Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Quá trình du nhập của nho giáo vào việt nam từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 218 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM THỊ LOAN

QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO GIÁO
VÀO VIỆT NAM TỪ ĐẦU
CÔNG NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM THỊ LOAN

QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO GIÁO
VÀO VIỆT NAM TỪ ĐẦU
CÔNG NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.80.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG


Phản biện:
1. GS. TS. NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS.TS. LƯƠNG MINH CỪ
3. PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TẾ
Phản biện độc lập:
1. PGS. TS. NGUYỄN QUANG HƯNG
2. PGS.TS. NGUYỄN THANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung trong luận án này là công trình nghiên
cứu độc lập, trung thực của bản thân, chưa từng được công bố trên bất
kỳ một công trình nào khác, những tài liệu được sử dụng trong luận án
đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Nếu có gì không đúng, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày

Tác giả

PHẠM THỊ LOAN

tháng

năm 2015


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN
CHO SỰ DU NHẬP CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM ............... 16
1.1. Khái quát về học thuyết Nho giáo ................................................ 16
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo ......................... 16
1.1.2. Nội dung cơ bản trong học thuyết Nho giáo ................................ 23
1.2. Khái luận về du nhập va những điều kiện cho sự du nhập
củaNho giáo vào Việt Nam .................................................................. 33
1.2.1. Khái luận chung về sự du nhập .................................................... 33
1.2.2. Những điều kiện cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam .... 38
Kết luận chương 1 ................................................................................ 57
Chương 2. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH DU NHẬP
VIỆT NAM ................................................................................................ 59
2.1. Các giai đoạn trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam ...... 59
2.1.1. Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam ............... 59
2.1.2. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam .......... 64
2.1.3. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tư tưởng chính thống
của nhà nước phong kiến Việt Nam ....................................................... 74
2.2. Những nội dung tư tưởng cơ bản cảa Nho giáo trong quá trình
du nhập Việt Nam ................................................................................ 93
2.2.1. Về thế giới quan ........................................................................... 93


2.2.2. Tư tưởng chính trị - xã hội ......................................................... 108
2.2.3. Tư tưởng đạo đức - luân lý......................................................... 119
Kết luận chương 2 .............................................................................. 128
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA QUÁ TRÌNH

NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM................................................ 130
3.1. Những đặc điểm cơ bản của quá trình Nho giáo du nhập
Việt Nam ............................................................................................ 130
3.1.1. Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam......... 130
3.1.2. Tính dung hợp trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam ....... 140
3.1.3. Tính Việt hóa trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam ...... 153
3.2. Ý nghĩa lịch sử của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam ... 165
3.2.1. Ý nghĩa về phương diện văn hóa .............................................. 165
3.2.2. Ý nghĩa về phương diện tư tưởng, đạo đức .............................. 171
3.2.3. Ý nghĩa về phương diện chính trị – xã hội ................................ 176
Kết luận chương 3 ............................................................................ 192
KẾT LUẬN

........................... 194

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 199


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là học thuyết triết học, chính trị - đạo đức của Trung Quốc, ra đời ở thế
kỷ VI trước Công nguyên, sau đó lần lượt được truyền sang các nước Á Đông
khác, Nho giáo đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm nay và trải qua nhiều
biến đổi. Từ chỗ những ngày đầu còn xa lạ và bị phần lớn người Việt từ chối,
sau thời Bắc thuộc, Nho giáo đã dần được các triều đại Việt Nam tiếp nhận và
sử dụng làm hệ tư tưởng và công cụ để trị nước, đào tạo ra những con người
phù hợp với mục đích cai trị của chế độ phong kiến nước nhà. Trong nhiều
thế kỷ được nhà nước phong kiến Việt Nam đề cao, Nho giáo đã hiện diện

như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang tính chất chính thống, một
phương thức hoạt động và phát triển văn hóa đóng vai trò chủ đạo. Một mặt,
các nguyên tắc chính trị - đạo đức của Nho giáo đã được vận dụng để xây
dựng một quốc gia độc lập tự chủ hùng mạnh trải qua các triều đại Lý - Trần Lê - Nguyễn, góp phần gìn giữ và làm giàu di sản văn hóa nước nhà, nhưng
mặt khác nó cũng kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển của tư tưởng học thuật
và tiến trình lịch sử nước ta. Chính vì thế, ở Việt Nam, Nho giáo có lúc thịnh
lúc suy, có lúc được coi là đỉnh cao của hệ tư tưởng thống trị nhưng cũng có
lúc bị phê phán nặng nề, bị coi là nguồn gốc của tư tưởng bảo thủ lạc hậu.
Tuy vậy, Nho giáo như “một thân bèo trên mặt nước, có lúc bị đánh cho tán
loạn, chỉ sóng yên, nước lặng, bèo lại tỏa ra thành thảm” [73, tr.107]. Rõ ràng
rằng, Nho giáo đã trở thành một trong những thành tố của truyền thống văn
hóa Việt Nam, chi phối mạnh mẽ đến tư duy và thái độ ứng xử của người
Việt, như lời của giáo sư Phan Ngọc: “Không có một dấu vết nào của văn hóa
Việt Nam mà không mang một biểu hiện có thể xem là có tính chất Nho giáo,
dù đó là văn học, chính trị, phong tục, nghi lễ, nghệ thuật, tín ngưỡng. Cũng
không có một người Việt Nam nào, dù chống Nho giáo đến đâu mà lại không
chịu ảnh hưởng của Nho giáo” [113, tr.201]. Hiện nay, đứng trước yêu cầu


