Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.5 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................2
Chương 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN.......................................4
Chương 2 :
LỢI THẾ VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
GẠO Ở VIỆT NAM......................................................................................21
Chương 3 :
THỰC TRẠNG CỦA XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY............................................................................................28
Chương 4 :
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM..........................................55
Chương 5 :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM....................................................................61
KẾT LUẬN....................................................................................................70
1
Đề tài :
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM.
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, mỗi nước đều chọn cho
mình một hướng đi thích hợp để cùng tiến tới một mục tiêu kinh tế là: ổn
định và phát triển lâu dài nền kinh tế. Một hướng đi mà nhiều nước lựa chọn
là “Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”. Xét về điều kiện kinh tế, Việt
Nam là một nước nông nghiệp có tới hơn 80% dân số làm việc trong ngành
này, do đó hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngoài dầu mỏ và than thì chủ
yếu là hàng nông sản trong đó mặt hàng gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt


Nam. Từ năm 1997 Việt Nam đã đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt
động xuất khẩu gạo của Việt Nam để từ đó đề ra những giải pháp thích hợp
nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong thời gian tới là
hết sức cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó em chọn đề tài Khoá Luận Tốt Nghiệp của
mình là: “PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM” .
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sản lượng gạo xuất khẩu.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả cho xuất khẩu
gạo Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích định lượng, xây dựng mô hình dựa vào
số liệu thống kê để đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới hoạt động xuất
khẩu gạo.
2
4. Phạm vi nghiên cứu:
5. Bố cục chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề thực tập gồm 5 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về xuất khẩu nông sản.
- Chương 2: Lợi thế và điều kiện phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo ở
Việt Nam.
- Chương 3: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam những năm gần
đây.
- Chương 4: Mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất
khẩu gạo.
- Chương 5: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc xuất khẩu gạo ở
Việt Nam.

3
Chương 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu nông sản:
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ
sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối
với mỗi quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu:
Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, chiết khấu nhằm
phân tán và chia rẽ rủi ro, các doanh nghiệp thương mại có thể lựa chọn nhiều
hình thức xuất khẩu.
- Xuất khẩu trực tiếp.
Là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp
sản xuất ra hoăc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng
ngoài thông qua các tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng
thêm rủi ro trong kinh doanh song lại có những ưu điểm nổi bật là giảm bớt
các chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, có thể liên hệ
trực tiếp và đều đặn với khách hàng và thị trường nước ngoài, biết được nhu
cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể thay đổi sản phẩm
và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết.
- Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra
nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm do xí nghiệp gia công sau đó thu hồi
thành phẩm để xuất cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo
thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. Hình thức này có ưu điểm là doanh
nghiệp thương mại không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi
nhuận, rủi ró it hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên đòi hỏi phải
4
tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh

phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ cả trong quá trình giám sát và kiểm tra việc
gia công.
- Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò
là người trung gian thay cho các đơn vị sản xuất điều hành kí kết hoạt động
mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá
cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định. Ưu điểm của hình
thức này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần vốn vào kinh doanh, tạo
được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi
nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp lại thuộc về người
sản xuất.
- Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu, người bán cũng là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi
có giá trị tương đương. Mục đích sản xuất ở đây không phải thu về một khoản
ngoại tệ mà là nhằm mục đích có một lượng hàng hoá có giá thị tương đương
với lô hàng nhập. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh rủi ro về sự biến
động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, các bên còn có
lợi khi không có đủ ngoại tệ thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Có
nhiều hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối
lưu... Ngoài ra còn có các hình thức xuất khẩu khác như: xuất khẩu tại chỗ,
gia công quốc tế, tái nhập tạm xuất và xuất khẩu theo nghị định thư...
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
- Đối với nền kinh tế quốc dân:
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động quan
trọng của thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn cầu.
5
Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế quốc gia. Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh

tế đều chỉ ra rằng để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia đều phải
có 4 điều kiện: nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật công nghệ. Trong
giai đoạn hiện nay, hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn và công
nghệ nhưng lao động thì rất dồi dào. Với sự mất cân đối về nguồn lực đầu vào
làm thế nào để các quốc gia có thể tăng trưởng và phát triển được? Để giải
quyết được vấn đề này, họ buộc phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà
trong nước chưa thoả mãn được. Để nhập được những yếu tố đó thì phải có
nguồn ngoại tệ, mà nguồn ngoại tệ này chủ yếu thu được từ các hoạt động
xuất khẩu, xuất khẩu là hoạt động chính, tạo tiền đề cho nhập khẩu. Từ đó ta
có thể đánh giá vai trò của xuất khẩu ở các khía cạnh :
+ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Ở các nước kém phát triển, một trong những vật
cản chính đối với tăng trưởng kinh tế là thiếu nguồn vốn trong quá trình phát
triển. Có nhiều cách khác nhau để huy động nguồn ngoại tệ nhưng chỉ bằng
hoạt động xuất khẩu thì nguồn vốn mới ổn định và thường xuyên bền vững.
+ Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy sản xuất
phát triển mạnh mẽ.
+ Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với hoạt động sản
xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Thứ nhất: Chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu thụ
nội địa, trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất
về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ vào sự dư thừa ra của sản
xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó
các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
+ Thứ hai : Coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và
xuất khẩu. Quan điểm này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu và
thúc đẩy sản xuất phát triển cụ thể:
6
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có liên quan phát triển theo.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia,

ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với
một lượng lớn hơn nhiều lần khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút công nghệ
kỹ thuật mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo
năng lực sản xuất mới.
+ Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu
quả sản xuất của từng quốc gia.
+ Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn viêc làm,
cải thiện đời sống của nhân dân. Mỗi năm sản xuất hàng xuất khẩu đã thu hút
được hàng triệu lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ.
+ Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng, đáp ứng
nhu cầu ngày càng phát triển đa dạng và phong phú của nhân dân.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ đối ngoại có sự tác động qua lại phụ
thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, là hình thức ban
đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các mối quan hệ khác như : Bảo
hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo.
- Đối với doanh nghiệp : Ngày nay với xu hướng vươn ra thị trường thế
giới là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp.
Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Tuy nhiên, để có thể
đứng vững, doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý
kinh doanh.
7
1.1.4. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
1.1.4.1. Vai trò của sản xuất lúa gạo.
- Lúa gạo là loại lương thực chính được sử dụng để nuôi sống con
người trên hành tinh. Đây là loại dinh dưỡng chiếm vị trí quan trọng trong
khẩu phần ăn hàng ngày của con người, bất kể tuổi tác, giới tính và dân tộc.
Theo tổng kết của FAO, trong tổng số năng lượng được cung cấp từ khẩu

phần ăn hàng ngày thì năng lượng từ gạo cung cấp chiềm 50% đến 60% ở các
nước đang phát triển và từ 20% đến 30% ở các nước phát triển. Trên thực tế,
sự biến động nhu cầu gạo theo đầu người ở các nước đang phát triển giảm
nhưng ở các nước đang phát triển lại tăng lên chút ít. Hơn nữa, do dân số thế
giới không ngừng tăng nên nhu cầu về lúa gạo không những giảm mà còn
tăng lên. Theo thống kê thì khu vực Châu Á tiêu thụ trên 90% tổng lượng gạo
tiêu thụ toàn cầu. Các nước tiêu thụ gạo nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ và
Inđonesia, tiếp đó là Negieria và Ai Cập là hai nước tiêu thụ gạo lớn của Châu
Phi. Trong tổng tiêu dùng gạo thì gạo làm thức ăn trong khẩu phần ăn hàng
ngày của người dân chiếm từ 90% đến 93%, dùng cho chăn nuôi khoảng 5%,
dùng cho chế biến từ 3% đến 5%. Hiện nay, người dân trong nước cũng như
trên thế giới có mức sống ngày càng cao. Nhu cầu của họ không chỉ dừng lại
ở mức đủ gạo để ăn mà là đòi hỏi những loại gạo cao sản. Chính vì vậy, để
xuất khẩu gạo ổn định và hiệu quả cao thì sản xuất trước tiên phải có dư thừa
ngoài việc cho tiêu dùng trong nước thì cần đảm bảo đáp ứng đủ tiêu chuẩn
lúa gạo cho xuất khẩu. Hơn nữa, khi có sự tập trung cho xuất khẩu sẽ thu hút
được nhiều đơn vị kinh doanh, cơ quan nhà nước, hợp tác xã, trang trại, hộ
gia đình cùng tham gia vào sản xuất vì họ biết rằng sản phẩm xuất khẩu sẽ thu
được nhiều lợi nhuận hơn là bán sản phẩm trong nước và sản phẩm của họ
tiêu dùng nhanh và nhiều hơn. Từ việc thu hút được các thành phần kinh tế
cùng tham gia vào sản xuất lúa gạo để xuất khẩu thì chất lượng gạo xuất khẩu
sẽ tăng lên, giá sẽ cạnh tranh hơn, gạo của chúng ta sẽ phát huy được lợi thế
8
so sánh so với gạo của các quốc gia khác và tất nhiên hiệu quả xuất khẩu sẽ
tăng lên.
- Ngày nay, trước nhu cầu khắt khe của thị trường thế giới, để xuất khẩu
có hiệu quả thực sự thì chúng ta phải coi chất lượng gạo là yếu tố quan trọng,
là mục tiêu mà sản xuất hướng tới có như vậy mới có sự kết hợp đồng bộ giữa
người dân, nhà khoa học và nhà xuất khẩu.
1.1.4.2. Vai trò, ý nghĩa của xuất khẩu gạo.

- Gạo là sản phẩm tối cần thiết cho con người, vì vậy nhu cầu về gạo là
thường xuyên liên tục và không thể thiếu được. Sản xuất lúa gạo là một nội
dung không cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của đất
nước. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo phục vụ tốt nhu cầu của dân cư không phải
do ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định chiến lược mà phụ thuộc chủ
yếu vào các yếu tố tự nhiên, điều kiện kinh tế của mỗi nước mà quan trọng là
điều kiện về thời tiết, khí hậu, đất đai. Trên thế giới, do sự phân bố không đều
về đất đai và thời tiết khí hậu cho nên có những nước có điều kiện tự nhiên rất
thuận lợi cho việc sản xuất lúa gạo nhưng cũng có những nước điều kiện tự
nhiên không cho phép sản xuất lúa gạo hoặc nếu có sản xuất thì năng xuất và
chất lượng rất kém. Mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế không đều, những
nước có lợi thế về mặt tự nhiên cho sản xuất lúa gạo lại đa phần là những
nước có nền công nghiệp kém phát triển, những nước này lại rất cần ngoại tệ
để nhập vật tư máy móc để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có
ngoại tệ, con đường duy nhất là xuất khẩu mà lúa gạo là một trong những sản
phẩm xuất khẩu chính của nước này. Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu lúa
gạo có vai trò rất quan trọng đối với các nước xuất khẩu nói chung và Việt
Nam nói riêng. Điều đó thể hiện ở các mặt sau:
- Xuất khẩu gạo là giải pháp quan trọng tạo nguồn ngoại tệ mạnh phục
vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Như đã nói ở trên, những nước có nền sản
xuất lúa nước từ lâu đời đa phần là những nước nông nghiệp và công nghiệp
kém phát triển, muốn đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế phải thực hiện
9
công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế phải có vốn, có thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất
tiên tiến. Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển muốn có thiết bị máy móc,
công nghệ tiên tiến cần phải có ngoại tệ, xuất khẩu nông sản là một trong các
giải pháp tạo nguồn ngoại tệ mạnh ở nhiều nước đặc biệt là xuất khẩu gạo. Ở
Việt Nam vai trò của xuất khẩu gạo lại càng được khẳng định bởi lẽ chỉ trong
vòng 12 năm ( 1989 - 2000) Việt Nam đã xuất khẩu được gần 29,5 triệu tấn

