư vào các dự án khả thi, ngân hàng thẩm định, thực hiện
dự án, ngân hàng thu hoa hồng từ tiền lãi đầu tư.
• Các nguồn khác
Các nguồn này được hình thành từ các nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài
sản hộ. Khi ngân hàng thương mại càng phát triển, nghiệp vụ trung gian càng
lớn, thì nguồn này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và quan trọng.

1.1.2.4-Vốn và quỹ
Vốn tự có của ngân hàng bao gồm 2 phần vốn tự có cơ bản và vốn tự có
bổ sung. Vốn tự có cơ bản gồm có cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn,
thặng dư vốn, lợi nhuận chưa chia, dự phòng chung, các khoản dự trữ vốn
khác, các phương tiện ủy thác có thể chuyển đổi và dự phòng rủi ro. Vốn tự có
bổ sung bao gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu bổ sung và các
giấy nợ.
Vốn tự có của ngân hàng thương mại có chức năng bảo vệ, là cái đệm cho
hoạt động ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng còn giúp cho ngân hàng điều
chỉnh các hoạt động của mình, vì vốn tự có quy định quy mô hoạt động của
ngân hàng buộc ngân hàng phải giới hạn quy mô hoạt động. Nguồn vốn của
11


ngân hàng còn có chức năng hoạt động, tức là nhờ vào nguồn vốn tự có mà
tồn tại dưới hình thức như trụ sở ngân hàng, nhà cửa, xe cộ, các thiết bị máy
móc của ngân hàng.
1. 1. 3. Vai trò của nguồn vốn trung và dài hạn trong hoạt động của
ngân hàng thương mại
Thứ nhất : Vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh.
Bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh
phải có vốn. Bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng của
doanh nghiệp. Riêng đối với ngân hàng, do tính chất đặc thù kinh doanh tiền
tệ, vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Nói cách khác ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh. Bởi đặc trưng của ngân hàng vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là một tổ chức
kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán. Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh kinh

doanh. Chính vì vậy, có thể nói vốn là điểm đầu trong kinh doanh của ngân
hàng. Ngân hàng muốn mở rộng kinh doanh, thu được lợi nhuận, muốn tăng
uy tín thì ngoài vốn ban đầu cần thiết- tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì
ngân hàng phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng trưởng vốn trong suốt
quá trình hoạt động của ngân hàng
Thứ hai, vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quy định quy mô hoạt động tín
dụng trung và dài hạn và các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn của ngân
hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông
thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục
đầu tư kém đa dạng hơn, khối lượn và phạm vi tín dụng cũng nhỏ hơn. Trong
các ngân hàng lớn có nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn cho vay được cả thị
trường nước và quốc tế, thì ngân hàng nhỏ thiếu vốn nói chung và vốn trung
12


dài hạn nói riêng sẽ bị giới hạn cho vay trong phạm vi hẹp, chủ yếu trong cộng
đồng. Thêm vào đó khả năng vốn hạn hẹp nên ngân hàng nhỏ không phản ứng
nhạy với những biến độn về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hót vốn
từ các thành phần kinh tế và dân cư. Ngân hàng có vốn Ýt sẽ hiếm có điều
kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ. Mặt khác, ngân hàng cũng
sẽ không tham gia vào các danh mục đầu tư dài hạn nh mua trái phiếu nhà
nước, trái phiếu công trình,...đã thu lợi nhuận cao. Với xu thế ngân hàng đa
năng như hiện nay, việc tham gia của ngân hàng vào thị trường chứng khoán
là quan trọng, quy mô về vốn của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí
giữ vai trò quyết định tới sự thâm nhập của ngân hàng thương mại vào thì
trường này.
Thứ ba, vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy
tín của ngân hàng trên thương trường từ đó quyết định năng lực cạnh tranh của
ngân hàng đó.
Ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Để đáp ứng nhu cầu chi trả của

