Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những hạn chế củapháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.27 KB, 16 trang )

Bài tập lớn – Luật thương mại
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của Luật trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM 2010)
là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật về Trọng tài của Việt
Nam. Đó là nền tảng pháp lý cho Trọng tài Việt Nam tiếp cận, hòa nhập với
Trọng tài của các nước phát triển, khắc phục được những điểm bất cập của
các văn bản pháp luật về trọng tài trước đây, đồng thời đưa ra nhiều quy định
mới về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế… Tuy nhiên, bên
cạnh những nét ưu việt nói trên qua gần hai năm thực hiện, Luật TTTM 2010
đã bộc lộ nhiều hạn chế trong thực tiễn áp dụng và vì vậy chưa thực sự trở
thành một công cụ pháp luật được áp dụng phổ biến trong giải quyết tranh
chấp thương mại. Vì vậy em xin chọn đề tài “Phân tích những hạn chế của
pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện”.
NỘI DUNG
I.

Khái quát về pháp luật Trọng tài thương mại hiện hành.

1. Sự ra đời của Luật trọng tài thương mại 2010
Nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cường hiệu quả và năng lực của
các Trung tâm trọng tài và đội ngũ Trọng tài viên, ngày 25/03/2003, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số
08/2003/PL-UBTVQH (Pháp lệnh), Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày
01/07/2003, thay thế cho Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế; Quyết định số 204/TTg ngày
28 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và các Trung
tâm trọng tài kinh tế thành lập theo Nghị định 116/Cp được hoạt động trên
cùng một mặt bằng pháp lý.
Page 1



Bài tập lớn – Luật thương mại
Chính từ những bất cập và tồn tại của PLTTTM 2003, Luật TTTM 2010
đã ra đời ngày 29/6/2010 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2011 là một tất
yếu. Luật TTTM 2010 ra đời kế thừa các quy định của Pháp lệnh và bổ
sung những quy định mới khắc phục và hoàn thiện những tồn tại của
PLTTTM 2003 đã thực sự nâng cao vị thế của trọng tài thương mại cũng
như hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thay đổi cách nhìn
của các nhà kinh doanh về phương thức này cũng như tạo sự tin tưởng
cho họ vào một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Luật TTTM được hướng
dẫn thi hành bằng Nghị định số 63/2011/NĐ-CP của Chính phủ : Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương
mại, Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 9 năm 2011.
2. Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại.
 Khái niệm.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm trọng tài thương mại được nghiên
cứu ở góc độ khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về trọng
tài. Tùy theo từng hệ thống pháp luật cùng với hệ thống lập pháp khác nhau,
khái niệm trọng tài cũng được ghi nhận theo nhiều cách khác nhau. Nhìn một
cách khái quát nhất nó thường được hiểu theo hai nghĩa sau:
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.
Theo hướng này trọng tài thương mại được hiểu là một cơ quan tài
phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp pháp sinh trong hoạt động thương
mại. trọng tài được pháp luật thừa nhận là một cơ quan tài phán độc lập và tồn
tại song song với tòa án.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Page 2



Bài tập lớn – Luật thương mại
Đây là một cách hiểu phổ biến được quy định trong luật pháp các nước
về trọng tài. Theo cách hiểu này thì trọng tài thương mại là một phương thức
giải quyết tranh chấp thông qua giải quyết của trọng tài viên với tư cách là
bên thứ 3 độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết
trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và phán quyết có giá trị chung
thẩm. Bên thứ ba đó là trọng tài viên hoặc trong tài viên duy nhất được lựa
chọn theo trình tự luật định.
Như vậy, trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh
chấp hoặc trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010: “trọng tài
thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận
được tiến hành theo quy định của luật này”
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định về trọng tài thương mại đều ghi
nhận trọng tài thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh
chấp.
 Đặc điểm.
Trọng tài thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tôn trọng quyền định đoạt của các bên tranh chấp:Trọng tài là
cơ quan tài phán tự giải quyết tranh châp tư bởi vậy nguyên tắc đầu tiên giải
quyết tranh chấp là tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
Thứ hai, trọng tài xét xử kín:Thêm một đặc trưng nữa của trọng tài là
phiên họp giải quyết tranh chấp không công khai. Sở dĩ có đặc điểm này vì
tòa án là cơ quan tài phán của nhà nước nên phải đảm bảo tính minh bạch,
công khai đảm bảo cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. tuy
Page 3