gạo với kim ngạch gần 6670 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng đã góp
phần không nhỏ vào việc thu ngoại tệ cho đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu gạo không những góp phần cải thiện cán cân thương mại
mà còn là điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại. Xuất khẩu gạo sẽ kéo theo sự phát triển sản xuất lúa theo hướng
chuyên môn hoá, phát triển của nghành chế tạo máy nông nghiệp, công
nghiệp chế biến bảo quản, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển để đáp ứng việc
đẩy mạnh xuất khẩu. Như vậy, xuất khẩu gạo đã tạo điều kiện cho các nghành
liên quan phát triển theo, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi
cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
- Xuất khẩu gạo góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Cơ
sở kinh tế của xu hướng đó là lợi ích của các tác nhân khi tham gia vào quá
trình đó thường lớn hơn khi không tham gia vào giao thương quốc tế, trong đó
các nước xuất khẩu thì tìm cách khai thác về lợi thế về tài nguyên thiên nhiên,
lao động rẻ... để phát triển kinh tế còn nhóm các nước nhập khẩu lại tìm cách
xuất khẩu tư bản, tìm môi trường đầu tư có lợi về mặt tài chính. Xuất khẩu
gạo trong những năm qua của chúng ta còn rất nhiều hạn chế mà các hạn chế
đó lại xuất phát từ chính bản thân xản phẩm lúa gạo. Sự hạn chế trong chất
lượng gạo đã làm cho hiệu quả xuất khẩu gạo của chúng ta chưa xứng đáng
vơí tiềm năng vốn có cuả nó.
10
Xuất khẩu gạo giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này
hoàn thiện hơn, năng động hơn bởi lẽ chỉ có sự luôn đổi mới thì mới làm cho
doanh nghiệp đứng vững được trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thế
giới.
1.2. Đặc điểm của thị trường gạo.
1.2.1. Đặc điểm của thị trường gạo :
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời, phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá, cũng như các thị trường khác thị trường gạo là

một tập hợp các thoả thuận giữa người mua và người bán tuy nhiên gạo là sản
phẩm thiết yếu và là sản phẩm của ngành nông nghiệp nên nó có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất: Thị trường gạo có tính thời vụ trong trao đổi, sản xuất nông
nghiệp mang tính thời vụ, tính thời vụ được qui định bởi đặc điểm khí hậu
sinh thái kết hợp với đặc điểm kỹ thuật của cây trồng. Lúa gạo cũng vậy, dó
nó có tính thời vụ trong sản xuất nên nó cũng hình thành tính thời vụ trong
trao đổi. Xuất khẩu gạo gắn liền với quá trình sản xuất, chế biến và điều hành
lúa gạo của từng nước. Cứ sau thời điểm thu hoạch thì thị trường lúa gạo thế
giới lại liên tục và sôi động hơn. Tuy nhiên, sự liên tục và sôi động đó diễn ra
như thế nào và diễn ra trong bao lâu lại tuỳ thuộc vào khả dự trữ và điều hành
gạo của từng nước. Chẳng hạn ở Mỹ do khả năng dự trữ, bảo quản của họ rất
lớn nên có thể phân bổ dàn tải xuất khẩu ở khắp các tháng trong năm. Còn
một số nước do khả năng dự trữ, bảo quản kém nên chỉ có thể xuất khẩu gạo
vào những lúc ngay sau khi thu hoạch, có thể nói đây là một yếu điểm lớn cho
các nước này bởi lẽ giá cả lúc trái vụ bao giờ cũng đắt hơn lúc chính vụ.
Thứ hai: Buôn bán giữa các Chính phủ là phương thức chủ yếu:
Gạo là loại hàng hoá có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con
người nên có thể nói nhu cầu về gạo có tính chất ổn định hơn các loại hàng
công nghiệp. Mặt khác, vì yếu tố chính trị, Chính phủ nào cũng phải có chính
11
sách giữ sự ổn định trong cung cấp lương thực nói chung và gạo nói riêng hay
nói cách khác đó là sự đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia. Do đó, buôn
bán lương thực trên thị trường thế giới chủ yếu được ký kết giữa các Chính
phủ với nhau thông qua các hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất lâu dài và
định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các liên vụ. Do vậy, đại bộ phận lương
thực lưu thông trên thế giới bị các hiệp định hoặc hợp đồng chính thức dài
hạn chi phối.
Thứ ba: Chủ thể xuất khẩu và nhập khẩu gạo không ổn định.
Hàng năm, số lượng gạo cung cấp ra thị trường cùng với các chủ thể

xuất khẩu và nhập khẩu là không ổn định, sự không ổn định này là do sự tác
động của thời tiết khí hậu. Trong cùng một năm, diễn biết thời tiết khí hậu có
thể tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo của nước này nhưng cũng có thể
tác động tiêu cực đến sản xuất lúa gạo của nước khác. Đối với các chủ thể
xuất khẩu nếu như được sự tác động tích cực của thời tiết khí hậu đến sản
xuất luá gạo thì lượng cung ra thị trường thế giới sẽ lớn và ngược lại nếu chịu
sự tác động tiêu cực đến sản xuất lúa gạo thì không những chỉ là cung ra thị
trường ít mà cũng có thể phải nhập khẩu. Còn đối với những nước nhập khẩu
nếu như được sự hỗ trợ của thời tiết khí hậu thì năm đó họ sẽ nhập một lượng
ít đi. Chẳng hạn như Inđonêsia năm 1998 phải nhập 6,081 triệu tấn gạo nhưng
đến năm 2000 thời tiết thuận lợi cho sản xuất lúa nên lượng nhập của họ chỉ
khoảng 2 triệu tấn.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề an
ninh lương thực, cùng với sự thuận hoà của thời tiết khí hậu đã khiến cho cầu
về lúa gần như bão hoà và chính điêù này là một vấn đề đáng quan tâm với
các Quốc gia xuất khẩu gạo nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thứ tư: Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới:
Gạo là hàng hoá thiết yếu cho nên các nước đều trực tiếp có chính sách
điều hành hoặc độc quyền, tập trung kinh doanh và coi trọng xây dựng dự trữ
Quốc gia. Chính sách của Nhà nước tác động khá mạnh đến sản xuất, xuất
12
khẩu và nhập khẩu gạo. Các nước lớn tác động trực tiếp, chi phối đến chiều
hướng của thị trường gạo như: Mỹ, EU, Trung Quốc,... họ có thể điều tiết
khối lượng mua vào hay bán ra trên thị trường Quốc tế và qua đó ảnh hưởng
đến giá cả và các tác nhân tham gia thị trường.
Thứ năm: Trên thị trường, chủng loại gạo phong phú và có sự khác biệt
về thị hiếu của mỗi nước.
Ngày nay, do có sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã đem lại
những thành tựu to lớn cho ngành nông nghiệp nhất là những thành tựu về
công nghệ sinh học, nhờ áp dụng các loại giống mới có năng suất, chất lượng