ngân hàng cho các khoản vay đến hạn, ngoài dự trữ bắt buộc, ngân hàng còn
phải đảm bảo khả năng thanh toán dưới dạng tiền mặt, tín phiếu kho bạc, các
giấy tờ có giá hoặc các tài sản có tính lỏng hơn.
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải giữ
được chữ tín. Uy tín thể hiện bằng khả năng chi trả của ngân hàng khi đáo
hạn. Vốn khả dụng càng cao thì khả năng thanh toán càng lớn. Nói một cách
khác, khả năng thanh toán tỷ lệ thuận với nguồn vốn của ngân hàng nói
chuung và vốn khả dụng nói riêng. Nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng mở rộng
quy mô hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế trên thị
trường. Tiềm năng vốn lớn là điều kiện đối với ngân hàng, việc mở rộng quan
hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế, xét về cả quy mô khối lượng tín
dụng, chủ động về tiền, thời hạn cho vay, lãi suất có thể thấp hơn các ngân
hàng khác, từ đó ngân hàng sẽ thu hót được nhiều khách hàng, doanh sè kinh
13


doanh tăng, đây là điều kiện làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, dẫn đến làm
tăng vốn tự có, tăng quy mô hoạt động vật chất kỹ thuật của ngân hàng.
Thứ tư, nguồn vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có đủ khả năng tài
chính vươn tới kinh doanh đa năng.
Với xu hướng ngân hàng đa năng như hiện nay, hoạt động ngân hàng
không chỉ đơn giản như hoạt động của ngân hàng truyền thống, mà ngân hàng
đã vươn tới nhiều lĩnh vực khác như mở rộng các hình thức liên doanh liên
kết, hoạt động thuê mua, bảo lãnh, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường
chứng khoán. . . Hình thức kinh doanh đa năng giúp ngân hàng phân tán được
rủi ro (tránh để nhiều trứng vào một giỏ) trong hoạt động kinh doanh, tạo thêm
vốn, cơ hội lợi nhuận cho ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân
hàng trên thị trường.
Tóm lại, vốn đối với nền kinh tế nói riêng, và nguồn vốn đối với ngân
hàng thương mại nói chung là rất quan trọng. Có thể nói, huy động vốn là việc

làm cần thiết hàng đầu của ngân hàng. Người ta nói “có bột mới gột nên hồ”,
nguồn vốn của ngân hàng thương mại không chỉ giúp ngân hàng thương mại
tồn tại, hoạt động được mà nó còn cho phép ngân hàng thương mại mở rộng
quy mô hoạt động, vươn tới nhiều lĩnh vực mới giúp ngân hàng có đủ uy tín
và sức m+ạnh để tồn tại và phát triển trên thương trường.
0.5 Chính sách huy động vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng Thương mại
1.2.3. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.1.1. Chính sách lãi suất
Điều kiện đầu tiên mà các cá nhân hay bất kỳ một tổ chức kinh tế
nào muốn tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng chính là lãI suất. Lãi suất
càng cao thì người gửi tiền sẽ càng bị hấp dẫn nhưng lãi suất huy động cao
cũng có nghĩa là lãi suất cho vay ra cũng phải cao tương ứng thì ngân hàng
mới có lợi.
14


ĐIều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các doanh nghiệp đi vay vốn
và ngân hàng có thể sẽ không giải quyết được phần vốn đầu ra của mình. Nh
vậy thì việc huy động là không có lợi cho ngân hàng. Mức lãi suất huy động
ơphảI đủ cao để thu hót khách hàng nhưng cũng không được cao quá để có thể
thu hót khách đi vay mà không làm giảm đi lợi nhuận của ngân hàng. Mức lãi
suất huy động cần phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo quyền lợi của
ngân hàng và cũng cần phải thấp hơn mức lợi nhuận của doanh nghiệp -để
đảm bảo quyền lợi của người đi vay nhưng mức lãi suất này không được thấp
hơn % của tỷ lệ lạm phát để đảm bảo cho người gửi tiền vẫn còn có được một
tỷ lệ lãi suất thực dương hợp lí. Đây là phần tiền thưởng, tiền động viên, tiền
đãi ngộ cho người gửi tiết kiệm. Khách hàng phải thực sự nhận được phần
thưởng này, có nh vậy họ mới thấy gửi tiền vào ngân hàng là một hoạt động
có lợi. Ngân hàng phải dự đoán chính xác tỉ lệ lạm phát trong năm để đưa ra
mức lãI suất hợp lí. Nói đến lạm phát là nói đến sức mua của tiền, là nói đến

