Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay hộ sản xuất tại NHNoPTNT huyện đông triều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.29 KB, 58 trang )

GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành
Ngân hàng nói riêng đang đứng trước những vận hội và thách thức lớn. Để bắt kịp
với nhịp độ của cơ chế thị trường thì hệ thống Ngân hàng đã không ngừng được
củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào thành tựu chung của công cuộc đổi
mới, nổi bật là đẩy lùi lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ
mô, làm nòng cốt trong huy động vốn, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển
xã hội, xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân…Tuy nhiên, thực tế đã cho
thấy một trong những mối quan tâm hàng đầu của các NHTM là việc ngăn ngừa và
hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. NHTM – với tư cách là những nhà cung
cấp vốn chủ yếu và dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế luôn luôn phải đối mặt với
những thiệt hại, ảnh hưởng mà RRTD gây ra.
Những năm vừa qua, mối quan hệ giữa hoạt động sản xuất kinh doanh của
các HSX với hoạt động cho vay của Ngân hàng được cải thiện đáng kể. Sự phát
triển của HSX góp phần quan trọng trong việc mở rộng hoạt động cho vay của
Ngân hàng và ngược lại, hoạt động cho vay của Ngân hàng có tác động tích cực,
tháo gỡ khó khăn cho HSX. Có thể nói rằng, HSX với đặc điểm họat động linh
hoạt, năng động, có tính tự chủ cao, không đòi hỏi nhiều vốn và rất nhanh nhạy
thích ứng với cơ chế thị trường đã tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, là đối tác cạnh tranh sôi động với khu vực kinh tế quốc doanh, góp phần
tích cực vào sự phồn vinh của đất nước. Chính vì thế, hiện nay Đảng và Nhà nước
đã và đang có nhiều chính sách đãi ngộ để khuyến khích, thúc đẩy HSX phát triển
và phát huy tốt vai trò của mình đối với nền kinh tế. Tuy nhiên việc cho vay HSX
vẫn gặp không ít khó khăn và rủi ro trong việc huy động vốn, lãi suất tiền vay, thủ
tục vay vốn và tài sản thế chấp…
Với những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập ở trường, đặc biệt
qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đông Triều – Quảng


Ninh, em nhận thấy rằng việc nghiên cứu đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong
việc cho vay HSX của các NHTM là hết sức cần thiết. Vì vậy, em mạnh dạn chọn
đề tài cho Báo cáo của mình là:
“Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay hộ sản xuất tại
NHNo&PTNT huyện Đông Triều”.

1

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Báo cáo được chia thành 3 chương:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong cho vay kinh tế hộ sản
xuất.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng trong cho vay kinh tế HSX tại NHNo&PTNT
huyện Đông Triều.
Chương 3: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay HSX tại
NHNo&PTNT huyện Đông Triều.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Cô TS. Nguyễn Thị Thùy
Dương và các cô chú, anh chị cán bộ công nhân viên Chi nhánh NHNo&PTNT
huyện Đông Triều đã nhiệt tình hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành bài
Báo cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

CHƯƠNG 1 : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG CHO VAY KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT
1.1 Đặc điểm hoạt động của ngân hàng thương mại:
1.1.1 Khái quát về NHTM:
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá .Sự ra đời của các ngân hàng được đánh
dấu bởi việc các chủ hiệu vàng nhận giữ vàng hộ người dân .Bên cạnh đó, các chủ
hiệu vàng cũng cho vay, nhận thức được lợi ích từ việc cho vay nên các chủ hiệu
vàng khuyến khích gửi tiền .Sự kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản này đã tạo nên những
NHTM đầu tiên. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng
đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát
triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng
ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.
NHTM(Ngân hàng thương mại) là tổ chức kinh doanh mà hoạt động thường
xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm các
phương tiện thanh toán.
Ngày nay ,trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức môi giới trên thị
trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng, quy mô, hoạt động đa dạng,
phong phú và đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức môi giới
tài chính khác là NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là tiền gửi không
kỳ hạn, chính từ điều kiện đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền

gửi của khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình .Đó cũng là đăch trưng cơ
bản để phân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
• Khái niệm:
Ở Việt Nam, Luật các Tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào
ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác
có liên quan”. Bên cạnh đó, Luật này còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại

3

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung
nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Các nhà kinh tế lại có cách nhìn nhận khác về khái niệm ngân hàng thương
mại, xem đây là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên và chủ
yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và được phép
sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện nghiệp vụ thanh toán, chiết khấu.
• Hoạt động của ngân hàng chủ yếu bao gồm:
 Hoạt động huy động vốn
 Hoạt động sử dụng vốn
 Hoạt động trung gian thanh toán
 Hoạt động cho vay

 Hoạt động đầu tư
 Hoạt động ngân quỹ
 Các hoạt động khác: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ,
kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, dịch vụ bảo hiểm, nghiệp vụ uỷ thác và đại
lý, nghiệp vụ tư vấn …
1.1.2 Đặc điểm hoạt động của NHTM:
• Hoạt động huy động vốn:
Đây là một trong những hoạt động cơ bản của NHTM và thông qua hoạt
động này NHTM thực hiện chức năng tạo tiền .NHTM đã thu hút toàn bộ nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức như: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
thanh toán... Trong đó, tiền gửi bao gồm:tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ
hạn .Ngoài ra NHTM còn phát hành thêm chứng chỉ tiền gửi, các khoản vay từ các
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
• Hoạt động sử dụng vốn:
Trong nền kinh tế thị trường,NHTM thực chất cũng là một DN vì vậy khi
kinh doanh phải coi lợi nhận là mục tiêu hàng đầu và cuối cùng. Để tạo ra lợi nhuận
và thu nhập cho Ngân hàng thì các NHTM phải biết sử dụng và khai thác nguồn
vốn một cách triệt để và hiệu quả nhất .Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản đem
lại phần lớn lợi nhuận cho các NHTM. Các NHTM dùng nguồn vốn đã huy động