cao mà đã tạo ra các loại gạo với nhiều chủng loại và mẫu mã khác nhau phù
hợp với thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng ở mỗi nước
khác nhau thì có thị hiếu về gạo khác nhau. Có nước thích loại gạo ngon hạt
dài, có nước lại thích loại gạo chất lượng trung bình nhưng hạt dài... Như vậy
một loại gạo có thể được tiêu dùng ở nước này nhưng chưa chắc đã được
chấp nhận ở nước khác. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của thị trường cần phải
phân loại gạo theo chất lượng, tâm lý tiêu dùng để có đối sách thích hợp với
mỗi loại thị trường.
Những đặc điểm của thị trường gạo nói trên có ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình kinh doanh xuất khẩu gạo do vậy cần phải tìm hiều và phân tích sâu
sắc các đặc điểm đó.
1.2.2. Xu hướng của thị trường gạo thế giới :
Cung:
Lúa gạo - sản phẩm của ngành nông nghiệp - đáp ứng nhu cầu tối cần
thiết của con người. Do nhận thức được tầm quan trọng của lúa gạo, ngày nay
hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến lĩnh vực an ninh lương thực, trong đó
họ đặc biệt cân đối vững chắc cung - cầu tạo sự ổn định cho nhu cầu trong
nước. Hơn nữa, diễn biến thuận tiện của thời tiết khí hậu trong vài năm gần
đây làm lượng lúa gạo trao đổi trên thị trường ngày càng nhiều, có rất nhiều
Quốc gia dư thừa lúa gạo để xuất khẩu đặc biệt là các nước đang phát triển.
13
Suốt nhiều thập niên qua, các nước đang phát triển vẫn thường xuyên chiếm
khoảng trên 80% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, Phần còn lại của các
nước phát triển chiếm 20%. Theo phạm vi đại lục thì Châu Á trong thời gian
gần đây xuất khẩu lớn nhất chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 75% thứ đến là
Mỹ xuất khẩu gạo chiếm trung bình20%. Cả 3 Châu: Châu Âu, Châu đại
Dương, Châu Phi chỉ chiếm khoảng 5% tổng xuất khẩu gạo thế giới.
Cầu:
Trước kia, do thiếu lương thực triền miên nên nhu cầu về gạo của con
người rất đơn giản chỉ cần có gạo để ăn là được. Trước nhu cầu đó việc sản

xuất gạo cũng thật đơn giản, những loại giống lúa nào ngắn ngày, cho năng
suất cao đều được cho là giống tốt và được áp dụng rộng rãi còn đối với các
giống lúa đặc sản truyền thống mặc dù có hương vị nhưng năng suất thấp nên
việc bảo tồn hầu như bị coi nhẹ. Cùng với sự văn minh của xã hội hiện đại thì
nhu cầu của con người cũng không ngừng được nâng lên. Nhu cầu của con
người ngày nay không chỉ dừng lại ở mức đủ gạo để ăn mà đòi hỏi những loại
gạo có chất lượng cao, những loại gạo tự nhiên. Sở dĩ có gạo "tự nhiên" bởi lẽ
cùng với những thành tựu của khoa học kỹ thuật là những tác hại của lượng
hoá chất còn tồn đọng trong sản phẩm. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu
đã phát hiện ra rằng tiêu dùng những loại gạo còn lưu một lượng hoá chất là
vô cùng tác hại. Hơn nữa, những loại gạo được thâm canh theo phương pháp
cổ truyền, tự nhiên, bao giờ cũng có hương vị đậm đà hơn các sản phẩm cùng
loại mà việc sản xuất ra nó có sử dụng quá nhiều hoá chất. Chính điều đó đã
dẫn đến một xu hướng có tính quy luật về nhu cầu gạo như hiện nay: cầu về
số lượng gạo có xu hướng tăng chậm thậm chí giảm còn cầu về gạo chất
lượng cao vẫn không ngừng tăng lên.
Giá:
Nhìn chung, giá lúa gạo thế giới gần đây có xu hướng giảm xuống
nguyên nhân của sự giảm giá này là do nhu cầu về gạo tương đối ổn định
trong khi đó cung ngày càng tăng lên.
14
Đứng trước xu hướng của thị trường gạo thế giới, Việt Nam với cương vị
là một nước xuất khẩu. Biện pháp thức thời đưa ra đối với ngành lúa gạo để
đáp ứng tình hình hiện nay trước tiên là chất lượng lúa gạo và thị trường tiêu
thụ. Nếu chúng ta giải quyết được 2 vấn đề này thì có nghĩa là chúng ta đã có
lối đi cho ngành lúa gạo Việt Nam.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo.
1.3.1. Sự biến động của thị trường.
Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền sản xuất và tiêu dùng, ở đâu có
sản xuất, lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Để nắm vững các qui luật