Bài tập lớn – Luật thương mại
nhiên xét xử kín của trọng tài cũng được thực hiện trên cơ sở sự nhất trí của
đương sự.
Thứ ba, trọng tài giải quyết tranh chấp trong giới hạn yêu cầu của các bên:
Khi các bên có yêu cầu giải quyết một phần hoặc toàn bộ tranh chấp thì trọng
tài cũng chỉ giải quyết một phần hoặc tòan bộ vụ tranh chấp theo yêu cầu đó.
Thứ tư, các bên có quyền tự thương lượng toàn bộ quá trình giải quyết
tranh chấp: Các bên có quyền tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp ở các giai
đoạn của tố tụng trọng tài: từ giai đoạn hòa giải cho đến khi hội đồng trọng tài
mở phiên họp giải quyết tranh chấp, ngay cả tại phiên họp của hội đồng trọng
tài nếu các bên thương lượng với nhau nhằm giải quyết tranh chấp thì hội
đồng trọng tài quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp.
Thứ năm, trọng tài chỉ giải quyết một lần: Đây là một nguyên tắc giải
quyết tranh chấp của trọng tài. Tranh chấp có thể được giải quyết tại một
trung tâm trọng tài hoặc tại hồi đồng trọng tài do các bên thành lập.
3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài thương
mại.
Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại thì: Tranh chấp thương mại
là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài nếu các bên tham gia
có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp (được quy định tại Điều 2, Điều 5, Luật Trọng tài thương
mại).
4. Ưu điểm của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại.
Bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp thường được các bên lựa
chọn như thương lượng, hòa giải, tòa án thì giải quyết tranh chấp thương mại
Page 4


Bài tập lớn – Luật thương mại

bằng con đường trọng tài là một trong những phương thức giải quyết rất phổ
biến và được áp dụng rộng rãi với nhiều ưu điểm và lợi thế so với các phương
thức khác như:
- Giải quyết nhanh chóng, thuận lợi các tranh chấp, không làm hạn chế,
cản trở các hoạt động kinh doanh.
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh.
- Giữ bí mật kinh doanh, giữ được uy tín của các bên trên thương
trường.
- Kinh tế nhất (ít tốn kém nhất).
II. Những hạn chế của pháp luật Trọng tài Thương mại hiện hành.
Hiện nay trong quá trình áp dụng, Luật TTTM 2010 vẫn bộc lộ một số
hạn chế cần hoàn thiện:
1, Về điều kiện giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại:
Kế thừa quy định tại khoản 1 Điều 3 PLTTTM 2003, khoản 1 Điều 5
Luật TTTM quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên
có thỏa tuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp”. Như vậy, điều kiện để các bên có thể giải quyết tại trọng
tài thương mại là có thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp. Thỏa thuận
trọng tài không bắt buộc phải đ ược lập khi các bên giao kết hợp đồng mà các
bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sau khi tranh chấp
xảy ra. Tuy đã thể hiện sự linh hoạt về thời gian xác lập thỏa thuận trọng tài
nhưng việc khẳng định tranh chấp sẽ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên
có thỏa thuận trọng tài của Luật TTTM là chưa chính xác. Bởi lẽ, thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại được xác định theo thỏa thuận
của các bên tranh chấp. khi các bên tranh chấp thỏa thuận trọng tài, có nhiều
trường hợp bị vô hiệu hoặc có hiệu lực nhưng không thực hiện được và trong
Page 5



Bài tập lớn – Luật thương mại
trường hợp đó, dù có thỏa thuận trọng tài, các bên vẫn không thể giải quyết
bằng trọng tài thương mại. Do vậy, tranh chấp thương mại chỉ có thể giải
quyết bằng trọng tài thương mại nếu có thỏa thuận trọng tài đồng thời thỏa
thuận trọng tài phải có hiệu lực và có thể thực hiện được. Trong trường hợp
thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được thì tại Điều 6 Luật
TTTM quy định một bên có thể khởi kiện ra tòa án và tòa án có thể thụ lí giải
quyết.
2, Về nội dung chủ yếu của thỏa thuận trọng tài.
Nội dung của thỏa thuận trọng tài không được quy định trong Luật
trọng tài Việt Nam 2010.Việc không quy định về nội dung chủ yếu của thỏa
thuận trọng tài tuy có ưu điểm là nâng cao quyền tự do thỏa thuận của các bên
khi xác lập thỏa thuận trọng tài nhưng lại gây không ít khó khăn cho các bên
tranh chấp cũng như trọng tài và tòa án khi xác định thông tin được đưa ra có
phải là thỏa thuận trọng tài hay không.
3, Pháp luật Việt Nam không quy định rõ về thỏa thuận trọng tài
không thể thực hiện được.
Về nguyên tắc, tranh chấp giữa các bên chỉ có thể được giải quyết bằng
trọng tài thương mại nếu các bên có thỏa thuận trọng tài đồng thời thỏa thuận
đó phải có hiệu lực và có thể thực hiện được. Luật TTTM 2010 chỉ quy định
về trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Điều 28 mà không quy định cụ
thể các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, như vậy khi thỏa thuận
trọng tài không rơi vào trường hợp vô hiệu thì đương nhiên sẽ có hiệu lực.
Tuy nhiên, chỉ có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực chưa đủ để đảm bảo tranh
chấp sẽ được giải quyết bởi trọng tài, bởi có thể thỏa thuận trọng tài đó không
thực hiện được. Luật trọng tài cũng đã có dự liệu về trường hợp thỏa thuận
trọng tài không thực hiện được nhưng lại không quy định rõ thế nào là thỏa
thuận trọng tài không thực hiện được và trường hợp nào thì một thỏa thuận
Page 6