4

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

được để cho vay, từ đó thu lợi nhuận trên cơ sở phí đầu vào và phí đầu ra. Thực

hiện nghiệp vụ này, các NHTM không những đã thực hiện chức năng xã hội của
mình thông qua việc mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân mà còn có ý nghĩa rất lớn đến toàn bộ đời sống kỹ thuật thông qua
hoạt động tài trợ cho các ngành, các lĩnh vực phát triển công nghiệp, nông nghiệp
trong nền kinh tế .Ngoài hoạt động cho vay là chủ yếu, các NHTM còn thực hiện
các hoạt động đầu tư, hùn vốn liên doanh liên kết, kinh doanh chứng khoán trên thị
trường tài chính .Hoạt động này vừa mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng, vừa góp
phần điều hòa lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế.
• Hoạt động trung gian thanh toán :
Ngân hàng làm trung gian thanh toán thực hiện thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng bằng cách cung cấp các công cụ thanh toán thuận lợi như: séc, ủy nhiệm
thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Hoạt động này góp phần làm tăng
lợi nhuận thông qua việc thu phí dịch vụ thanh toán, đồng thời làm tăng nguồn vốn
cho vay của Ngân hàng thể hiện trên số dư Có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Ngoài các hoạt động trên, Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng nhiều
loại dịch vụ như: dịch vụ ủy thác, đại lý tài sản vốn của các tổ chức, cá nhân theo
hợp đồng, dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách
hàng, tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán...
• Hoạt động cho vay :
Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng thương
mại là cho vay .Hoạt động cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách như : Mục
đích, thời hạn, hình thức đảm bảo, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng ....
* Căn cứ theo hình thức bảo đảm thì khoản mục tín dụng được chia thành :
+ Cho vay có bảo đảm: là hoạt động quan trọng của ngân hàng .Cho vay có bảo
đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có
thể bao gồm nhiều loại khác nhau như:Bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, máy
móc thiết bị, cổ phiếu ... Yêu cầu cơ bản của những vật thế chấp là có thể bán được. Lý
do thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân
hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể
trả nợ khi đến hẹn.


5

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Sự bảo đảm là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do
chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. sự yếu kém này có thể được biểu
hiện thông qua một vài yếu tố bao gồm nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và lợi
nhuận thấp.Người vay trong điều kiện tài chính như vậy có thể tạo uy tín bằng việc thế
chấp các tài sản.Cho vay có bảo đảm cũng tạo tâm lý yên tâm cho ngân hàng.Khi người
vay đem cầm cố các tài sản mang quyền sở hữu của mình thì người vay sẽ có ý thức
hoàn trả nợ.Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần
được bảo đảm hay không.Khi kỳ hạn cho vay dài, rủi ro trong việc không hoàn trả tăng
lên thì các khoản cho vay càng cần có sự bảo đảm.
Khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không có người bảo đảm trả thay thì
khi đến hạn tài sản cầm cố,thế chấp có thể là động sản và cũng có thể là bất động sản.
+ Cho vay không bảo đảm: Khác với cho vay bảo đảm, cho vay không bảo đảm
được dựa trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay lợi tức có thể được
trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.Trong hoạt động ngân hàng một số khoản
vay lớn nhất được thực hiện dựa trên một cơ sở không bảo đảm.Một số công ty được
các ngân hàng xem là người vay chủ yếu, trong nhiều trường hợp họ được hưởng lãi
suất ưu đãi và không cần bảo đảm.Những công ty ấy có danh tiếng trên thị trường, có
cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và các dịch vụ được thị trường chấp nhận, có
lợi nhuận ổn định và với một tình hình tài chính vững mạnh. Họ sẵn sàng cung cấp cho
ngân hàng các báo cáo tài chính của mình để ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính và

sự tiến bộ của họ để ngân hàng cung cấp các khoản cho vay không đảm bảo.
Các doanh nghiệp không phải là những đơn vị duy nhất được vay không cần bảo
đảm, nhiều tác nhân cũng được hưởng đặc quyền ấy. Những người có nhà riêng, có
công ăn việc làm ổn định, hoạt động trong các công sở...
* Căn cứ theocác phương pháp hoàn trả thì khoản mục tín dụng được phân chia
thành:
+ Các khoản cho vay hoàn trả một lần:
Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thẳng,
nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng.Những
khoản lãi có thể được trả vào những thời điểm khác nhau hoặc trả khi đáo hạn .Đối với
khoản cho vay hoàn trả một lần, việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gánh nặng đối

6

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

với khách hàng.Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay
ngắn hạn.
+Các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần:
Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất định.
Cho vay hoàn trả nhiều lần thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn
thực hiện hợp đồng .Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành một gánh nặng lớn đối với
người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay được trả một lần. Đối với nhiều
người có khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví dụ như các khoản trả góp đóng một vai
trò như một phương tiện tích luỹ .Nó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.

* Căn cứ theo kỳ hạn thì khoản mục tín dụng được phân chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn:
Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn 1 năm hoặc ít hơn ,cho vay ngắn hạn được
thực hiện trong một thời gian nhất định dưới 1 năm hoặc trên cơ sở theo yêu cầu. Cho
vay theo yêu cầu là khoản vay không có kỳ hạn nhất định và phải được trả khi khách
hàng có yêu cầu vào bất cứ lúc nào. Cho vay theo yêu cầu của người vay ở vào một vị
thế rất linh hoạt và có thể trả nợ trong một thời gian rất ngắn.
Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ
mang tính thời vụ về vốn luôn chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh
+Cho vay trung và dài hạn:
Việc quy định về thời gian cho các khoản vay trung và dài hạn theo những quy
định riêng của từng quốc gia .Theo quy định của nước ta, những khoản vốn cho vay từ
1 năm đến 3 năm được coi là trung hạn, những khoản vốn cho vay từ 3 năm trở lên
được coi là dài hạn .Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn và người vay
thưòng dùng để đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định.
Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung và dài hạn vì một số
lý do:
Thứ nhất: Đối với các khoản vay trung và dài hạn khách hàng có thể yên tâm về
thời gian sử dụngđồng vốn trong sản xuất kinh doan.