vận động của thị trường nhằm xử lý các tình huống trong kinh doanh - nhất
thiết chúng ta phải nghiên cứu thị trường. Chúng ta nghiên cứu sự tác động
của thị trường thế giới đến xuất khẩu gạo của Việt Nam qua hai vấn đề:
Thứ nhất: Dung lượng của mặt hàng gạo trên thị trường
Đó là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường
nhất định và trong một thời gian nhất định. Chúng ta nghiên cứu dung lượng
thị trường gạo để xác định nhu cầu thật của thị trường thế giới. Xác định được
xu hướng biến động của nhu cầu và đặc điểm nhu cầu của từng vùng, từng
khu vực. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu về gạo, chúng ta phải nắm bắt khả
năng cung cấp của thị trường thế giới diễn ra như thế nào. Hiện nay, những
nước nào có khả năng cung cấp mặt hàng này, tiềm năng cung cấp trong
tương lai ra sao. Tuỳ đó mà ta đưa ra đối sách giữ vững sản lượng cố định hay
ta sẽ tăng sản lượng xuất khẩu. Như chúng ta biết gạo là một sản phẩm thiết
yếu rất cần thiết cho cuộc sống nhưng nhu cầu nhập tăng lên cầu về gạo của
mỗi cá nhân là giảm xuống song cầu của toàn xã hội vẫn tăng lên. Nguyên
nhân là khi thu nhập tăng thì người ta tiêu dùng gạo trực tiếp ít đi nhưng
người ta sẽ tiêu dùng những sản phẩm được chế biến từ gạo tăng lên. Đồng
thời nhu cầu tăng lên do dân số thế giới tăng lên. Vậy khi chúng ta thực hiện
chiến lược xuất khẩu sản phẩm, ta phải lấy cơ sở xuất khẩu là do nhu cầu, khi
15
có nhu cầu mới xuất hiện cung. Đánh giá tương đối về dung lượng thị trường
sẽ cho phép xác định nhu cầu và khả năng cung cấp gạo cho thị trường.
Thứ hai: Sự biến động của giá gạo.
Giá gạo xuất khẩu được coi là giá tổng hợp trong đó bao gồm: chi phí
sản xuất, bao bì, vận chuyển, thu mua... Cũng như các mặt hàng khác giá gạo
biến động rất phức tạp bởi nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như cung, cầu, cạnh
tranh... hơn nữa gạo là sản phẩm thiết yếu nên một sự biến động nhỏ của cung
hoặc cầu đều làm giá thay đổi.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây cầu về gạo tương đối bão hoà, cung
về gạo ngày càng lớn (Chính phủ các nước đều chú ý đến an ninh lương thực

và thời tiết rất thuận hoà cho việc phát triển sản xuất lúa gạo) dẫu đến giá gạo
trên thị trường thế giới rất thấp, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người nông
dân nhất là những vùng chuyên trồng lúa. Để khắc phục tình trạng này, Chính
phủ cần quan tâm hơn nữa đến những biện pháp để hỗ trợ nông dân trồng lúa
và những doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo.
1.3.2. Thị hiếu người tiêu dùng.
Tuỳ theo mức sống, tập quán, việc tiêu thụ gạo ở các nước, các khu vực
trong những thời gian nhất định có những yêu cầu khác nhau. Thông thường,
gạo đánh bóng và xát trắng được ưa chuộng hơn. Tuy vậy có những vùng
nông thôn người ta lại ưa loại gạo xát không kỹ chứa nhiều vitamin và ngày
nay trên thế giới thì xu hướng thiên về gạo ngon hạt dài. Từ những khác nhau
về thị hiếu đó thì ta thấy rằng khi thâm nhập vào một thị trường nào đó trước
hết chúng ta cần phải tìm hiểu thị hiếu của họ, xem họ cần loại gạo nào từ đó
mới cung ứng có như vậy thì mới nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo.
1.3.3. Chất lượng gạo xuất khẩu.
Chất lượng gạo là một trong những yếu tố quyết định tới sự cạnh tranh
trên thị trường, đồng thời nó cải thiện được hiệu quả xuất khẩu. Chất lượng
gạo xuất khẩu cần được hiểu một cách rộng hơn với ý nghĩa là một chỉ tiêu
16
tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của gạo xuất khẩu về qui cách,
phẩm chất, kiểu dáng, sở thích, tập quán tiêu dùng. Chất lượng gạo không phụ
thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giống kỹ thuật canh tác và bảo quản chế biến
là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo.
Giống:
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng gạo bởi lẽ giống tốt
thì bản thân nó đã đảm bảo các chỉ tiêu:
+ Khả năng chống chọi với điều kiện tự nhiên.
+ Cho phép sinh trưởng và phát triển mạnh.
+ Tạo ra sản phẩm với năng suất, chất lượng cao, mẫu mã đẹp.
+ Có khả năng hạn chế các loại sâu bệnh.

Để có thể tạo ra chất lượng giống tốt thì Đảng và Nhà nước cùng Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn cần có sự đầu tư thích đáng vào lĩnh vực
nghiên cứu giống cây trồng, lĩnh vực công nghệ ghen, bên cạnh đó cần tranh
thủ trình độ khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới như là vấn đề
chuyển giao công nghệ, vấn đề nghiên cứu ứng dụng...
Kỹ thuật canh tác.
Là tổng thể các biện pháp bao gồm các khâu: gieo cấy, chăm sóc và
phòng trừ sâu bệnh. Đây là các nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình
sinh trưởng và phát triển của cây lúa, việc thực hiện đúng qui trình kỹ thuật là
vô cùng quan trọng đối với việc tạo ra một loại gạo phẩm chất cao. Chẳng hạn
trong khâu phòng trừ sâu bệnh nếu không phòng trừ đúng lúc, đúng chỗ rất có
thể sẽ để lại những dư âm của thuốc hoá học trong sản phẩm và đây cũng là
vấn đề cần lưu ý cho những người sản xuất lúa gạo đặc biệt là trong thời đại
ngày nay - thời đại của hoá chất và thuốc hoá học do kiến thức về khoa học
kỹ thuật ít, người nông dân chỉ cần biết loại thuốc đó có phòng trừ sâu bệnh
hay không mà không hề quan tâm tới ảnh hưởng của nó đến sản phẩm như thế
nào để khắc phục những hạn chế đó, việc thành lập các tổ đội khuyến nông bổ
17
sung những kiến thức về kỹ thuật canh tác cho bà con nông dân hiện nay là
việc làm rất cần thiết.
Công nghệ sau thu hoạch: Đây là khâu cuối cùng ảnh hưởng tới chất
lượng lúa gạo bao gồm: phơi sấy, xay xát, bao gói và kỹ thuật bảo quản. Mỗi
một công đoạn thực hiện là một lần làm thay đổi chất lượng hạt gạo. Sự thay
đổi này là tăng lên khi công đoạn đó được thực hiện đúng qui trình và sự thay
đối đó là giảm đi khi công đoạn đó không đúng qui trình kỹ thuật. Xét một
cách cụ thể hơn:
Với khâu phơi sấy: Đây là một công đoạn làm giảm độ ẩm của lúa gạo
khi mới gặt về. Độ ẩm đảm bảo của hạt thóc và 14% do vậy trong quá trình
phơi sấy thóc có độ ẩm lơn hơn 14% thì khi cho vào kho bảo quản loại thóc
này thường dễ bị nảymầm điều này cũng đồng nghĩa với hạt gạo làm ra sẽ dễ