sựu ổn định tương đối của giá trị tiền tệ mà mỗi đồng tiền lại có sức mua khác
nhau và sự ổn định khác nhau do tỉ lệ lạm phát của các quốc gia không giống
nhau. Lãi suất ở mức hợp lí là cũng là lãi suất huy động đảm bảo cho sức mua
tương đối của các loại tiền không thay đổi. Điều đó có nghĩa là phải cộng
thêm vào đó những yếu tố biến động của tỷ giá hay tốc độ lạm phát của mỗi
quốc gia có loại tiền ngân hàng đang huy động
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng
nhất trong số các chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại, chính
vì vậy mà ngân hàng phảI có những múc tiêu và chính sách lãi suất cụ thể
trong từng thời kỳ.
1.2.1.2 Chính sách sản phẩm
Hình thành một cơ cấu sản sản phẩm đa dạng cũng là một trong chính
sách quan trọng trong thu hót khách của ngân hàng thương mại. Thực tế cho
thấy, không một ngân hàng thương mại nào có thể thành công với một cơ cấu
15


sản phẩm nghèo nàn. Hầu như bất kỳ ai có tiền cũng đều muốn đồng tiền của
mình sinh lợi nhưng không phải bất kỳ lúc nào họ cũng có thể làm được điều
đó. Họ cũng muốn gửi tiền vào ngân hàng để được hưởng lãi suất nhưng tiền
của họ chỉ nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định và do đó không thể
gửi kỳ hạn dài vào ngân hàng. Huy động với tiết kiêm với các kỳ hạn khác
nhau sẽ đáp ứng mọi nhu cầu gửi tiền của mọi thành phần kinh tế và dân cư là
đIều mà ngân hàng đã ngĩ đến và thực hiện từ lâu. Đa dạng hóa sản phẩm
không chỉ dừng lại ở đa dạng hóa ở kỳ hạn huy động vón mà còn thể hiện ở sự
đa dạng hóa trong hình thức huy động. Các ngân hàng hiện nay không chỉ huy
động tiền gửi tiết kiệm mà còn khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân
hàng dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài khoản tiền gửi, huy động qua
kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và thực tế đã thu được những kết quả đáng
khích lệ. Huy động tiền gửi có kỳ hạn ngắn làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận

của ngân hàng mà vẫn có thể giúp cho ngân hàng cho vay trung và dài hạn
được do luôn có một khoản tiền tươog đối lớn của loại kỳ hạn này. Khi cần
vốn để cho vay trung và dài hạn, ngân hàng có thể tăng nguồn vốn của mình
lên qua hình thức huy động bằng kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất cao hơn lãi
suất tiết kiệm một chút nhưng lại có thể chủ động được thời gian huy động và
tổng nguồn vốn huy động cần dùng.
1.2.1.3 Chính sách xúc tiến khuyếch trương
Ngày nay, việc mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng qua việc
khuyếch trương hoạt động quảng cáo, tuyên truyền là một việc hết sức cần
thiết. Với phương châm “Sự thành công cả khách hàng chính là sự thành công
của chúng tôi “,ngân hàng phải làm sao cho người dân biết đến hoạt động của
mình, thấy được lợi Ých khi giao dịch với ngân hàng. Ngân hàng cần phải đẩy
mạnh đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền như quảng cáo qua thư, hướng
dẫn cụ thể rõ ràng mọi hoạt động, dịch vụ và các mức lãi suất của ngân hàng.
Đi liền với các hình thức quảng cáo là những hoạt động khuyến mại, giúp đẩy
16


mạnh hơn hoạt động quảng cáo thu hót vốn vào ngân hàng. Các hình thức
khuyến mại đa dạng, hay sẽ tạo sự thích thó nơi khách hàng, khách hàng
không những chỉ được hưởng mức lãi suất mà còn hưởng những dịch vụ do
khuyến mại đem lại như trả lời câu hỏi có thưởng, lãi suất ưu đãi với những
khách hàng giaodiạch thường xuyên. Việc tặng quà cho khách hàng cũng đã
được mọt số ngân hàng thương mại việt nam áp dụng song chưa thường
xuyên. Nghệ thuật tặng quà nhiều khi không được thể hiện bằng giá trị món
quà mà là ý nghĩa của món qùa đối với người được tặng. Món quà không
những phải thể hiện được hình ảnh của ngân hàng mà còn thực hiện nững
dụng ý và mục đích của ngân hàng. Việc tặng quà cho những ngườ mua kỳ
phiếu chắc chắn sẽ Ýt có tác dụng khuyến khích người ta mua thêm kỳ phiéu
nữa hoặc gửi tiền vào ngân hàng vì thường người ta đã quyết định đầu tư hết