7

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân


Thứ hai: Các khoản vay trung và dài hạn thường thuận tiện hơn các khoản vay
ngắn hạn.
Thứ ba: Các khoản vay trung và dài hạn dễ ràng thực hiện hơn so với các hình
thức tài trợ khác như: phát hành trái phiếu, cổ phiếu mới...
Vốn trung hạn và dài hạn là một nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự tăng
trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển.
• Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp Ngân hàng Thương
mại sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng thời, nó cũng mang
lại nguồn thu nhập quan trọng cho Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Thương mại có
thể đầu tư vốn mua chứng khoán ngắn hạn của chính phủ.Những chứng khoán này vừa
mang lại thu nhập cho Ngân hàng Thương mại , vừa góp phần vào việc cân bẳng thu
chi ngân sách thường xuyên ; đồng thời góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế quốc dân.
Ngân hàng Thương mại còn được phép đầu tư vốn để mua cổ phiếu và trái phiếu
của các doanh nghiệp,qua đây những Ngân hàng thương mại lớn tham gia vào việc
thành lập quản lý các doanh nghiệp .Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại chỉ được đầu
tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định, không được để hoạt động này lấn át hoạt
động cho vay.
• Hoạt động ngân quỹ
Là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng . Nó bao gồm nghiệp vụ
quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở Ngân hàng Thương mại , tiền trong
quá trình thu nhận , và cũng có thể bao gồm cả nghiệp vụ về chứng khoán ngắn hạn.
+ Quỹ tiền mặt bao gồm tiền giấy và tiền đúc được sử dụng để chi trả cho khách
hàng. Quỹ tiền mặt lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô ngân hàng, mối quan hệ
giữa thanh toán tiền mặt và thanh toán chuyển khoản, tính thời vụ của các khoản chi
tiền mặt.
+ Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại ở Ngân hàng Trung ương bao gồm tiền
gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán (dư thừa)


8

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

+ Tiền gửi ở các ngân hàng khác phục vụ cho việc chi trả theo yêu cầu của khách
hàng, của Ngân hàng Thương mại này qua một Ngân hàng Thương mại khác.
1.1.3 Vai trò của NHTM trong cơ chế thị trường:
Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng nó
được thể hiện qua các vai trò sau:
Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là nơi tập trung vốn tạm thời nhận rồi trong xã
hội để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế, qua đó chuyển tiền thành tư bản để
đầu tư phát triển sản xuất và tăng cường hiệu quả hoạt động của tiền vốn. Trong xã hội
luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn một cách tạm thời .Những cá nhân, tổ
chức có tiền nhàn rỗi tạm thời thì muốn bảo quản số tiền một cách an toàn nhất và có
hiệu quả nhất .Trong khi đó những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay
được những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình .Chính vì
vậy Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính tốt nhất để thực hiện chức năng
là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Ngân hàng là một điạ chỉ tốt nhất mà những người
dư thừa về vốn có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất và ngược lại cũng là
một nơi sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai: Hoạt động của các Ngân hàng thương mại góp phần tăng cường hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế .Ngân hàng thương mại với địa vị là một trung gian tài chính thực hiện
chức năng là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên thị trường tiền tệ đã góp phần
đẩy nhanh hoạt động của nền kinh tế, đem lại thuận lợi cho hoạt động của các cá nhân

và tổ chức .Những cá nhân và tổ chức đã giảm được các khoản chi phí trong việc tìm
kiếm các nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, và ngoài ra có thể vân dụng các
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng để đẩy nhanh hoạt động của mình.
Việc vay vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất tối ưu và có hiệu quả kinh tế thì mới có thể trả lãi và trả vốn cho
ngân hàng. Việc lập phương án sản xuất tối ưu do doanh nghiệp lập ra phải qua sự kiểm
tra, thẩm định kỹ lưỡng của ngân hàng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có
thể sảy ra.

9

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Ngược lại những cá nhân và tổ chức dư thừa về vốn có thể yên tâm đem gửi tiền
của mình vào ngân hàng vì ngân hàng là một địa chỉ có thể bảo quản tiền vốn một cách
an toàn và hiệu quả tốt nhất. Khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn và khả năng sinh
lời của đồng vốn và cũng có thể rút tiền của mình bất cức lúc nào muốn. Có thể lãi suất
mà ngân hàng trả cho khách thấp hơn so với việc đầu tư tiền vốn vào những lĩnh vực
như: mua cổ phiếu, đầu tư vào kinh doanh ....nhưng việc gửi tiền vào ngân hàng là có
hệ số an toàn cao nhất. Thêm vào đó những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách
hàng như: chuyển tiền, thanh toán hộ, các dịch vụ tư vấn ... sẽ tạo thêm thuận tiện cho
khách hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tất cả những hoạt động của ngân hàng là cơ sở giúp cho việc tăng cường hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung
Thứ ba: Ngân hàng thương mại thông qua những hoạt động của mình góp phần

vào việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như : ổn định giá cả,
kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm cao, ổn định lãi xuất, ổn định thị trường tài
chính, thị trường ngoại hối, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Với các công cụ mà Ngân
hàng trung ương dùng để thực thi chính sách tiền tệ như: Chính sách chiết khấu; tỷ lệ
dự trù bắt buộc của Ngân hàng trung ương đối với Ngân hàng thương mại: lãi suất tín
dụng hoặc bằng các nghiệp vụ thị trường tự do .Thì các ngân hàng đóng một vai trò
quan trọng trong việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia .Các Ngân hàng thương mại
có thể thay đổi lượng tiền trong lưu thông bằng việc thay đổi lãi suất tín dụng hoặc
bằng các nghiệp vụ trên thị trường mở qua đó góp phần chống lạm phát và ổn định sức
mua của đồng nội tệ.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại bằng hoạt động của mình đã thức hiện việc phân
bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế đồng đều giữa các
vùng khác nhau trong một quốc gia .Các vùng kinh tế khác nhau thì có sự phát triển
khác nhau. Hiện tượng thừa vốn hoặc thiếu vốn một cách tạm thời giữa các vùng diễn
ra thường xuyên .Do đó vấn đề đặt ra là làm sao thực hiện tốt nhất hiệu quả huy động
của vốn và chính hoạt động điều chuyển vốn trong nội bộ ngân hàng đã thực hiện tốt
vấn đề này.
Thứ năm: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền kinh tế các nước và thế
giới, tạo điều kiện cho việc hoà nhập của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong
khu vực và nền kinh tế thế giới. Với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế trong khu vực
10