Bài tập lớn – Luật thương mại
trọng tài bị coi là không thực hiện được. Thiếu sót này trong quy định của
Luật TTTM 2010 sẽ gây khó khăn cho các chủ thể khi xác định thỏa thuận
trọng tài có thể thực hiện được hay không để khởi kiện ra tòa án.
4, Về xác định thẩm quyền của tòa án đối với hoạt động trọng tài.
Theo quy định tại Điều 7 Luật TTTM 2010, tòa án có thẩm quyền đối
với hoạt động trọng tài là tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
Ương mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có
thỏa thuận thì thẩm quyền của tòa án được xác định như sau ( Điều 7 Luật
TTTM 2010):
“2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án thì thẩm quyền
của Tòa án được xác định như sau:
a) Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ
việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là
cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có
nhiều bị đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ
sở của một trong các bị đơn đó.
Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn;
b) Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa
án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp;
c) Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được,
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi
Hội đồng trọng tài ra quyết định;

Page 7



Bài tập lớn – Luật thương mại
d) Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là
Tòa án nơi có chứng cứ cần được thu thập;
đ) Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có
thẩm quyền là Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng;
e) Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án
nơi cư trú của người làm chứng;
g) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ
việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên
phán quyết trọng tài.”
Có thể thấy Luật TTTM 2010 đã quy định khá chi tiết về cách xác định
tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài. Tuy nhiên quy định này còn
phức tạp và gây khó khăn cho các bên trong quá trình áp dụng. Bởi lẽ, nếu
các bên không có thỏa thuận trước, trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
trọng tài, có thể có sự tham gia của nhiều tòa án khác nhau: khi chỉ định trọng
tài viên để thành lập hội đồng trọng tài vụ việc, nguyên đơn sẽ phải làm đơn
gửi đến tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú; nếu cần thay đổi trọng tài viên thì
các bên lại phải nộp đơn đến tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài giải quyết
tranh chấp; nếu cần thu thập chứng cứ thì lại phải làm đơn đến tòa án cấp tỉnh
nơi có chứng cứ cần thu thập… Việc này sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí của
các bên tranh chấp.
5, Về quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên.
Giữa khoản 3 và khoản 5 Điều 21 Luật trọng tài thương mại có sự mâu
thuẫn:

Page 8


Bài tập lớn – Luật thương mại
Luật TTTM quy định: “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến

hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.(khoản 4
Điều 4).
Đây chính là ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so
với giải quyết tại tòa án. Không chỉ quy định nguyên tắc không công khai của
trọng tài, Luật TTTM 2010 còn quy định trọng tài viên được quyền từ chối
cung cấp thông tin liên quan đến vụ tranh chấp tại khoản 3 Điều 21. Như vậy,
theo quy định tại khoản 3 Điều 21 thì:
Trong mọi trường hợp, trọng tài viên đều được quyền từ chối cung cấp
thông tin liên quan đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, quy định trên lại mâu thuẫn
với quy định tại khoản 5 Điều 21 luật trọng tài thương mại. Theo đó, khoản 5
Điều 21 quy định trọng tài viên có quyền giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp
mà mình đang giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định
tại khoản 5 thì khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu, trọng tài viên
phải cung cấp thông tin mà không được quyền từ chối. Sự tồn tại của 2 điều
khoản mâu thuẫn nhau trong cùng điều luật đã làm mất đi tính logic, khoa học
của Luật trọng tài thương mại.
6, Về các trường hợp thay đổi trọng tài viên.
Pháp luật Việt Nam đã quy định về các trường hợp thay đổi trọng tài viên
để đảm bảo hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại. Theo quy định của Điều 42 luật trọng tài thương mại, trọng tài viên phải
từ chối giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau:
- Trọng tài viên là người thân thích hoặc người đại diện của một bên;
- Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp;
- Có căn cứ rõ rang cho thấy trọng tài viên không khách quan, vô tư;