2

hiện đại hóa đất nước, việc nghiên cứu vấn đề Nho giáo nói chung, một mặt,
nhằm xem xét những cơ sở lịch sử, chính trị và văn hóa mà Nho giáo có thể
bén rễ trong xã hội, những ảnh hưởng của Nho giáo thể hiện qua tư tưởng,
phong tục tập quán, lối sống, cách ứng xử xã hội..., mặt khác, để có thái độ
đúng đắn đối với một học thuyết đã có những ảnh hưởng sâu sắc đối với đời
sống xã hội của dân tộc trong lịch sử. Không chỉ ở Việt Nam, Nho giáo cũng
để lại những dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Trung Quốc cũng như một số
nước châu Á khác, tác động mạnh mẽ đến nếp nghĩ và hành động của phần
lớn người phương Đông. Chính vì vậy, một số nhà nghiên cứu phương Tây đã

quay lại Nho giáo để tìm một lời giải thích cho sự thành công của Nhật Bản,
cho sự phát triển đến mức kinh ngạc của nền kinh tế công nghiệp mới ở Hàn
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Singapore - những nước vẫn chịu ảnh hưởng
sâu sắc của nền văn hóa Trung Quốc và do đó, chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày một mạnh mẽ, sâu
sắc ở thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế mà nó còn
lan tỏa, thâm nhập vào các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Toàn cầu hóa
vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là
những thách thức to lớn đối với vấn đề bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc trong bối cảnh mới của thế giới hiện
đại. Ở khía cạnh văn hóa, một mặt, toàn cầu hóa tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa, cùng với nó là sự giới thiệu, quảng bá
những nét độc đáo của thành tựu văn hóa dân tộc đến các dân tộc khác, nhưng
bên cạnh đó, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn nguy cơ áp đặt văn hóa ngoại lai đối
với các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn. Trong xu hướng tất yếu
của sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa, việc khẳng
định và phát huy những yếu tố văn hóa bền vững, lâu dài, làm nền tảng tinh
thần cho sự tồn tại và phát triển của cả một dân tộc là điều kiện hết sức thiết


3

yếu. Đảng và Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay luôn khẳng định chủ
trương xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
một nền văn hóa “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần
sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ” [45, tr.236] với mục tiêu “làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển” [45, tr.236]. Nền văn hóa ấy tất yếu phải kế thừa và phát huy tinh hoa

văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc mà trong đó Nho giáo đã
từng giữ vai trò chủ đạo suốt nhiều thế kỷ. Do vậy, nghiên cứu về Nho giáo
nói chung, quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam nói riêng giúp
chúng ta nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò và những ảnh hưởng của Nho giáo đối
với đời sống xã hội Việt Nam, trên cơ sở đó có thái độ khách quan trong việc
tiếp thu di sản của quá khứ, góp phần tạo ra nội lực thúc đẩy sự phát triển của
xã hội. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu về quá trình du nhập của Nho giáo vào
Viet Nam qua các giai đoạn khác nhau trong lịch sử con nhằm tìm ra tính quy
luật của quá trình này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về sự tiếp thu,
vận dụng của dân tộc ta đối với Nho giáo nói riêng và các học thuyết, tư
tưởng ngoại lai nói chung vừa để tránh bị đồng hóa văn hóa vừa để làm giàu
thêm nền văn hóa của riêng mình, đặc biệt là trong bối cảnh hiện tại, bối cảnh
mà cho dù một quốc gia có thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” song
cũng không thể ngăn nổi sự thẩm thấu của dòng chảy toàn cầu hóa văn hóa một dòng chảy lớn cuốn hút mọi nền văn hóa cùng hội nhập. Đó là lý do cho
việc thực hiện đề tài “Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam từ đầu
Công nguyên đến thế kỷ XIX”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Với tư cách là một học thuyết, một tư tưởng, Nho giáo du nhập Việt
Nam được đặt trong nhận thức về sự chuyển đổi tư tưởng từ một nền văn hóa
này sang một nền văn hóa khác, từ một khu vực, một cộng đồng nhất định


4

sang một khu vực, cộng đồng khác. Từ góc độ tiếp cận đó, việc nghiên cứu
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam cần phải xem xét đến lý luận
chung thuộc các công trình của nhiều học giả nước ngoài về những khía cạnh
đặc sắc của sự chuyển đổi tư tưởng, văn hóa. Trước hết, đó là lý luận về sự
chuyển đổi của các tư tưởng, quan điểm thể hiện qua các công trình: Learning
as Transformation: Critical perspectives on a theory in progress (2000) và

Perspective Transformation (2012) của tác giả Jack Mezirow và các cộng sự,
do Trung tâm Giáo dục dành cho Người lớn và Đại học Columbia ấn hành.
Cuốn sách Learning as Transformation: Critical perspectives on a theory in
progress (tạm dịch Tìm hiểu về sự chuyển đổi: Những luận điểm quan trọng
trong một lý thuyết về sự tiến triển) xuất phát từ một hội nghị của Đại học
Columbia năm 1998 về việc tìm hiểu những sự chuyển đổi, gồm 3 phần với
12 bài viết đi từ những khái niệm cốt lõi của lý thuyết chuyển đổi đến những
cách tiếp cận mang tính xây dựng và phát triển về sự tiếp nhận chuyển đổi
trong sự khác biệt giữa các cá nhân, các cộng đồng, nhằm phân tích ý tưởng
về việc con người tiếp thu sự thay đổi hay chuyển đổi khung tham chiếu của
họ như thế nào. Cuốn sách Perspective Transformation (tạm dịch Sự chuyển
đổi quan điểm) xem xét về sự chuyển đổi quan điểm trong mối liên hệ với sự
thay đổi cấu trúc tư tưởng, sự thay đổi hành vi, sự tái lập những tiêu chí xác
định giá trị và hành động của con người. Tác phẩm Organizational
Transformation: Approaches, Strategies, Theories (tạm dịch Sự chuyển đổi
về cấu trúc tổ chức: Những cách tiếp cận, các chiến lược, các lý thuyết) của
tác giả Amir Levy, Uri Merry, Havard, New York ấn hành vào năm 1998.
Theo đó, mọi sự chuyển đổi tư tưởng, tôn giáo đều được đặt trong một bối
cảnh văn hóa nhất định (hiểu theo nghĩa rộng) và như vậy, sự du nhập tư
tưởng cũng phải được đặt vào sự gặp gỡ của hai nền văn hóa khác nhau. Cùng
với lý luận này là nhận thức về các giai đoạn chuyển đổi bên trong tư tưởng,
tôn giáo và mô hình về sự tác động của hai nền văn hóa mà sự mọi chuyển đổi
tôn giáo, tư tưởng được đặt vào (mô hình đồng hóa - mô hình biến đổi, sinh