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

và nền kinh tế thế giới cùng với chính sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế

xã hội của các quốc gia trên thế giới thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại được
mở rộng và thúc đẩy cho việc mở rộng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong
nước. Với hoạt động rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng được nguồn vốn
từ các cá nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm được nguồn vốn cho nền
kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt
động của họ ra nước ngoài một cách rễ dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ hoạt động thanh
toán quốc tế, bảo lãnh.
Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước có sự thâm
nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước khác trên
thế giới.
- Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng là nơi cấp vốn cho nền kinh
tế.
- NHTM là cầu nối giữa DN với thị trường, hoạt động của các DN chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh.
- NHTM là một chủ thể tạo sự tác động trực tiếp của những công cụ như lãi
suất, dự trữ bắt buôc, thị trường mở... Các NHTM đã góp phần mở rộng và thu hẹp
khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn định giá trị đồng tiền cả về mặt đối
nội và đối ngoại.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
1.2. Hộ sản xuất và tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản
xuất:
1.2.1 Khái niệm và vai trò của HSX trong chiến lược phát triển kinh tế ở Việt
Nam:
• Khái niệm HSX:
HSX (Hộ sản xuất) là đơn vị tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh,
tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Thành phần gồm: hộ nông dân (nông, lâm, ngư, diêm nghiệp), hộ đánh bắt
thủy sản, cá nhân kinh doanh, hộ làm kinh tế gia đình và hộ khác. Lĩnh vực hoạt
động sản xuất kinh doanh dịch vụ trong các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp,


11

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

tiểu thủ công nghiệp .Địa bàn hoạt động là nông thôn, thị trấn và ven thị xã, thành
phố.
Vậy HSX là một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ, sản xuất kinh doanh theo
định hướng phát triển kinh tế địa phương và pháp luật quy định, là chủ thể
trong mọi quan hệ sản xuất và tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của
mình .Vì thế các hộ sản xuất luôn luôn khai thác mọi khả năng, trí tuệ và năng lực
sản xuất của mình để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội.
Hộ sản xuất xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao đất
quản lý và sử dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh trên một số
lĩnh vực nhất định do Nhà Nước quy định.
Trong quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự: Những hộ gia đình mà các thành
viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong
hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó .Những
hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên
quan đến đất ở đó.
Chủ hộ là đại diện của hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự vì lợi ích
chung của hộ .Cha mẹ hoặc một thành viên khác đã thanh niên có thể là chủ hộ.
Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ

trong quan hệ dân sự .Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ sản xuất xác lập,
thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của hộ sản xuất.
Tài sản chung của hộ sản xuất gồm tài sản do các thành viên cùng nhau tạo
lập lên hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận
là tài sản chung của hộ. Quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ cũng là tài sản chung
của hộ sản xuất.
Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách
nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực
hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng
tài sản riêng của mình.
Như vậy,hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lới ở nông thôn .Hộ sản
xuất trong nhiều ngành nghề hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn .Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh ngành
12

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới trên đã góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua
.
• Vai trò của HSX trong chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam:
Theo khái niệm thì HSX hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều ngành
nghề, nhưng hiện nay chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp .Kinh tế HSX
kinh doanh rất đa dạng, vừa trồng trọt vừa chăn nuôi hoặc làm thêm các nghề phụ.

HSX rất thiếu vốn sản xuất. Họ thiếu cả vốn lưu động (chi phí sản xuất theo
thời vụ) và cả vốn cố định (mua sắm phương tiện, công cụ sản xuất). Nhu cầu vay
vốn của họ là rất cần thiết. HSX kinh doanh với mức vốn thấp hơn vốn pháp định
của DN tư nhân, họ cũng tự bỏ vốn kinh doanh, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình. Chính sách và chủ trương mới của Đảng và Nhà nước trong việc
chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo
tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển nhanh chóng của khu vực ngoài
quốc doanh, đặc biệt là HSX. Cùng với kinh tế Nhà nước, HSX với tinh thần tự chủ
năng động – sáng tạo đã nhanh chóng thích nghi với những biến đổi thường xuyên
của thị trường và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của mình trong
nền kinh tế, cụ thể:
- Sử dụng hợp lý nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nông thôn.
- Sử dụng, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có trong các vùng nông
thôn: về đất đai, công cụ lao động, áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất
kinh doanh, phát minh sáng chế cải tiến kỹ thuật, thâm canh tăng vụ, nâng cao hệ số
sử dụng đất...
- Nông nghiệp nông thôn là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nhiều
loại nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp chế biến.
- Kinh tế HSX có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, vì thế có thể đáp
ứng tốt nhất những nhu cầu chung của xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất ở nước ta.
- HSX phát triển góp phần tăng thêm nguồn thu cho NSNN. Do vậy Nhà
nước cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, coi trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
điện nước thông tin, giao thông vận tải để các thành phần kinh tế – nhất là HSX có
điều kiện sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- HSX là một trong những thành phần kinh tế để Ngân hàng huy động vốn
tín dụng, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.

13

Tài Chính 3 –K40



GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

- Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiệ sang kinh tế
hàng hóa .
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hóa đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh
tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ trên quy mô hộ gia đình. Tiếp theo là giai
đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hóa nhỏ lên kinh tế hàng hóa quy mô lớn- đó là
nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ trên quy
mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa từng trải qua thì khó có thể
phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém
phát triển
- Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải
quyết việc làm ở nông thôn.
Việc làm là một trong những vấn đề cấp bách đối với toàn xã hội nói chung
và đặc biệt là nông thôn hiện nay. Nước ta có trên 70% dân số sống ở nông thôn.
Với một đội ngũ lao động dồi dào, kinh tế quốc doanh đã được nhà nước trú trọng
mở rộng song mới chỉ giải quyết được việc làm cho một số lượng lao động nhỏ. Lao
động thủ công và lao động nông nhàn còn nhiều. Việc sử dụng khai thác số lao
động này là vấn đề cốt lõi cần được quan tâm giải quyết.
Từ khi được công nhận hộ gia đình là 1 đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời với
việc nhà nước giao đất, giao rừng cho nông – lâm nghiệp, đồng muối trong diêm
nghiệp, ngư cụ trong ngư nghiệp và việc cổ phần hóa trong doanh nghiệp, hợp tác
xã đã làm cơ sở cho mỗi hộ gia đình sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất nguồn lao
động sẵn có của mình. Đồng thời chính sách này đã tạo đà cho một hộ sản xuất,
kinh doanh trong nông thôn tự viên lên mở rộng sản xuất thành các mô hình kinh tế

trang trại, tổ hợp tác xã thu hút sức mạnh lao động, tạo công ăn việc làm cho lực
lượng lao động dư thừa ở nông thôn
- Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất
hàng hóa.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do
cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản
xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản
xuất như thế nào ? để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ
sản xuất đề phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp

14

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất
đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ
dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng
đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và nhà nước có các chính
sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy, với khả năng
ngạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu
ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển
cao hơn.
Từ sự phân tích trên ta thấy kinh tế HSX là thành phần kinh tế không thể
thiếu được trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa xây dựng đất nước. Kinh

tế hộ phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong cả nước nói chung,
kinh tế nông thôn nói riêng và cũng từ đó tăng mọi nguồn thu cho ngân sách địa
phương cũng như ngân sách nhà nước.
Không những thế hộ sản xuất còn là người bạn hàng tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ của ngâng hàng nông nghiệp trên thị trường nông thôn. Vì vậy họ có mối quan
hệ mật thiết với Ngân hàng nông nghiệp và đó là thị trường rộng lớn có nhiểu tiềm
năng để mở rộng đầu tư tín dụng mở ra nhiều vùng chuyên canh cho năng xuất và
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
Kinh tế HSX đóng vai tò quan trọng trong việc thúc đầy phát triển kinh tế
xã hội. Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động,
tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội. Là đối tác cạnh
tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình cùng vận động và phát triển. Hiệu quả
đó gắn liền với sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được chi phí, chuyển hướng sản xuất,
tạo được quỹ hàng hóa cho tiêu dùng và xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách nhà
nước.
Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế HSX tạo điều kiện mở rộng thị
trường vốn, thu hút nhiều nguồn đầu tư.
Cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện
cho kinh tế HSX phát triển đã góp phần đảm bảo lương thực quốc gia và tạo được
nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội, nâng
cao trình độ dân trí, sức khỏe và đời sống của người dân. Thực hiện mục tiêu “ Dân
giàu,nước mạnh xã hội công bằng văn minh’’ Kinh tế HSX được thừa nhận là đơn

15

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương


Đại Học Kinh tế Quốc Dân

vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả
hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng.

1.2.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế HSX:
TDNH (Tín dụng Ngân hàng) là một trong những công cụ để Nhà nước tiến
hành điều hoà lưu thông tiền tệ và từ đó điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, nó luôn đồng
hành và có tác động đáng kể đến sự ổn định, cân đối tăng trưởng kinh tế. Cụ thể
hơn, TDNH là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự tính vật tư hàng hoá, trang
trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, đồng thời cho vay trung hạn để
mua máy móc thiết bị, xây dựng các công trình, kết cấu hạ tầng, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật công nghệ. Ngoài ra TDNH còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu
dùng của cá nhân, HSX.
Để giữ uy tín của mình và mở rộng huy động vốn, Ngân hàng thường đưa ra
các hình thức huy động linh hoạt, đầy đủ, kịp thời và chính xác, phù hợp cho người
gửi tiền cũng như người vay tiền. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi quan hệ
hàng hoá tiền tệ đã phát triển phong phú, đa dạng, đan xen lẫn nhau thì hệ thống các
nguyên tắc, điều kiện cho vay phải được nghiên cứu một cách khoa học nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro cho Ngân hàng
- TDNH đáp ứng nhu cầu vốn để duy trù quá trình sản xuất, phát triển kinh tế
cho HSX:
Đối tượng lao động cuae HSX rất đa dang, phổ biến nhất trong nông nghiệp vẫn là
đất đai, con giống, các loại cây trồng... Tuy nhiên những tài nguyên đó đang dần ít
đi, đồng thời hiện nay có một phần đất nông nghiệp được dùng vào nhiều mục đích
khác. Vì vậy sản xuất thâm canh, tăng vụ thì mới thu hút thêm nhiều lao động và
tăng thêm thu nhập. Do đó TDNH đầu tư thêm vốn cho HSX để họ có thêm vốn lưu
động và vốn cố định, tăng thêm điều kiện sản xuất, có thêm đối tượng và công cụ
lao động để sản xuất được duy trì thường xuyên và liên tục mở rộng.
- TDNH góp phần hình thành thị trường tài chính ở nông thôn :

Nước ta là nước nông nghiêph với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, vì vậy
muốn chuyển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa thì
cần phải có thị trường đồng bộ bởi đây là một địa bàn rộng lớn, là nơi cung ứng
hàng hóa, nông sản cho tiêu dùng cả nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và
là nơi có sức mua và tiêu thụ hàng hóa dịch vụ khá cao. Do đó việc hình thành một

16

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

thị trường tài chính ở khu vực này là cần thiết. Với vai trò này, TDNH thực hiện
trước mắt công việc ở nông thôn hiện nay là dùng nguồn vốn của mình phục vụ cho
quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành sản xuất hàng hóa.
- TDNH giúp hạn chế việc cho vay nặng lãi trong nông thôn:
Tại nông thôn ta trước đây, lực lượng tín dụng phi tổ chức vẫn đang chi phối rất lớn
( khoảng 30- 40% nông dân phải vay vốn của loại tín dụng này). Nhưng từ khi Nhà
nước ban hành chính sấch cho vay kinh tế hộ, việc cho nông dân vay vốn với nhiều
hình thức ưu đãi giúp họ vươn lên trong cuộc sống.
- TDNH giúp tăng cường việc hạch toán kinh tế cho HSX :
Các HSX luôn thường xuyên trong tình trạng thiếu vốn, họ chỉ có sức lao động, có
khả năng sản xuất mà không có vốn bằng tiền hoặc bằng tài sản khác tham gia vào
một dự án kinh doanh. Mặt khác, việc hạch toán kinh doanh của họ còn rất hạn chế,
không thể xác định được đúng hiệu quả sử dụng vốn.
Khi vay Ngân hàng với lãi suất vừa phải mà HSX chấp nhận được, đã làm cho họ
phấn khởi hơn. Thông qua phương án, dự án kinh doanh gửi tới Ngân hàng họ đã