biến màn và bạc bụng không đảm bảo tiêu chuẩn cho gạo xuất khẩu. Hơn nữa,
bản thân quá trình sấy khô lúa gạo nếu không đúng qui trình tức là cho máy
sấy một khối lượng lúa gạo quá lớn hoặc một lượng nhiệt quá cao sẽ dẫn đến
việc tạo ra một lượng lúa gạo có độ ẩm không đều và nhiều hạt vỡ.
Với kho bảo quản.
Sở dĩ lúa gạo có kho bản quản bởi lẽ nó là sản phẩm của ngành nông
nghiệp, do nó có tính thời vụ trong sản xuất nên nó cũng có tính thời vụ trong
trao đổi. Bất kỳ một Quốc gia nào có lúa gạo thì đều có kho bảo quản. Kho
bảo quản là một hệ thống các kho từ kho bảo quản ở các chợ thu mua, kho
bảo quản ở nơi tập trung xay xát và kho bảo quản ở các cảng giao hàng. Việc
xây dựng hệ thống các kho một cách hiện đại, bảo đảm và yêu cầu cần thiết
đặt ra đối với mọi quốc gia đặc biệt là các quốc gia xuất khẩu lúa gạo bởi lẽ
có như vậy thì mới tạo nên sự thuận lợi trong hoạt động kinh doanh, điều hoà
thị trường, thiết lập ổn định dự trữ quốc gia và cung cấp ra thị trường thế giới
theo đúng tiến độ giao hàng.
18
Với chế biến.
Kỹ thuật xay xát được đánh giá theo chất lượng hạt gạo nguyên đạt
được. Tuy nhiên, lượng hạt nguyên cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào kỹ thuật
xay xát và giống lúa. Thị hiếu tiêu dùng quyết định tới cách chế biến như thế
nào. Có nhiều nước ưa chuộng gạo xát trắng, không còn phôi và lớp cám
ngoài cùng, có nhiều nước lại ưa chuộng loại gạo hấp chứa nhiều vitamin và
có giá trị dinh dưỡng cao. Việc chế biến sao cho phù hợp với thị hiếu người
tiêu dùng cũng đồng nghĩa với chất lượng hạt gạo được nâng lên để đáp ứng
được yêu cầu của người tiêu dùng.
1.3.4. Cơ chế chính sách đối với xuất khẩu.
Cơ chế quản lý, chính sách kinh tế và các quan hệ đối ngoại là các yếu tố
rất nhạy cảm, tác động trực tiếp nền kinh tế nói chung và xuất khẩu gạo nói
riêng.
Sự tác đồng của cơ chế chính sách đến xuất khẩu gạo theo 2 hướng: kìm

hãm xuất khẩu nếu chính sách đó không phù hợp và thúc đẩy xuất khẩu nếu
chính sách đó không phù hợp.
Đối với xuất khẩu gạo, các chính sách tác động mạnh mẽ nhất là:
Chính sách đầu tư.
Chính sách vốn tín dụng.
Chính sách bảo hiểm và trợ giá.
Chính sách Marketing.
Hơn nữa, xuất khẩu gạo là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài phạm vi
một quốc gia thông qua mối quan hệ thương mại có tổ chức từ lâu trong ra
bên ngoài nhằm thu được lợi ích ngoại vi lớn hơn. Vì vậy các quan hệ kinh tế
đối ngoại có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xuất khẩu gạo. Đối với một nước, các cơ
quan kinh tế đối ngoại cởi mở cho phép tìm kiếm được nhiều bạn hàng để
xuất khẩu. Các bạn hàng ở những nước có trình độ phát triển kinh tế và điều
kiện khác nhau yêu cầu chủng loại gạo và chất lượng gạo khác nhau. Sự biến
19
động các ngoại tệ mạnh tạo ra sự thay đổi của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu gạo. Đặc biệt với Việt Nam đến năm 2003,
hiệp định thương mại tự do các nước Đông Nam Á có hiệu lực hàng rào thuế
quan bị xoá bỏ - Đây không chỉ là nhân tố ảnh hưởng đơn thuần mà là thách
thức lớn cho xuất khẩu gạo của nước ta. Trước thực tế đó, yêu cầu đặt ra cho
Chính phủ Việt Nam hiện nay là cần có một chính sách hợp lý trong điều
hành xuất khẩu gạo cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu, có thể giảm thuế
quan, trợ cấp vận chuyển, cho vay ưu đãi để thu mua thóc của nông dân đồng
thời khi giá giảm có thể trợ giúp họ bằng quĩ bình ổn... Qui định móc giá trần,
giá sàn để đảm bảo lợi ích người sản xuất và người tiêu dùng. Theo dõi tình
hình cung cầu nước ngoài để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp xuất khẩu
cũng như điều chỉnh chính sách kịp thời. Nhà nước có thể có thể giúp đỡ
doanh nghiệp tìm kiếm thị trường thông qua việc ký kết hợp đồng liên Chính
phủ, đặt nền tảng vững chắc cho xuất khẩu. Nhà nước cần xác định một tỷ giá
hối đoái hợp lý để tạo ra sức cạnh tranh cho gạo xuất khẩu. Vì tỷ giá hối đoái