số tiền của mình vòa kỳ phiếu rồi. Món quà lúc này chỉ nên xem là phương
tiện quảng cáo. nghệ thuật khuyến mại sau giao dịch củangân hàng cũng
không dừng lại ở việc tặng quà, có phải ai cũng bị quà tặng làm cảm động đâu.
Một mức lãi suất ưu đãi nếu khách hàng gửi tiền thường xuyên có yêu cầu,
một sự ưu tiên giải quyết nhanh chống sẽ luôn là cách thức khuyến mại tốt.
Điều quan trọng nhất trong việc đề ra những sản phẩm dịch vụ và phục vụ sau
giao dịch của ngân hàng theô em là luôn để cho khách hàng thấy lúc nào họ
cũng được sự quan tâm, chăm sóc, ngân hàng hiểu khó khăn của họ và cho
khách thấy mục đích rõ ràng trong việc làm của ngân hàng đều là vì khách
hàng, nhằm phục vụ cho quyền lợi của khách hàng chứ không phải vì mục
đích khuyến khích cho họ tiêu dùng thêm sản phẩm của ngân hàng (đương
nhiên, đây là mục tiêu của ngân hàng nhưng nếu là được như vậy thì mục tiêu
này chắc chắn thực hiện được )
1.2.4. Công cô huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
1.2.2.1- Huy động tiền gửi trung và dài hạn
17


ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được
hiểu là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức
khác. Tiền gửi trung và dài hạn là tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn 12 tháng. Trên
phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi trung và dài hạn có thể được chia
thành hai loại: Tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư.
• Tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế-xã hội
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh, quá trình hoạt động của ccác doanh nghiệp, các tổ chức kinh tếxã hội và được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời.
Khoản vốn này tạm thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn

nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn trung và
dài hạn còng nh là trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá
trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp Ýt khi có một lượng
vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi.
Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng
vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong
cơ cấu tạo nên nguồn vốn trung và dài hạn của một ngân hàng. Còng nh tiền
gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi
gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền
đó.
Nh vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã
thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hót nguồn này một cách tốt nhất,
18


các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng
không được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở
Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được
hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
Nguồn vốn này thường có tính ổn định cao hơn tiền gửi ngắn hạn và tiền
gửi thanh toán. Do đó NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động
hơn trong hoạt động kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và
dài hạn của nền kinh tế. Vì vậy lãi suất huy động nguồn này cũng cao hơn các
hình thức huy động ngắn hạn khác. Bên cạnh đó, kỳ hạn của nguồn này cũng
rất phong phú, có loại tiền gửi 13 tháng, 18 tháng, 25 tháng,... từng bước đáp
ứng mọi nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
• Tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng.

Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta
cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm trung và
dài hạn là một trong các nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy
động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng líp dân cư sẽ có tiền
cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng líp dân cư gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn vào NHTM với mục
đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định
khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng còng nh ngân hàng, thủ tục gửi tiền
cũng rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một
quyển sổ tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi
suất của khoản tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài
khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài
19


khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng nh tài khoản tiền
gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm trung và
dài hạn, các NHTM đã và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú
như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có
thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài
thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước nâng cao các tiện
Ých cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm
bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố
hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.
Tóm lại, nguồn vốn trung và dài hạn huy động từ tiền gửi có vai trò quan
trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống
thường nguồn vốn này phụ thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các

NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại hình đầu tư khác như: Trái
phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được
coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất nh thế nào, hình
thức huy động ra sao để thu hót được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều
quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM.
1.2.2.2 -Vay trung và dài hạn
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là
lẽ tất nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi mét NHTM thiếu vốn trung
và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư
phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay.
Nghiệp vụ vay vốn trung và dài hạn của NHTM có thể chia thành hai loại
chính: Vay trung và dài hạn thông qua phát hành giấy tờ có giá, Vay trung và
dài hạn trực tiếp.
20