5

sản - mô hình bản địa hóa), thể hiện trong các tác phẩm: Understanding
religious conversion (tạm dịch: Nhận thức về sự chuyển đổi tôn giáo), của
Lewis Rambo, do Yale University ấn hành năm 1993; Thought on the

problem of religious conversion in history (tạm dịch: Tư duy về vấn đề
chuyển đổi tôn giáo trong lịch sử) của tác giả Propper Karl, London, Oxford
University xuất bản năm 1986; Rambo’s stages of conversion (tạm dịch:
Những giai đoạn chuyển đổi của Rambo), Judy Harrow, đăng trên Sociology
and social Research (UNESCO), vol 36, No 3; Religion and the
transformation of society (Tôn giáo và sự biến đổi của xã hội) của Wilson
Monica, do Cambridge, Cambridge University xuất bản năm 1971. Những lý
thuyết chung ở các công trình trên về sự chuyển đổi tư tưởng, tôn giáo, về
cách nhìn nhận những biến đổi của tư tưởng, tôn giáo con người trong sự gắn
liền với bối cảnh văn hóa mà chủ thể tồn tại, phát triển được chúng tôi tham
khảo như một trong những cách tiếp cận khoa học đối với những nghiên cứu
về sự du nhập của học thuyết Nho giáo vào Việt Nam.
Đi sâu vào việc tìm hiểu quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam,
đề tài đòi hỏi phải có những nhận thức sâu sắc về Nho giáo nói chung, Nho
giáo ở Việt Nam nói riêng. Với những tác động sâu sắc của Nho giáo đối với
lịch sử xã hội và con người Việt Nam, các vấn đề về Nho giáo nói chung và
về quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam nói riêng, nội dung và
những ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đã thu hút
được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Ở đây, luận án chỉ nêu lên
một số công trình tiêu biểu của các học giả trong nước từ đầu thế kỷ XX đến
nay với các hướng nghiên cứu chủ yếu sau:
1. Hướng nghiên cứu về điều kiện lịch sử - xã hội, đặc điểm và tiến
trình lịch sử của Nho giáo ở Việt Nam. Liên quan đến chủ đề này có các tác
phẩm, các công trình tiêu biểu như:
Đại Việt sử ký toàn thư, 3 tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản
năm 1998 là bộ quốc sử ghi chép một cách chi tiết và cẩn trọng các sự kiện


6


trong lịch sử Việt Nam từ thời đại Kinh Dương Vương đến triều đại Lê trung
hưng, cho thấy những biến đổi về lịch sử, chính trị, văn hóa xã hội, trong đó
có những biến đổi của Nho giáo ở Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Bên
cạnh đó, thông qua những bình luận của các nhà viết sử như Ngô Sĩ Liên, Lê
Văn Hưu, Phan Phu Tiên,Vũ Quỳnh, Lê Tung... có thể nhận thấy được những
khác biệt về mức độ ảnh hưởng, về vai trò, vị trí của Nho giáo qua các triều
đại và sự tiếp thu của các nhà tư tưởng đối với học thuyết Nho giáo. Đây được
coi là những những cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về Nho giáo từ
nhiều góc độ khác nhau.
Bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ biên,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993 và tập 2, do Lê Sỹ Thắng chủ biên, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, đã trình bày và phân tích sâu sắc các vấn đề
về tư tưởng Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử từ đầu Công nguyên đến thế kỷ
XIX dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong bức tranh chung đó, Nho giáo
chiếm một vị trí quan trọng với sự xem xét, phân tích trên nhiều phương diện
của các tác giả, từ quá trình phát triển theo dòng lịch sử, những điểm nhấn
trong mối quan hệ với Phật giáo, những tư tưởng của phần lớn các nhà nho
tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý
Đôn, Ngô Thì Nhậm..., cho đến những biến đổi của bản thân các phạm trù đạo
đức Nho giáo trước những thay đổi thời cuộc. Theo Nguyễn Tài Thư: “Nho
giáo vào nước ta là do bọn Trung Quốc áp đặt. Thế nhưng tình hình về sau có
khác. Khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam ít nhiều đã mang tính chất của
phương Bắc thì Nho giáo lại là một yêu cầu, một thứ học thuật tư tưởng mà
người trong nước cần phải tiếp thụ” [160, tr.79]. Có thể nói đây là những
công trình công phu, nghiêm túc và đáng tin cậy. Tuy không tập trung đi sâu
vào vấn đề Nho giáo nhưng những nghiên cứu, nhận định của các tác giả đã
gợi mở cho chúng tôi rất nhiều điều.



7

Bộ sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (gồm 7
tập), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1998 đã trình bày các vấn đề về lịch sử tư tưởng
Việt Nam từ tư tưởng bình dân Việt Nam trong buổi đầu dựng nước cho đến
tư tưởng Việt Nam qua các thời kỳ Bắc thuộc, Đinh Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê Nguyễn. Với những hiểu biết phong phú về triết học phương Tây, triết học
phương Đông, triết học Trung Quốc cũng như lịch sử, văn hóa Việt Nam, sự
công phú trong nghiên cứu, tác giả đã đem lại cho người đọc cái nhìn sâu
rộng về tư tưởng triết học Việt Nam, trong đó có Nho giáo.
Cùng hướng nghiên cứu về Nho giáo trong bức tranh lịch sử tư tưởng
nói chung còn có quyển Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam do
Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2002, đề
cập đến sự du nhập của các hệ tư tưởng vào Việt Nam trong đó có Nho giáo.
Cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ
biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, đã trình bày những tư tưởng triết
học chủ yếu của người Việt Nam từ thế kỷ II trước Công nguyên cho đến hết
thời nhà Hồ, trong đó có nêu lên bối cảnh lịch sử cho sự phát triển các khuynh
hướng tư tưởng và một số tư tưởng triết học của các nho sĩ người Việt theo
từng giai đoạn.
Công trình Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng Tháng Tám của Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
1993 (tập 1 và tập 2) đã trình bày, phân tích, đánh giá quá trình du nhập và
phát triển, lụi tàn của Nho giáo ở Việt Nam trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc
về lịch sử, văn hóa, tư tưởng Việt Nam. Sách Nho giáo ở Gia Định của Cao
Tự Thanh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1996 đã làm rõ quá trình Nho giáo
du nhập và phát triển ở Việt Nam trong trong tiến trình văn hoá - xã hội thế
kỷ XVIII - XIX ở Gia Định, đồng thời chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của
Nho giáo nơi đây.
Công trình Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (tập 3) của Nguyễn
Khắc Thuần, Nxb. Giáo dục, 1997 trình bày những nội dung cơ bản của Nho