là đòn bẩy để điều tiết cung cầu. Tỷ giá hối đoái thấp sẽ có tác dụng khuyến
khích nhập khẩu nhưng tỷ giá hối đoái cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại
khuyến khích xuất khẩu. Vì khi đó hàng xuất khẩu sẽ có giá tương đối thấp.
Nói tóm lại, trước xu thế vận động và phát triển không ngừng của xã hội,
khoa học công nghệ ngày càng hiện đại cùng với đó là nhu cầu tiêu dùng của
con người ngày càng được nâng cao, ngành sản xuất lúa gạo cũng phải thay
đổi để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó. Vì vậy, một chính sách cho ngành lúa gạo
khi đưa ra không chỉ đúng, phù hợp mà còn phải kịp thời nữa.
20
Chương 2 :
LỢI THẾ VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ
XUẤT KHẨU GẠO Ở VIỆT NAM
2.1. Về tự nhiên:
Việt Nam có lợi thế về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên, khí
hậu ưu đãi và thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đặc biệt là cây lúa
nước. Những yếu tố đó đã tạo cho Việt Nam có một lợi thế so sánh về mặt
hàng gạo so với nhiều nước trên thế giới.
2.1.1 Đất đai:
Ở Việt Nam sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất cổ truyền, có từ lâu đời
và gắn với lịch sử phát triển nông nghiệp. Đặc điểm của ngành sản xuất nông
nghiệp là sử dụng một diện tích lớn ruộng đất để gieo trồng thì Việt Nam có
một nguồn tài nguyên đất rất giàu có. Với diện tích đất trồng lúa hiện có 4,4
triệu hecta chiếm 55% trong tổng số 8 triệu hecta đất trồng trọt nông nghiệp,
43% trong tổng diện tích 10,3 triệu hecta đất đang sử dụng (không kể đất
rừng của cả nước) và 13,3% diện tích lãnh thổ, trong đó diện tích Đồng Bằng
Sông Cửu Long (ĐBSCL) là xấp xỉ 3954 triệu hecta, diện tích Đồng Bằng
Sông Hồng (ĐBSH) là 1251 triệu hecta và diện tích Đồng Bằng Nam Bộ
(ĐBNB) là 2347 triệu hecta. Đặc biệt ĐBSCL và ĐBSH là hai đồng bằng
rộng lớn, hàng năm được hai sông lớn bù đắp phù sa, được đánh giá vào loại
phì nhiêu trên thế giới, rất thích hợp cho việc trồng cây lúa nước. Độ màu mỡ

của đất đã giúp sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay, tăng cả
về sản lượng, diện tích và năng suất, nhờ đó mà Việt Nam không những đảm
bảo lương thực trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu.
2.1.2. Khí hậu và nguồn nước:
Tài nguyên nước dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật trong nghề
trồng lúa ở Việt Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày trong một năm ở
hai đồng bằng lớn, không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nước trời phú quý giá
21
mà còn bồi bổ cho lúa một nguồn đạm tự nhiên dễ hấp thụ. Ngoài ra hệ thống
thuỷ lợi nước ta với 10% ngân sách nhà nước đầu tư hằng năm đã đạt được
những thành quả đáng mừng. Với trị giá tài sản khoảng 25.800 tỷ đồng cơ sở
vật chất kỹ thuật của hệ thống thuỷ lợi đã tạo ra tổng năng lực tưới cho 3
triệu hecta canh tác và năng lực tiêu cho 1,4 triệu hecta. Hơn nữa Việt Nam
còn sở hữu một hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong phú phù hợp với cây lúa
nước, thuận lợi cho thu hoạch, vận chuyển và thực hiện xuất khẩu gạo.
Sự ưu việt của tài nguyên nước có ý nghĩa quyết định cho việc thâm
canh, tăng vụ thắng lợi và giảm giá thành sản phẩm nông sản. Lợi thế của tài
nguyên nước còn có ý nghĩa đặc biệt cho tài nguyên đất phát huy được đầy
đủ trong quá trình sản xuất nông nghiệp và trồng lúa.
Thực tế gạo là một sản phẩm mà không phải nước nàơ cũng có thể sản
xuất và cung cấp ra thị trường thế giới. Ngoài lợi thế về đất đai và nguồn
nước ra,Việt Nam còn có khí hậu nhiệt đới gió mùa rất phù hợp cho hai vựa
lúa của Việt Nam là ĐBSH và ĐBSCL có điều kiện lý tưởng trồng cây lúa
nước, cùng với sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa cũng như nắng gió. Điều kiện khí hậu ưu đãi hiếm có này còn là
lợi thế tuyệt vời cho phép ở ĐBSCL và ĐBSH sản xuất lúa quanh năm (3 vụ)
trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc chủng có
năng suất cao. Lợi thế này tạo cho Việt Nam những bước đột phá trong sản
xuất và xuất khẩu gạo.
2.2.Về lao động:

Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là khu vực
tạo việc làm chủ yếu.Với dân số 84 triệu người, trong đó 75% dân số sống ở
nông thôn và 50% dân số ở trong độ tuổi lao động, Việt Nam có nguồn lao
động dồi dào, giá nhân công rẻ . Đây là một lợi thế đối với việc sản xuất và
xuất khẩu gạo ở nước ta. Lực lượng lao động ở nông thôn tuy có kinh nghiệm
về nghề trồng lúa của ông cha truyền lại nhưng lao động có trình độ ở khu
vực này nhìn chung còn bất cập, về cơ bản vẫn chỉ là lao động phổ thông.
22
Hiểu biết của nông dân về khoa học kỹ thuật (nhất là công nghệ sinh học) còn
kém, về thị trường còn rất hạn chế vì vậy họ rất dè dặt trong việc thay đổi các
giống lúa, áp dụng những thành tựu mới vào sản xuất lúa gạo,… để nâng cao
chất lượng phù hợp với thị trường, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động
xuất khẩu gạo. Do đó để phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và sản
xuất lúa gạo nói riêng thì trong thời gian tới Việt Nam cần đầu tư ngân sách
Nhà nước vào phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và củng cố các trường dạy
nghề phục vụ phát triển nông nghiệp, bên cạnh đó cũng cần có các chính sách
thoả đáng đối với đội ngũ trí thức tình nguyện làm việc tại nông thôn…Nâng
cao chất lượng lực lượng lao động trong nông nghiệp là cơ sở để hạt gạo Việt
Nam bay xa hơn.
2.3. Về kết cấu hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng của sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn được
Nhà nước ta quan tâm đầu tư và nâng cấp nhằm nâng cao năng suất, sản
lượng lúa cũng như hiệu quả và chất lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Trước hết, đối với sản xuất gạo, các công trình thuỷ lợi được đầu tư tu
bổ và xây mới thuận lợi cho tưới tiêu, nâng cao năng suất lúa. Bên cạnh đó
phải kể đến trình độ cơ giới hoá ngày càng nâng cao đã làm giảm tổn thất tỷ
lệ tổn thất trước và sau thu hoạch lúa, và làm giảm chi phí sản xuất gạo…
Thứ hai là đối với gạo xuất khẩu, bấy lâu nay hầu hết khối lượng gạo
buôn bán quốc tế của Việt Nam thường được vận tải bằng đường biển. So
với phương tiện vận tải đưòng sắt, đưòng hàng không , vận tải bằng đưòng