• Vay trung và dài hạn thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá với kỳ hạn dài là nghiệp vụ huy động vốn trung
và dài hạn của NHTM dưới hình thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ
tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng
ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành các giấy tờ có giá trung và
dài hạn nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường việc phát hành
được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của NHTM
giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những
thay đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một
NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các
loại nghiệp vụ huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời
lượng vốn cần thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận
trực tiếp giữa NHTM và khách hàng hoặc được Ên định ở một mức độ nhất

định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả
kinh doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo
sáng kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm
thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để
tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái
phiếu ngân hàng.
* Kỳ phiếu trung và dài hạn:
- ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu trung và dài hạn ( Kỳ
phiếu có mục đích) dùa trên quyết định số 220- NH/QĐ ngày 27/11/1991 của
Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh phát hành kỳ phiếu
Ngân hàng có mục đích. nh vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được phép
phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.
21


Theo văn bản trên, kỳ phiếu có mục đích là một loại giấy nhận nợ do
NHTM quốc doanh phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh
hoạt để tài trợ cho một mục đích cụ thể nào đó. Căn cứ vào mục đích, nhu cầu
cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.
Kỳ phiếu có mục đích thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. vốn huy
động được từ nghiệp vụ này không phải là đối tượng để tính dự trữ bắt buộc.
Lãi suất kỳ phiếu này thường hấp dẫn hơn kỳ phiếu ngắn hạn, tuỳ từng mục
đích và thời kỳ huy động mà Ngân hàng Ên định mức lãi suất cụ thể. Phương
thức trả lãi cũng được các NHTM quốc doanh áp dụng rất linh hoạt : Trả lãi
trước, Trả lãi sau hay Trả lãi định kỳ sau các khoảng thời gian bằng nhau.
Mức lãi được xác định trên nguyên tắc đảm bảo kinh doanh, thời hạn càng dài,
lãi suất càng cao.
Kỳ phiếu có mục đích thường có hai loại chứng chỉ là loại có ghi danh
và loại không ghi danh. Người sở hữu loại vô danh có thể chuyển nhượng tự

do, còn người sở hữu loại có ghi danh mà muốn chuyển nhượng thì phải thông
qua Ngân hàng.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu có mục đích thường phát sinh khi ngân
hàng muốn có nguồn vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô lớn,
trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì
mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh
vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó
ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng tờ trình gửi NHNN. Trong tờ trình
“ Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
22


+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu có mục đích là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu
quả cao, hấp dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn
trung và dài hạn khi cần thiết.
* Trái phiếu trung và dài hạn:
ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng trung và dài hạn là một loại
công cụ nợ do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh
cuả ngân hàng. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép
của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phó: 7 năm, 10
năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều
chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có
thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị
trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.

ở Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 cảu
Thống đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn
trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành
để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho
người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức
mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp
tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ,
ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và
được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn
chuyển nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy
nhiên, thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử
23


dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được
thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi
trên trái phiếu
lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là 500.000 VND. Các loại mệnh giá lớn
hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM Ên định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn
trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn dài
hạn, người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh
doanh. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt:
Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu
sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn

định cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung
và dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo
được một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng
nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
• Vay trung và dài hạn trực tiếp:
Khi cần vốn trung và dài hạn mà các nguồn vốn khác chưa đáp ứng thì
các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng
nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn chung chi
phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình
thức huy động vốn trung và dài hạn khác.
ở Việt Nam, nguồn vay vốn trung và dài hạn của NHTM cũng khá phong phú.
Một NHTM có thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài
chính (BTC), vay từ các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
* Vay từ NHNN và BTC:
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách
là Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các
24


NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những
thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp
vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để
cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu
đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính
sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài
chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm,
các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình
phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính
chuyển sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh

khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi
suất ưu đãi. Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định
nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ
Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp
bù phàn chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi
suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh doanh.
* Vay trung và dài hạn từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay trung và dài hạn từ NHNN và Bộ Tài chính thì
các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để
đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dùa trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ
thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
* Vay trung và dài hạn từ nước ngoài:
25


×