8

giáo, sự truyền bá và tiếp nhận Nho giáo ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc, sự
phát triển của Nho giáo từ kỷ nguyên độc lập tự chủ đến thời Nguyễn. Công
trình cho thấy tính hệ thống, độ tin cậy của các cứ liệu lịch sử trong nghiên
cứu về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam, đồng thời tuy nghiên cứu chủ
yếu ở góc độ lịch sử, văn hóa chứ không phải triết học nhưng công trình vẫn
có những đánh giá, nhận định sâu sắc về Nho giáo trong mối quan hệ với lịch
sử, chính trị, xã hội Việt Nam.
Bên cạnh những nghiên cứu đó còn có rất nhiều những bài viết trên các
tạp chí đề cập đến vấn đề này như: Mấy vấn đề Nho học - Nho giáo ở miền
Bắc Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX của Phan Đại
Doãn, tạp chí Triết học, số 2, tháng 4 -1997; Đặc điểm của Nho Việt của
Nguyễn Hùng Hậu, tạp chí Triết học, số 3, tháng 3 -2003; Về quá trình Nho
giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX) của Doãn
Chính - Nguyễn Sinh Kế đăng trên tạp chí Triết học, số 9, tháng 9 - 2004
trong đó đã khái quát những biến đổi và đưa ra những nhận định đặc sắc về
Nho giáo trong quá trình du nhập vào Việt Nam; Sự truyền bá, phát triển và
biến đổi của tư tưởng Nho gia ở Việt Nam của Tôn Diễn Phong, tạp chí Hán
Nôm, số 4 - 2004; Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của
Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc của Trần Nghĩa, tạp chí Hán Nôm, số 1,
2005;... Những bài viết trên các tạp chí này đều tìm tòi thêm về một số khía
cạnh du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
2. Hướng nghiên cứu về nội dung tư tưởng, vai trò và ảnh hưởng
của Nho giáo ở Việt Nam. Những công trình tiêu biểu có thể kể ở đây là:
Tác phẩm Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh, Nxb. Quan
Hải tùng thư, Huế xuất bản năm 1939, đề cập đến ảnh hưởng của Khổng giáo
đối với xã hội Việt Nam trước đây. Tác giả cho rằng để đánh giá đúng Nho

giáo cần có thái độ khách quan, khoa học chứ không thể phủ nhận hoàn toàn
vai trò của Nho giáo, cho rằng nó là vô dụng, bởi theo ông “dẫu nó không


9

thích hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong
lịch sử, không ai có thể chối cãi hay xoá bỏ đi được” [1, tr.150].
Quyển Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản trước năm 1930 và
được tái bản nhiều lần, gần đây là bản do Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản năm 1992, trình bày những nội dung cơ bản của Nho giáo và lịch sử phát
triển của nó từ Khổng Tử đến thời kỳ nhà Thanh, phần cuối có đề cập đến sự
du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam. Đây được coi là tác phẩm
tiếng Việt đầu tiên trình bày có hệ thống về sự phát triển của Nho giáo.
Sách Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1991, tập hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu lớn như
Phan Ngọc, Trần Văn Giàu, Trần Quốc Vượng, Đinh Gia Khánh... về các vấn
đề Nho giáo, từ phương pháp tiếp cận, sự ra đời và phát triển của Nho giáo,
quan hệ của Nho giáo với lịch sử, kinh tế, văn hóa, giá trị và những ảnh
hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam. Trong cách đặt vấn đề về việc nghiên
cứu Nho giáo, tác giả Vũ Khiêu cũng cho rằng nên xuất phát từ đặc điểm
riêng và hoàn cảnh du nhập của Nho giáo để trả lời cho nhiều câu hỏi xoay
quanh sự mờ nhạt, yếu thế của Nho giáo trong thời kỳ Bắc thuộc, sự phát huy
của Nho giáo sau thời Bắc thuộc, đặc điểm du nhập của Nho giáo ở Việt
Nam... [82, tr.12-13].
Công trình Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam của Phan Đại Doãn
(chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, đi sâu phân tích sự tồn tại
và phát triển Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, đồng thời
cũng đặt ra vấn đề về sự khai thác những yếu tố hợp lý của nó trong quá trình
xây dựng chế độ mới. Các tác giả chỉ rõ, cuối thế kỷ XIX, mặc dù Nho giáo

Việt Nam ngày càng suy tàn, không còn đáp ứng được yêu cầu của xã hội
Việt Nam, nhưng những thành tựu của nó về giáo dục, khoa cử, những yếu tố
tiến bộ, hợp lý của nó về xây dựng gia đình, xây dựng cộng đồng, tu dưỡng cá
nhân, tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo... vẫn cần được khai thác phát huy
với hướng gạn đục khơi trong, nối tiếp truyền thống nhằm góp phần tích cực