biết tính toán làm sao sử dụng vốn có hiệu quả để có thể trả được nợ choi Ngân
hàng cả gốc và lãi, phần còn lại tái đầu tư vào sản xuất của chu kỳ tiếp theo. Như
vậy thông qua việc cho vay vốn, Ngân hàng đã tạo cho HSX làm quen dần với
phương pháp tính toán kinh tế đơn giản, một phạm trù trong nền kinh tế thị trường.
- Vai trò của TDNH xét về mặt chính trị, xã hội :
Vốn tín dụng tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và đã thực sự làm giàu
cho nông nghiệp, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giảm bớt sự phân cấp giai tầng
trong xã hội.
Dân số và lực lượng lao động của HSX chiếm tỉ lệ cao trong cả nước, nếu
không giải quyết tốt việc làm cho họ thì tất yếu sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội, các tệ
nạn sẽ có điều kiện phục hồi, ý thức về sự nghiệp cách mạng cũng như vai trò của
Đảng, Nhà nước sẽ bị lu mờ đi trong nhận thức của nông dân.
TDNH đã tạo thêm cho HSX có việc làm và thu nhập, hạn chế bớt những phân
hóa bất hợp lý trong nền kinh tế. Từ đó mới động viên được sức người, sức của để
xây dựng đất nước giàu đẹp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tệ HSX mở
rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề. Khai thác các tiềm năng về
lao động, đất đai, mặt nước và các nguồn lực vào Sản xuất. Tăng sản phẩm cho xã
hội, tăng thu nhập cho HSX.
17

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Tạo điều kiện cho kinh tế HSX tiếp cận và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị trường và từng bước điều tiết

sản xuất phù hợp với tín hiệu của Thị Trường.
Thúc đẩy kinh tế HSX chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng
hóa, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thúc đẩy các hộ gia đình tính toán, hạch toán trong sản xuất kinh doanh, tính
toán lựa chọn đối tượng đầu tư để đạt được hiêu quả cao nhất. Tạo nhiều việc làm
cho người lao động.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tính hàng hóa của sản
phẩm nông nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN.
Ngân hàng thực hiện mở rộng đầu tư kinh tế HSX, thực hiện mục tiêu của
Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn cho vay
cho thấy cơ chế hiện nay vẫn còn nhiều bất cập như quy định về thế chấp, cầm cố,
bảo lãnh vay vốn, cách xử lý tài sản thế chấp giải quyết như thế nào? Việc cho vay
tín chấp người vay không trả được thì các tổ chức đoàn thể chịu đến đâu? Thực tế
họ chỉ chịu trách nhiệm còn rủi ro, tổn thất vẫn là Ngân hàng chịu. Nếu không có
nhứng giải pháp để tháo gỡ thì Ngân hàng không thể mở rộng đầu tư vốn và nâng
cao hiệu quả việc cho vay phát triển Kinh tế HSX.
1.3 Rủi ro tín dụng của NHTM trong cho vay kinh tế HSX:
1.3.1 Khái niệm, bản chất và phân loại RRTD:
- Khái niệm RRTD:
RRTD (rủi ro tín dụng) thực chất là khả năng một khách hàng vay hoặc một
đối tác không hay không thể thực hiện nghĩa vụ đã thoả thuận dẫn đến việc các
khoản vay hay các khoản phải thu của Ngân hàng giảm giá trị hoặc không thu hồi
được.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 về phân
loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro thì RRTD trong hoạt động Ngân hàng của Tổ chức
tín dụng là: khả năng xảy ra tổn thất do khách hàng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Có thể nói, RRTD là rủi ro gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân

hàng. RRTD không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động
18

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

mang tính chất tín dụng khác của Ngân hàng như: các hoạt động bảo lãnh, cam kết,
chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên Ngân hàng, những chứng
khoán có giá (trái phiếu, cổ phiếu...), trái quyền, Swap, tín dụng thuê mua, đồng tài
trợ...
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro, đối với ngân hàng thương mại, rủi ro là
một biến cố không mong đợi gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
Rủi ro tín dụng là những rủi ro do khách hàng vay không thực hiện đúng các
điều khoản của Hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ,
trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra
những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng ảnh
hưởng rất lớn đến mọi hoạt động của Ngân hàng .Nếu món vay của Ngân hàng bị
thất thoát, dân chúng sẽ thiếu lòng tin và tìm cách rút tiền khỏi Ngân hàng, từ đó
ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng thương mại .Khi rủi ro tín
dụng phát sinh, Ngân hàng thương mại không thực hiện được kế hoạch đầu tư cũng
như kế hoạch thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn. Rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến
khó khăn trong việc huy động vốn và phát triển các sản phẩm dịch vụ, khó mở rộng
quan hệ với các bạn hàng và các Ngân hàng khác, buộc Ngân hàng phải thu hẹp

hoạt động, tất cả thể hiện ở lợi nhuận giảm, ngân hàng phải sử dụng vốn tự có để bù
đắp sự giảm sút đó, uy tín của Ngân hàng giảm sút, dẫn đến tình trạng khó khăn,
phá sản.
-Phân Loại RRTD :
a. Rủi ro do không hoàn trả đúng hạn (Rủi ro đọng vốn):
Khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, Ngân hàng và khách hàng phải quy ước
về khoảng thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên nếu đến thời hạn quy định mà
Ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay thì những tổn thất xảy ra trong
trường hợp này được gọi là rủi ro không hoàn trả đúng hạn (rủi ro đọng vốn).
Khi loại rủi ro này xảy ra có thể sẽ làm đông cứng các khoản vốn của Ngân hàng,

19

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

ảnh hưởng nghiêm trọng tới kế hoạch sử dụng vốn và gây cản trở, khó khăn cho
việc chi trả cho người gửi tiền của Ngân hàng.
b. Rủi ro không có khả năng trả nợ (Rủi ro bị mất vốn một phần hoặc toàn
phần):
Là rủi ro xảy ra trong trường hợp khách hàng đi vay đã mất khả năng chi
trả. Do vậy Ngân hàng chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của khách hàng
để đỡ một phần nợ gốc. Tuy nhiên vấn đề này rất khó khăn vì:
- Giá trị của tài sản thanh lý bị giảm giá rất nhiều so với tài sản thẩm định
ban đầu.
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán do tâm lý ít ai muốn mua chúng.