Page 9


Bài tập lớn – Luật thương mại

- Trọng tài viên đã là hòa giải viên, người đại diện,luật sư của bất cứ bên
nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó đưa ra giải quyết tại trọng tài, trừ
trường hợp các bên chấp thuận bằng văn bản.
Luật trọng tài thương mại đã tiến bộ hơn pháp lệnh trọng tài thương mại
khi bổ sung thêm trường hợp thay đổi trọng tài viên với trọng tài viên là
người hòa giải, luật sư, người đại diện của bất cứ bên nào khi đưa vụ tranh
chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp các bên chấp thuận bằng
văn bản. Tuy nhiên, trường hợp thay đổi trọng tài viên của luật trọng tài vẫn
chưa đầy đủ.
7, Hạn chế trong quy định về xem xét thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 43, trong trường hợp các bên đã có
thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không xác
định được tổ chức trọng tài cụ thể thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa
thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài để giải quyết tranh
chấp, nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài
để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn. Đây là
điểm mới tiến bộ của Luật TTTM 2010 so với pháp lệnh TTTM 2003. Trước
đây, theo quy định của pháp lệnh TTTM 2003, thỏa thuận trọng tài không quy
định hoặc không quy định rõ tổ chức trọng tài nào có thẩm quyền giải quyết
vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung thì thỏa thuận
đó bị coi là vô hiệu ( khoản 4 Điều 10) Có thể thấy, quy định trên của Luật
trọng tài thương mại đã bảo đảm được quyền tự do thỏa thuận của các bên
trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đồng thời cũng đảm bảo
quyền lợi cho nguyên đơn khi bị đơn không thiện chí trong quá trình giải
quyết tranh chấp.

Page
10



Bài tập lớn – Luật thương mại
Tuy có tiến bộ trong quy định tại khoản 5 Điều 43 nhưng Luật trọng tài
thương mại lại quy định chưa hợp lý trong trường hợp trung tâm trọng tài
thương mại hoặc trọng tài viên do các bên chỉ định không thể thực hiện việc
giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 43, trường
hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tại trung tâm trọng tài cụ thể nhưng
trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài
nào kế thừa thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài khác;
nếu không thỏa thuận được thì các bên có quyền khởi kiện ra tòa án để giải
quyết. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài
viên trong vụ việc nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, trọng tài viên không
thể tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên khác để thay
thế, nếu không thỏa thuận được thì có quyền khởi kiện ra tòa án để giải quyết.
Như vậy trong trường hợp các bên đã thỏa thuận giải quyết tại trung tâm
trọng tài hoặc trọng tài viên cụ thể nhưng trung tâm trọng tài, trọng tài viên đó
không thể thực hiện việc giải quyết tranh chấp mà các bên không thể thỏa
thuận lựa chọn trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên khác thì nguyên đơn
chỉ có thể khởi kiện ra tòa án để giải quyết tranh chấp. Quy định này của Luật
trọng tài thương mại đã không đảm bảo được quyền lợi của nguyên đơn, bởi
lẽ: khi các bên xảy ra tranh chấp thì các bên khó có thể đưa ra được những
thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên khác để giải quyết
tranh chấp, nhất là trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng không có thiện
chí. Vậy nên cần có quy định phù hợp hơn.
III.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại

Với những hạn chế còn tồn tại trên, cần có những giải pháp để hoàn thiện

đó là:

Page
11


Bài tập lớn – Luật thương mại
Thứ nhất, để đảm bảo tính chính xác trong quy định pháp luật, khoản
1 Điều 5 cần sửa lại theo hướng quy định rõ tranh chấp được giải quyết bằng
trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu
lực, đồng thời có thể thực hiện được.
Thứ hai, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên tranh chấp cũng
như trọng tài thương mại và tòa án khi xác lập thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài, pháp luật thương mại Việt Nam cần thiết phải bổ sung quy
định làm rõ nội dung cơ bản phải có thỏa thuận trọng tài cụ thể như:
+ Hình thức của thỏa thuận phải được thể hiện như thế nào, bằng văn
bản hay các giấy tờ tương đương.
+ Trong quá trình thảo thuận, các bên phải thể hiện rõ mong muốn
được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và chỉ định rõ trọng tài viên cụ thể
và được ghi nhận trong thỏa thuận.
+ Nếu trong trường hợp các bên không chỉ định rõ trọng tài viên cụ thể
và được ghi nhận trong thỏa thuận thì phải nêu rõ phương thức chỉ định trọng
tài viên.
+ Pháp luật cũng cần quy định chặt chẽ, nếu thỏa thuận giữa các bên
không đầy đủ các nội dung như luật định thì thỏa thuận đó sẽ vô hiệu.
Việc quy định chặt chẽ như vậy sẽ đảm bảo cho các bên tranh chấp cũng như
trọng tài và tòa án có thể xác định thỏa thuận trọng tài một cách dễ dàng,
chính xác và việc giải quyết cũng nhanh gọn và có hiệu quả hơn.
Thứ ba, pháp luật cần quy định về khái niệm thỏa thuận trọng tài
không thể thực hiện được hoặc có bổ sung trong các điều luật từng trường

hợp như thế nào thì không thực hiện được thỏa thuận trọng tài. Đồng thời cần
có các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị coi là không thực hiện được.
Page
12


Bài tập lớn – Luật thương mại
Thứ tư, pháp luật nên sửa đổi quy định về thẩm quyền của tòa án một
cách ngắn gọn và đầy đủ theo hướng chỉ định rõ một tòa án cụ thể có thẩm
quyền đối với hoạt động trọng tài. Cùng với đó quy định cơ chế phối hợp giữa
các tòa án giúp việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, tiết kiệm chi phí,
chính xác và có hiệu quả cao.
Thứ 5, Khi quy định về quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên, nên loại
bỏ quy định tại khoản 3 Điều 21 sẽ đảm bảo tính thống nhất trong quy định
của pháp luật, không có sự chồng chéo, có tính logic hơn và có hiệu quả trong
quá trình quản lý nhà nước đối với trọng tài.
Thứ sáu, để đảm bảo hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, pháp luật Việt Nam nên bổ sung quy định cho phép các bên tranh chấp
được quyền thay đổi trọng tài viên. Bổ sung thêm các trường hợp thay đổi
như:
• Trọng tài viên không đáp ứng đủ điều kiện của trọng tài viên theo quy
định của pháp luật.
• Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên bị mất hoặc hạn
chế khả năng thực hiện việc giải quyết tranh chấp một cách chính xác.
• Trọng tài viên từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc từ chối áp dụng thủ
tục giải quyết tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận (trừ trường hợp thoản
thuận của các bên không hợp lí hoặc vi phạm pháp luật).
• Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan, trung thực trong giải quyết tranh
chấp, pháp luật thương mại cũng nên quy định cụ thể về các trường hợp có
thể xác định trọng tài viên không vô tư, khách quan như có sự gặp gỡ riêng

hay nhận quà tặng của một bên tranh chấp…

Page
13


Bài tập lớn – Luật thương mại
Thứ bảy, để đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn, pháp luật Việt Nam nên
quy định theo hướng các bên thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài, trọng tài
viên khác giải quyết tranh chấp, trong trường hợp không thỏa thuận được thì
nguyên đơn được quyền quyết định trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên để
giải quyết tranh chấp hoặc khởi kiện ra tòa án.
KẾT BÀI
Luật TTTM 2010 về cơ bản đã khắc phục được nhiều yếu kém, hạn chế
của các quy định trước đó, làm cho pháp luật về trọng tài thương mại ở nước
ta trở nên hoàn thiện hơn, không chỉ phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội
của Việt Nam mà còn phù hợp với pháp luật quốc về trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, do yêu cầu của hội nhập quốc tế và các yêu cầu khách quan khác
nên việc hoàn thiện pháp luật trọng tài nhằm xây dựng luật về trọng tài hiện
nay là vấn đề thời sự, cần quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện
cần phải được tiến hành một cách đồng bộ, trên nhiều phương diện,để đạt
được hiệu quả.

Page
14


Bài tập lớn – Luật thương mại

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật dân sự 2005.
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
3. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
4. Nghị định số 63/2011/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại
5. Ts Trần Quỳnh Anh, “ Một số vướng mắc và hoàn thiện Luật trọng tài
thương mại” , Tạp chí Luật học số 7 2012.
6. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật thương mại, Nxb Công an
nhân dân (2006)
8. Nguyễn Thái Phúc, “Một số ý kiến về Pháp lệnh Trọng tài thương mại”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2003.

Page
15


Bài tập lớn – Luật thương mại

TM2.HK-3. Phân tích những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện
hành và đề xuất hướng hoàn thiện.

Page
16



×