10

vào công cuộc xây dựng đất nước ngày một phát triển nhanh và bền vững.
Trong quá trình phân tích, các tác giả cũng nhận định rằng Nho giáo khi vào
Việt Nam không còn giữ nguyên như ở Trung Quốc mà nó đã được “Việt
Nam hóa”.
Công trình Đến hiện tại từ truyền thống của Trần Đình Hượu, Nxb.
Văn hóa, 1995, tập hợp những bài viết của tác giả về Nho giáo và sự tác động
của chúng đối với truyền thống văn hóa Việt Nam. Công trình gồm 2 phần:
Phần đầu là tập hợp các bài viết bàn về nghiên cứu Nho giáo; nghiên cứu các
hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo từ góc độ lịch sử tư tưởng và đạo đức học; Nho
giáo và Nho học ở Việt Nam, vài vấn đề về đặc điểm và vai trò của nó trước
thực tế phát triển thời cận và hiện đại. Phần thứ hai, nghiên cứu những ảnh
hưởng của Nho giáo vào gia đình truyền thống Việt Nam, vấn đề gia đình
trước những thử thách của công cuộc hiện đại hóa đất nước. Công trình đem
đến cho người đọc một cách đánh giá, nhìn nhận văn hóa truyền thống, coi
văn hóa truyền thống như một sinh mệnh sống tồn tại và không ngừng ảnh
hưởng và coi việc xây dựng văn hóa cho hiện tại và tương lai là không tách
rời truyền thống, có nguồn mạch từ truyền thống.
Các công trình như: Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1994 cũng phân tích những nội dung cơ bản của Nho
giáo, những đóng góp của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam; Nho giáo
tại Việt Nam của Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

1994 đã đề cập đến sự phát triển của Nho giáo trong lịch sử Vịêt Nam, vị trí
và vai trò, những ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam; Nho học ở Việt
Nam - giáo dục và thi cử của Nguyễn Thế Long, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
1995, trình bày quá trình phát triển của giáo dục Nho học, những nội dung và
việc thi cử Nho học trong xã hội phong kiến Việt Nam; Đức trị và pháp trị
trong Nho giáo của Vũ Khiêu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, phân tích
những ảnh hưởng và vai trò của tư tưởng Nho giáo đối với việc cai trị đất
nước dưới thời phong kiến; Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối


11

với con người Việt Nam hiện nay hay Nho học và Nho học ở Việt Nam của
cùng tác giả Nguyễn Tài Thư, xuất bản tại Hà Nội, 1997, đề cập đến các vấn
đề về Nho giáo, Nho học trong lịch sử và hiện tại Trung Quốc, khái quát
những nội dung cơ bản của Nho giáo, vai trò và ảnh hưởng của nó đối với xã
hội và con người Việt Nam; Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn
Đăng Duy, Nxb. Hà Nội, 1998, nói đến một số nội dung cơ bản của Nho giáo
và sự ảnh hưởng của nó tới các lĩnh vực trong đời sống văn hóa Việt Nam;
Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh
Mệnh của Nguyễn Hoài Văn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 đã cho ta
cái nhìn tổng thể về lịch sử tư tưởng chính trị Nho giáo từ Lê Thánh Tông đến
Minh Mệnh, đi sâu vào các quan điểm chính trị và các vấn đề liên quan đến
đạo trị nước của Nho giáo một cách hệ thống; Học thuyết chính trị - xã hội
của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Bình,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, đã cho người đọc thấy được giá trị
lịch sử cũng như ảnh hưởng của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo
trong xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, đặc
biệt là trong việc hình thành nên đường lối đức trị, xây dựng và thực thi pháp
luật, kiến tạo và triển khai nền giáo dục khoa cử…

3. Hướng nghiên cứu về việc kế thừa các giá trị của Nho giáo trong
sự nghiệp đổi mới. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này co công trình Nho
giáo và phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, Nxb. Khoa học xã hội, 1997 đã
đề cập đến sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, trong đó có
những đánh giá về vai trò của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam, đồng thời chỉ
ra kinh nghiệm vận dụng Nho giáo của các nước Nhật Bản, Singapore và đặt
vấn đề về sự khai thác Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Bên cạnh
đó, vấn đề này cũng thể hiện rải rác trong các công trình của Lê Sỹ Thắng, Vũ
Khiêu, Trần Đình Hượu... hoặc tập trung trong một số bài viết trên tạp chí
Triết học của cac tác giả như Nguyễn Tài Thư với Nho giáo và sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, số 5, tháng 5 - 2002;


12

Nguyễn Trọng Chuẩn với bài Khai thác các giá trị truyền thống Nho học
phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hoá, số 4, tháng 4
- 2002; Minh Anh với bài Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo, số 8,
tháng 11 - 2001... Nhìn chung, các tác giả bước đầu đặt vấn đề phải kế thừa di
sản Nho giáo, song kế thừa yếu tố nào, kế thừa như thế nào còn là vấn đề bỏ
ngỏ, mặt khác còn nhiều ý kiến tranh luận chưa thống nhất.
Tóm lại, nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam là vô cùng
phong phú, tuy nhiên, những công trình nói trên chỉ chú ý đến những sự kiện
lịch sử đánh dấu biến đổi của Nho giáo khi du nhập Việt Nam, đến tư tưởng ở
một số nhà nho và ảnh hưởng của nó ở xã hội phong kiến Việt Nam về đạo
đức, giáo dục,... hoặc bước đầu nêu ra một số đặc điểm của Nho giáo ở Việt
Nam chứ chưa nghiên cứu quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam với
tính cách là sự chuyển đổi tư tưởng qua các giai đoạn, với những đặc điểm và
ý nghĩa lịch sử từ quá trình đó. Trên cơ sở kế thừa thành quả của những nhà
nghiên cứu đi trước, luận án đưa ra những phân tích và nhận định từ góc độ

triết học về quá trình du nhập của Nho giáo Việt Nam từ đầu Công nguyên
đến thế kỷ XIX.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ được bản chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch
sử của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ
XIX.
Để đạt được mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
- Khái quát về học thuyết Nho giáo và những điều kiện cho sự du
nhập của Nho giáo vào Việt Nam;
- Trình bày, phân tích các giai đoạn và những nội dung tư tưởng trong
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam;
- Nhận diện những đặc điểm cơ bản của quá trình du nhập Nho giáo
vào Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra một số ý nghĩa lịch sử từ quá trình ấy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án