- Giá trị của tài sản thanh lý thường bị san sẻ cho những chủ nợ ưu tiên khác
như: nộp thuế cho Nhà nước, trả lương cho cán bộ công nhân viên. Vì vậy nhiều khi
giá trị còn lại thuộc về Ngân hàng ít hơn hoặc có khi chi phí phát sinh trong quá
trình thanh lý gần bằng thậm chí lớn hơn khoản tiền nhận được.
Nói chung các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và là
gánh nặng thực sự đối với các Ngân hàng.
1.3.2 Nguyên nhân dẫn đến RRTD trong cho vay HSX:
• Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Ngân hàng đưa ra chính sách tín dụng không phù hợp với nền kinh tế và thể
lệ cho vay còn sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.
- Do cán bộ Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy trình cho vay như: không
đánh giá đầy đủ chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay khống, thiếu tài
sản đảm bảo, cho vay vượt tỉ lệ an toàn. Đồng thời cán bộ không kiểm tra, giám sát
chặt chẽ về tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn non kém nên việc đánh giá
các dự án, hồ sơ xin vay chưa tốt nên xảy ra tình trạng dự án thiếu tính khả thi mà
vẫn cho vay.
- Cán bộ Ngân hàng thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh doanh
như: thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, xâm tiêu khi giải ngân
hay thu nợ, đôi khi nể nang trong quan hệ với khách hàng.
- Ngân hàng đôi khi quá chú trọng đến lợi nhuận, đặt những khoản vay có lợi
nhuận cao hơn những khoản vay lành mạnh.
- Do áp lực cạnh tranh với các Ngân hàng khác.
- Do tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn ra trong nội bộ Ngân hàng.
20

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương


Đại Học Kinh tế Quốc Dân

• Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Do thu nhập của khách hàng vay không đảm bảo.
- Khách hàng không kiểm soát được chi phí.
- Mức độ hiệu quả của khách hàng trong việc tận dụng các nguồn lực để tạo
ra doanh thu yếu.
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm suy giảm.
- Khả năng trang trải các chi phí tài chính có biểu hiện xấu.
- Khả năng thanh toán của khách hàng có vấn đề.
- Do khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Do khả năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, trình độ nhận thức, việc
áp dụng khoa học kỹ thuật của khách hàng còn yếu kém làm cho hiệu quả sản xuất
chưa cao.
- Khách hàng phải đối mặt với những khoản chi trả bất thường làm tăng nhu
cầu thanh toán tiềm năng trong tương lai.
- Do khả năng tài chính vốn có của khách hàng hạn chế, không đủ điều kiện
để sản xuất kinh doanh.
- Do bản thân DN có chủ ý lừa gạt, chiếm dụng vốn của Ngân hàng, dùng
một loại tài sản thế chấp đi vay nhiều nơi, không đủ năng lực pháp nhân.
• Nguyên nhân khác:
- Rủi ro bởi thiên tai: lũ lụt, hạn hán, bão... hay nghiêm trọng hơn là lốc
xoáy, rét đậm kéo dài, mưa đá, xói mòn, triều cường. Tất cả đều do thiên nhiên gây
ra làm thiệt hại đến cây trồng, vật nuôi là các đối tượng đầu tư vốn cho vay, làm
giảm năng suất từ đó sinh ra nợ quá hạn, nợ khê đọng, nợ khó đòi cho Ngân hàng.
- Rủi ro về thị trường: ví dụ khách hàng vay vốn Ngân hàng để đầu tư sản
xuất hay kinh doanh chế biến, tiêu thụ một loại nông, lâm, thủy hải sản nào đó, hoặc
làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống để xuất khẩu... Nhưng khi thu
hoạch hay tiêu thụ sản phẩm thì giá cả xuống quá thấp, sản phẩm tồn đọng kéo dài

không tiêu thụ được, tiếp đó lại bị xuống cấp về chất lượng, giảm giá bán, thua lỗ
kéo dài. Từ đó dẫn đến nợ đọng vốn vay Ngân hàng, mất khả năng trả nợ (tiêu biểu
là tình trạng của các loại cây cà phê, sao su, hạt điều ở khu vực Tây Nguyên nhiều
năm trước đây).
- Rủi ro bởi gia đình người vay gặp hoạn nạn: Nếu như không may trong gia
đình có một thành viên lao động chính bị mất, bị tai nạn hoặc mất khả năng lao

21

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

động, nhà cửa bị hỏa hoạn hoặc những rủi ro tương tự thì rõ ràng hộ đó rơi vào tình
trạng khó khăn. Do đó cho dù là hộ gia đình có vay vốn chính sách, vay vốn ưu đãi
hay vay vốn thông thường thì đều khó có thể trả nợ đúng hạn, thậm chí không còn
khả năng trả nợ.
- Rủi ro về cơ chế chính sách: Nhà nước quy hoạch và vận động nông dân
nuôi trồng một loại sản phẩm nào đó để thu mua chế biến. Nhưng đến khi Ngân
hàng cho vay vốn, nông dân đầu tư vốn và công sức, vật tư cho nuôi trồng đại trà
loại nông phẩm đó thì nhà máy chưa xây dựng xong, hoặc dự án xây dựng nhà máy
bị đình hoãn khiến người dân thu hoạch sản phẩm không biết bán cho ai. Người sản
xuất bị thua lỗ, thiệt hại, còn Ngân hàng cho vay cũng gặp khó khăn (tiêu biểu là
hiện tượng cây mía đường nhiều năm trước).
- Các loại rủi ro khác: do nguồn nước bị ô nhiễm nặng làm thiệt hại đến
nguồn lợi thủy hải sản tự nhiên hay nuôi trồng; chất thải công nghiệp gây thiệt hại
mùa màng và môi sinh của các loại cây lương thực...