biển quốc tế đảm bảo thuận lợi, thông dụng và giá rẻ hơn. Trong thực tế
chuyên chở gạo bằng đưòng biển Việt Nam có nhiều lợi thế nổi bật. Đưòng
biển nước ta hình chữ S, dài trên 3000 km suốt từ Bắc – Trung - Nam, nước
ta có nhiều cảng thuận lợi như: Cửa Ông, Hải phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu,
Sài Gòn… Hệ thống hải cảng Việt Nam nói chung đều nằm sát đường hàng
hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đường đi Đông Bắc Á,
23
Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Á, Châu Phi, Châu
Mỹ. Vì vậy Việt Nam có cơ hội để đảm bảo thời gian và giá cước phí vận
chuyển gạo xuất khẩu tương đương so với nước khác.
2.4. Về thể chế, chính sách:
Xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng phát triển
một cách mạnh mẽ đó là nhờ nền chính trị ổn định và chính sách kinh tế hợp
lí. Chính sách mở cửa nền kinh tế đã mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế giữa
Việt Nam và thế giới, với mọi quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế. Điều đó
tạo cơ hội cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có thêm những bạn
hàng mới. Nhà nước luôn có những chính sách khuyến nông, chính sách hỗ
trợ phát triển sản xuất lương thực và xuất khẩu như thưởng kim ngạch xuất
khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng, thưởng thành tích xuất khẩu, hỗ trợ xúc
tiến thương mại nhằm nâng cao hơn nữa giá trị kim ngạch xuất khẩu, khối
lượng gạo xuất khẩu ra thị trường quốc tế, nhất là trong điều kiện hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
Năm 2001-2002, thực hiện chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ
trợ lãi suất vay ngân hàng đã góp phần làm tăng số lượng gạo xuất khẩu, giúp
nông dân tiêu thụ được sản phẩm, giá gạo đã tăng khiến cho người dân yên
tâm hơn trong sản xuất. Bên cạnh đó nhờ các cơ chế, chính sách khuyến
khích xuất khẩu, các Doanh nghiệp xuất khẩu đã giảm bớt khó khăn về tài
chính. Trong năm 2001, Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu đã thưởng kim ngạch xuất
khẩu cho mặt hàng gạo là 26,39 tỷ đồng, tính riêng 5 tháng đầu năm 2002 cơ
chế hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng mua tạm trữ mặt hàng gạo là 43,7 tỷ đồng.

Ngoài ra Nhà Nước còn khuyến khích các Doanh nghiệp hình thành các
tổ chức hiệp hội, hợp tác để thống nhất về quy cách, ký kết hợp đồng dài hạn,
bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong
buôn bán.
24
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu gạo như: cung cấp miễn phí
các thông tin về thị trường và các văn bản có liên quan đến xuất khẩu cho các
Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các thông lệ thương mại luôn ưu tiên và đảm bảo quyền lợi
cho xuất khẩu gạo.
Việc Nhà nước đặt mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản là mũi nhọn trong
hoạt động kinh tế đối ngoại và phát triển kinh tế đất nước cũng đã tạo điều
kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo mạnh mẽ hơn.
2.5. Mức tiêu thụ gạo của thế giới:
Từ năm 1989 – 2001, sản lượng tăng 2%/năm, đạt mức 908 triệu tấn
vào năm 2001, trong đó 90% làm lương thực cho người, số còn lại phục vụ
cho chăn nuôi và chế biến công nghiệp. Tuy nhiên nhu cầu gạo ở mỗi quốc
gia và mỗi vùng là khác nhau.
Châu Mỹ La Tinh, Châu Âu, Bắc Mỹ , Caribê: mức tiêu dùng cho một
người trong một năm là tăng, trong khi đó ở vùng Trung cận đông có xu
hướng giảm, ở khu vực viễn đông: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan,
Singapore, tuy thu nhập bình quân đầu người có tăng nhưng nhu cầu tiêu
dùng gạo giảm do cơ cấu bữa ăn có sự thay đổi.
Châu Phi dự kiến tiêu dùng bình quân đầu người là 16 kg, tăng 2
kg/người so với thời kỳ trước đây. Châu Phi đang ngày càng trở thành một thị
trường gạo hấp dẫn. Nhập khẩu gạo Châu Á vào Châu Phi ngày một tăng và
tiếp tục tăng hơn nữa. Châu Á là nơi sản xuất lượng gạo nhiều nhất, chiếm
79% trong đó Trung Quốc chiếm 34%, Ấn Độ chiếm gần 20%, Inđônêsia
chiếm 8 – 9%.
Nhu cầu nhập khẩu gạo thực chất còn phụ thuộc vào khả năng thanh

toán hạn hẹp của bản thân những nước nghèo ở Trung Đông và Châu Phi, vì
đây là những nước nhập khẩu gạo với số lượng lớn. Tính đến cuối năm 1999
25

×