13

Về đối tượng nghiên cứu, luận án không đi sâu nghiên cứu về Nho giáo
Trung Quốc hay về vai trò và những ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử
Việt Nam, đồng thời không xem xét Nho giáo ở góc độ tôn giáo hay giáo dục,
xã hội... mà luận án tập trung tìm hiểu quá trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam ở góc độ triết học, trong đó cố gắng phân tích, làm rõ những
chuyển biến của Nho giáo trong quá trình truyền bá và tiếp nhận ở Việt Nam
nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình đó. Những chuyển biến của Nho giáo
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam được luận án xem xét như một quá trình lâu
dài với nhiều giai đoạn khác nhau, từ nhiều khía cạnh như mục đích, cách
thức truyền bá hay mục đích, cách thức tiếp nhận, nội dung, đặc điểm... Cần
phải nói thêm là, những đặc điểm mà luận án nêu ra cũng không phải đặc
điểm của Nho giáo Việt Nam hay Nho Việt như nhiều công trình nghiên cứu

đã đưa ra mà luận án chỉ chú trọng vào đặc điểm của quá trình du nhập Nho
giáo vào Việt Nam. Xuất phát từ mục đích tìm hiểu được đặc điểm, ý nghĩa
lịch sử từ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam thông qua những
chuyển biến của nó trong lịch sử, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề
tài là từ đầu Công nguyên cho đến cuối thế kỷ XIX tức là từ khi Nho giáo bắt
đầu du nhập Việt Nam đến khi Nho giáo dần trở nên suy tàn và đánh mất đi vị
trí, vai trò của nó trước bối cảnh lịch sử mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Quá trình du nhập văn hóa, tư tưởng, tôn giáo là một hiện tượng văn
hóa - xã hội có tính tất yếu và phổ quát, quá trình này không chỉ diễn ra ở Việt
Nam mà còn diễn ra ở tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong đó, quá trình du
nhập Nho giáo vào Việt Nam là một hình thức đặc thù của sự du nhập văn
hóa, tư tưởng, tôn giáo nói chung. Quá trình này thể hiện sự tác động biện
chứng, mối liên hệ mang tính bản chất, tất yếu giữa yếu tố truyền bá và yếu tố
tiếp nhận. Chính vì vậy, đề tài luận án trước hết dựa trên cơ sở thế giới quan
và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử để lý giải những điều kiện, nguyên nhân của quá trình Nho giáo du


14

nhập Việt Nam cũng như bản chất của mối liên hệ giữa hai yếu tố truyền bá
và tiếp nhận trong quá trình du nhập. Để thấy được những đặc điểm và rút ra
ý nghĩa lịch sử cũng như bài học từ sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam như
một quá trình đặc thù trong quá trình du nhập văn hóa, tư tưởng, tôn giáo vào
Việt Nam nói chung, luận án tiếp cận vấn đề dưới góc độ triết học tôn giáo,
đồng thời sử dụng các lý thuyết chung về tiếp biến văn hóa (Acculturation
Theory), chuyển đổi tư tưởng (Ideological conversion theory) mà nhiều công
trình khoa học đã đề cập.
Về mặt phương pháp nghiên cứu, phương pháp liên ngành là phương

pháp nổi bật trong công trình này vì đối tượng, phạm vi nghiên cứu và cách
tiếp cận vấn đề đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tư liệu từ nhiều lĩnh vực: lịch sử, văn
hóa, văn học, tôn giáo học,... Bên cạnh phương pháp liên ngành, luận án cũng
thường xuyên sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh,
logic - lịch sử, diễn dịch - quy nạp để tìm tòi và lý giải các khái niệm, sự khác
biệt giữa các giai đoạn trong việc truyền bá và tiếp nhận Nho giáo ở Việt
Nam, đặc điểm của từng giai đoạn cũng như đặc điểm chung của toàn bộ quá
trình du nhập đó, trên cơ sở đó mà rút ra những ý nghĩa lịch sử của nó như là
tính quy luật cho sự tiếp nhận một học thuyết ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, trên cơ sở tham khảo tài liệu của các nhà nghiên
cứu đi trước về đề tài Nho giáo, luận án muốn góp phần làm rõ thêm quá trình
du nhập của Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX ở
góc độ triết học thông qua những phân tích về các giai đoạn, những nhận định
về đặc điểm của quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam cũng như về ý
nghĩa và bài học lịch sử của quá trình du nhập Nho giáo nói riêng, du nhập
một học thuyết nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài giúp người đọc nhận thức rõ hơn về vấn đề
tiếp thu và biến đổi Nho giáo của người Việt trong lịch sử, làm cơ sở cho
những nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam nói riêng, về tư tưởng, văn hóa


15

Việt Nam nói chung đặc biệt là khi văn hóa trở thành mục tiêu, động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội như ở nước ta hiện nay. Luận án có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho những sinh viên, học viên cao học không chuyên
ngành và chuyên ngành Triết học, những người quan tâm đến lĩnh vực lịch sử
tư tưởng Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
7. Cái mới của luận án

Thứ nhất, trên cơ sở khái quát những điều kiện cho sự du nhập của
Nho giáo vào Việt Nam cũng như trình bày quá trình Nho giáo du nhập Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử, luận án phân tích đặc điểm của quá trình du
nhập Nho giáo vào Việt Nam để thấy được sự thay đổi của Nho giáo nói
riêng, một tư tưởng nói chung khi thâm nhập một nền văn hóa mới và sự bản
địa hóa của người Việt đối với Nho giáo cũng như các học thuyết, tư tưởng
khác để làm phong phú và sâu sắc thêm cho nền văn hóa của chính mình.
Thứ hai, luận án đề xuất một số ý nghĩa lịch sử rút ra từ việc nghiên
cứu quá trình du nhập cua Nho giáo vao Việt Nam làm cơ sở cho việc tiếp thu
các tư tưởng, học thuyết, tôn giáo nói chung trong bối cảnh giao lưu văn hóa
rộng mở của xu thế toàn cầu hóa ngày nay.
8. Kết cấu của luận án
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ đã nêu, ngoài phần mở đầu, phần
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành ba chương,
sáu tiết và mười sáu tiểu tiết.