1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong cho vay của Ngân hàng:
• Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu:
- Nợ quá hạn:
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của một
Ngân hàng. NQH (nợ quá hạn) được hiểu là các khoản nợ mà người vay không có
khả năng thanh toán đầy đủ đúng hạn như đã cam kết với Ngân hàng khi đến
hạn trả nợ. Khi đáo hạn, người vay không trả được nợ cho Ngân hàng thì Ngân
hàng sẽ chuyển khoản nợ này sang NQH. Để xem xét mức độ rủi ro thông qua
NQH, ta sử dụng chỉ tiêu sau:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

x 100%

Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng không thể thu hồi
đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ đã cho vay tại thời điểm xác định. Tỷ lệ NQH
càng cao thì mức độ RRTD của Ngân hàng càng lớn.
-Nợ xấu:
Theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam tại quyết định số 165 ban hành
ngày 06/06/2005 thì dư nợ tại NHTM được xếp hạng thành 5 loại như sau:

22

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân


- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm các khoản nợ trong hạn. Đó là các
khoản nợ mà khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, ổn định và có lãi, trả nợ đầy
đủ và đúng hạn.
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý bao gồm các khoản nợ dưới 90 ngày. Đó là những
khoản nợ có kỳ hạn trả nợ chưa thực sự thích hợp với khả năng trả nợ hoặc khoản
nợ có độ rủi ro cao hơn bình thường.
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm các khoản nợ từ 90 ngày đến 180
ngày. Đó là những khách hàng có tình hình kinh doanh thua lỗ, khả năng trả nợ biểu
hiện khó khăn, đang có nợ gia hạn, nợ khoanh hoặc đảo nợ.
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ bao gồm các khoản nợ từ 181 đến 360 ngày. Đó là
những khoản nợ mà khách hàng có tình hình kinh doanh thua lỗ nghiêm trọng, vốn
chủ sở hữu âm.
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Theo quyết định 165/QĐ-HĐQT ban hành ngày 06/06/2005 thì nợ xấu
bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5.

Tổng dư nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5
Tỷ lệ nợ xấu =

x 100%
Tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì mức độ RRTD của Ngân hàng càng lớn.
• Tỷ lệ nợ mất vốn:
Dư nợ mất vốn
Tỷ lệ nợ mất vốn =

x 100%

Tổng dư nợ

Dư nợ mất vốn là những khoản nợ có khả năng mất vốn. Do vậy Ngân hàng
cần phải sử dụng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro để xử lý, đồng thời đưa khoản nợ này
ra bảng tổng kết tài sản. Tỷ lệ này càng cao thì RRTD của Ngân hàng càng lớn.
• Tỷ lệ dự phòng RRTD đã trích lập:

23

Tài Chính 3 –K40


GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Dự phòng rủi ro đã trích lập
Tỷ lệ DPRR đã trích lập =

x 100%

Tổng dư nợ
Đây là khoản tiền đã trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra
do khách hàng hay đối tác của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Nếu
một Ngân hàng trích lập quá nhiều DPRR sẽ làm tăng chi phí hoạt động vì vậy lợi
nhuận của Ngân hàng sẽ bị giảm. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng
của Ngân hàng không tốt.
Theo quyết định 165 ngày 06/06/2005 của HĐQT, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ
thể đối với các nhóm nợ như sau:
- Nhóm 1: 0%

- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
• Tỷ lệ bù đắp rủi ro:

Dự phòng rủi ro đã trích lập
Tỷ lệ bù đắp rủi ro =

x 100%

Nợ xấu
Nếu Ngân hàng kinh doanh hiệu quả không cao, gặp nhiều rủi ro thì tỷ lệ bù
đắp rủi ro càng lớn. Tỷ lệ nợ xấu tăng là mối đe doạ đối với công tác tín dụng Ngân
hàng. Chính vì vậy đòi hỏi Ngân hàng phải có chính sách tín dụng hợp lý trong kinh
doanh, cách hữu hiệu nhất vẫn là thận trọng, mạnh dạn, đúng mức... để đạt được
hiệu quả kinh doanh tối đa.
1.3.4 Hậu quả của rủi ro tín dụng:
- Đối với NHTM:
RRTD luôn được coi như mối nguy hiểm lớn nhất đối với hoạt động của các
NHTM. Theo thông kê của uỷ ban Basel, RRTD là nguyên nhân gây ra 70% thua lỗ
của các Ngân hàng trên thế giới.
Ở mức độ thấp, RRTD là mất đi cơ hội, khả năng tích luỹ vốn, làm giảm sức
mạnh của ngân hàng.
- Đối với người đi vay:
24

Tài Chính 3 –K40



GVHD: TS Nguyễn Thị Thùy Dương

Đại Học Kinh tế Quốc Dân

Thông thường RRTD là hệ quả của rủi ro kinh doanh của khách hàng. Với nợ
quá hạn người đi vay hoàn toàn mất nguồn tài trợ từ các ngân hàng, cơ hội kinh
doanh sẽ tuột mất, tài sản sẽ bị tịch thu hoặc phát mại, người đi vay sẽ đứng trước
nguy cơ phá sản.
- Đối với nền kinh tế xã hội:
RRTD chứng tỏ người vay vốn đã không thực hiện được hiệu quả đầu tư như
đặt ra khi vay vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại. Do đó lợi ích kinh tế xã hội
dự kiến nhận được đã không có. Sản xuất và lưu thông hàng hoá sẽ đình trệ, chức
năng làm công cụ điều tiết nền kinh tế sẽ bị suy yếu. Quyền lợi của người gửi tiền
sẽ không được đảm bảo.
Từ các chỉ tiêu trên cho thấy việc phòng ngừa và quản lý RRTD là rất cần
thiết, nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh và trong suốt quá trình
tồn tại, phát triển của các NHTM.
1.3.5 Biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong cho vay của NHTM:
• Phân tích đánh giá chính xác về khách hàng:
Đây là biện pháp tích cực nhất nhằm hạn chế và phòng chống rủi ro. Bởi có
đánh giá đúng khách hàng thì mới biết được khả năng hoàn trả nợ của họ. Đánh giá
khách hàng thường dựa vào các mặt sau:
- Đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
- Đánh giá tư cách, năng lực và trình độ hiểu biết của người đứng đầu DN.
- Đánh giá tính khả thi của phương án xin vay.
- Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng.
- Thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay.
• Biện pháp phân tán rủi ro:
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, Ngân hàng không nên tập trung
những khoản tiền lớn để cho vay hoặc đầu tư vào một DN vì mức độ an toàn không

cao. Để thực hiện được điều này Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Giới hạn quy mô tín dụng cho một khách hàng nào đó, tránh tập trung vốn
quá lớn cho một khách hàng.
- Tham gia bảo hiểm tín dụng.
- Lập quỹ DPRR.
- Liên kết đầu tư.
• Nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ:

25

Tài Chính 3 –K40


×