16

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN
CHO SỰ DU NHẬP CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT NHO GIÁO

1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo
Nho giáo 儒教 được hiểu như hệ thống giáo lý của các nhà nho nhằm
mục đích tổ chức xã hội một cách hiệu quả. Theo Hán tự, chữ “nho” 儒 bắt
nguồn từ chữ “nhân”人 (người) đứng cạnh chữ “nhu” 需 (cần dùng, chờ đợi)
và như vậy, chữ “nho” bao hàm hai nghĩa: nghĩa thứ nhất, “nho” tức là người
mà xã hội cần để giúp người giúp đời; nghĩa thứ hai “nho” là người học thấu

đạo thánh hiền chờ đợi đem tài trí giúp đời. Nho giáo đưa lên hàng đầu việc tu
thân và giáo hóa con người bằng hệ thống các quan niệm quy phạm đạo đức
làm nền tảng cho hành vi ứng xử của con người trong mối quan hệ vua - tôi,
cha - con, chồng - vợ, nhằm mục đích ổn định trật tự xã hội. Cơ sở tri thức
của Nho giáo được hình thành từ trước thời Xuân Thu. Nhà nho khi đó được
gọi là “sỹ”, chuyên học văn chương và lục nghệ, góp phần trị vì đất nước.
Đến thời mình, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức trước
đây thành học thuyết chính trị - đạo đức nổi tiếng, gọi là Nho giáo.
* Nho giáo thời kỳ Tiên Tần
Nho giáo thời kỳ Tiên Tần còn được gọi là Nho giáo nguyên thủy hay
Nho giáo Khổng - Mạnh, do Khổng Tử khởi xướng và sau này được phát triển
bởi học trò của ông là Mạnh Tử. Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên) tên
là Khâu, tự là Trọng Ni, người làng Xương Bình, nước Lỗ (nay gần Ni Sơn,
đông nam huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Ông xuất thân
trong một gia đình quý tộc sa sút vào thời đại mà đấu tranh xã hội đang trở
nên gay gắt, pháp chế, ý thức truyền thống Tây Chu tuy bắt đầu bị lung lay
nhưng vẫn còn giữ địa vị chính thống. Từ trẻ, Khổng Tử đã dốc lòng cho việc


17

học và cũng từng được mời ra làm quan trong một thời gian ngắn nhưng vì
thấy chính quyền nước Lỗ suy thoái nên ông đã bỏ đi chu du thuyết khách các
nước chư hầu để thực hiện rộng rãi chủ trương nhân trị, khôi phục chế độ tông
pháp nhà Chu đã suy vong, mong được vua quan các nước này thực hiện
đường lối chính trị của mình. Nhưng sau nhiều năm truyền bá học thuyết của
mình ông vẫn không đạt được ý nguyện, không được trọng dụng. Vì thế,
trong quãng đời còn lại, ông trở về nước Lỗ chuyên tâm dạy học trò, san định
sách Thi, Thư, hiệu đính Lễ, Nhạc, giải thích sách Dịch đời trước, biên soạn
sách Xuân Thu. Các sách này đến đời Tống đã được hệ thống hóa lại và xem

như là kinh điển của Nho gia, gọi là Lục kinh, nhưng vì kinh Nhạc bị thất lạc,
chỉ còn một ít được chép vào kinh Lễ thành một thiên gọi là Nhạc kí, cho nên
Lục kinh sau là Ngũ kinh. Xuất phát từ Kinh Dịch - một bộ sách nghiên cứu sự
biến hóa của âm dương để giải thích sự vận hành của vũ trụ và những biến đổi
lành, dữ trong cuộc sống của con người, Khổng Tử cho rằng, vạn vật vũ trụ
luôn sinh thành, biến hóa không ngừng do sự tương tác giữa âm và dương
trong đạo “trung hòa” của nó. Đạo này chi phối sự sống của vạn vật, con
người không thể chống lại, gọi là “thiên mệnh”. Ông vừa tin vào mệnh trời
vừa nhấn mạnh nỗ lực của con người, vừa khẳng định sự tồn tại của quỷ thần
đồng thời cổ vũ hoạt động của con người trong thực tế cuộc sống. Về mặt
chính trị - xã hội, Khổng Tử đề cao nguyên tắc “chính danh định phận”, xác
định rõ vai trò của con người trong các mối quan hệ đó, chủ trương trị nước
bằng nhân trị với quan điểm “vi chính dĩ đức”, “khắc kỷ phục lễ” nhằm bảo
vệ lợi ích giai cấp quý tộc chủ nô. Về mặt đạo đức, Khổng Tử đề cao lên trên
hết là chữ “nhân”, coi đó là cái gốc của bản tính con người. Muốn đạt được
“nhân”, theo ông, con người phải có “trí” và “dũng” để hiểu biết và hành
động hợp với “thiên lý”. Trong vấn đề giáo dục, Khổng Tử một mặt nhấn
mạnh “tính tương cận”, “hữu giáo vô loại”, chủ trương giáo dục đạo lý, nhân
nghĩa để đào tạo ra mẫu người lý tưởng cho xã hội nhưng mặt khác lại phân


18

chia con người ra thành “thượng trị” và “hạ ngu” tương ứng với hai hạng
người khác nhau trong xã hội: quân tử, giai cấp quý tộc và nhân dân lao động.
Có thể thấy, tư tưởng Khổng Tử chứa đựng nhiều mâu thuẫn, đan xen giữa
khuynh hướng duy vật và duy tâm, giữa tiến bộ và bảo thủ.
Các học trò của Khổng Tử trong đó nổi bật là Mạnh Tử (Mạnh Kha,
372-289 TCN) đã phát triển học thuyết của ông theo chiều hướng duy tâm, và
Tuân Tử (Tuân Huống, 325-328 TCN) phát triển nó theo chiều hướng duy

vật. Tư tưởng Mạnh Tử mang nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất là trong
quan niệm về tự nhiên, về lịch sử xã hội cũng như về luân lý, đạo đức (thực
chất đó là sự phản ánh lợi ích của giai cấp quý tộc thống trị đương thời),
nhưng những tư tưởng như “nhân chính”, “bảo dân”… trong học thuyết về
chính trị xã hội lại mang ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát
triển của lịch sử xã hội. Những tư tưởng này của ông được các học trò tập
hợp, biên soạn lại tạo thành bộ sách Mạnh Tử nổi tiếng. Với 7 thiên (thượng
và hạ), gồm: Lương Huệ Vương, Công Tôn Sửu, Đằng Văn Công, Ly lâu, Vạn
Chương, Cáo Tử, Tận tâm, sách Mạnh Tử thể hiện rõ thuyết “nhân chính”,
“tính thiện” của Mạnh Tử trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng “nhân” của
Khổng Tử, nêu cao tư tưởng “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của
Mạnh Tử (Mạnh Tử, Tận tâm hạ, tiết 14), cho rằng vua chúa nếu không được
nhân dân ủng hộ thì chính quyền trước sau cũng tan vỡ. Đồng thời, còn đưa ra
chủ trương khôi phục lại chế độ tỉnh điền, đòi bọn quý tộc thủ cựu giảm bớt
thu thuế, bớt dùng những hình phạt tàn khốc, để cho dân có sản nghiệp riêng,
cải thiện đời sống kinh tế của dân. Về mặt luân lý - đạo đức, sách này còn nêu
lên học thuyết “tính thiện”. Nội dung học thuyết khẳng định “nhân, nghĩa, lễ,
trí gốc ở tâm”, quan niệm đạo đức là trời phú cho, những quy tắc đạo đức bắt
nguồn từ ý thức và tình cảm tiên thiên của con người, “không cần học mà hay,
không cần nghĩ mà biết” gọi là “lương năng, lương tri”, “tiên tri, tiên giác”
(nhân chi sở bất học nhi năng giả kỳ lương năng dã, sở bất lự nhi tri giả, kỳ


19

lương tri dã) (Mạnh Tư, Tận tâm thượng, tiết 15). Sách Mạnh Tử còn nhấn
mạnh, ý chí chủ quan, “tâm” chi phối “khí”, xuyên tạc học thuyết duy vật chủ
nghĩa về “khí”, cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan
“vạn vật đều có đầy đủ trong ta”, mọi người không cần phải đi tìm chân lý ở
ngoài thế giới vật chất khách quan mà chỉ cần phát huy cái quy tắc đạo đức

nội tâm - “tận tâm” thì có thể biết được ý của trời -“tri thiên”. Sách Mạnh Tư
được lưu truyền rộng rãi, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội đương thời, sau
này, được xếp vào hàng Tứ thư của Nho giáo, trở thành kinh điển có tính chất
bắt buộc của xã hội và các phần tử trí thức phong kiến, được các học phái
Nho gia đời sau kế thừa và phát triển mạnh mẽ.
* Nho giáo thời kỳ Lưỡng Hán
Đến thời Hán, một nhà tưởng nổi tiếng nhất của Nho gia đương thời,
vừa là đại biểu tư tưởng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyến
chế nhà Hán là Đổng Trọng Thư (179 TCN-104 TCN) đã phát triển Nho của
Khổng - Mạnh theo hướng duy tâm thần bí và tăng thêm tính đẳng cấp nhiệt
ngã gọi là Hán Nho. Trên cơ sở học thuyết “thiên mệnh” của Nho Khổng Mạnh kết hợp với thần học “sấm vĩ”, Đổng Trọng Thư khẳng định ý chí chi
phối của trời đối với mọi thứ từ trật tự tự nhiên, trật tự xã hội, cho đến thân
thể, ý thức và tính tình của con người. Quyền lực của vua là do trời trao cho
để cải thiện bản tính của dân chúng, gọi là “vương quyền thần thụ”. “Tính”
con người do trời phú cho, có ba loại thượng, trung, hạ gọi là “tính tam
phẩm”. Đổng Trọng Thư đưa ra các thuyết “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân
cảm ứng”, “thiên nhân tương dữ”, “thiên bất biến đạo diệc bất biến” để biện
hộ cho sự tồn tại hợp lý của chế độ phong kiến đương thời. Đặc biệt, tư tưởng
của ông về “tam cương ngũ thường”, “ngũ luân”, “dương tôn âm ti”, trong đó
đề cao tính dương gắn với thứ bậc bề trên như vua, cha, chồng... trong các
mối quan hệ xã hội tương ứng, đã trở thành các quy phạm chính trị - đạo đức
chính thống bảo vệ trật tự đẳng cấp của chế độ phong kiến Trung Hoa trong


20

suốt hai ngàn năm. Ông cũng đưa ra lý luận về lịch sử mang tính tuần hoàn
luận và duy tâm chủ nghĩa, khẳng định sự bất biến của trật tự “cương thường”
qua các triều đại. Vua Hán Vũ Đế đã đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và
dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Điểm khác biệt so với

Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị,
dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”. Nho giáo đời Hán đã được Đổng Trọng
Thư nhào nặn và hệ thống hóa theo quan điểm thần học, trở thành một trào
lưu tư tưởng phản động thống trị đời sống tinh thần xã hội phong kiến thời
Lưỡng Hán. Thời kỳ này, một số nhà nho đã bỏ công biên soạn bộ sách Lễ ký
công phu tập hợp các bản văn luận về “lễ” của các Nho gia từ thời Tiên Tần
đến đầu đời Hán với 49 thiên trong đó có thiên Đại học và Trung dung, mà từ
nhà Tống về sau được tách ra thành sách và xếp vào hàng Tứ thư.
Nội dung chủ yếu của Đại học là trình bày những luận giải về tính hay
bản tính con người, đồng thời tuyên truyền cho thuật thống trị, cách tu dưỡng
rèn luyện về đạo đức, tri thức, thái độ tu thân, đối nhân xử thế của bậc quân
tử. Theo Đại học, cái đạo của bậc đại học là ở chỗ làm cho sáng cái đức sáng,
ở chỗ thân yêu người, đạt đến cái chí thiện mới thôi. Đại học cũng chủ trương
“tám điều mục”: “cách vật, trí tri, chính tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Theo đó, chủ đích sự học của một người là đem cái đức sáng
của trời phú cho mà sửa mình hoàn toàn rồi mới trị được người. Muốn sửa
mình thì phải cách vật, chính tâm, thành ý và trí tri, đó chính là phương pháp
tu thân. Khi sửa được mình, tất tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ,
đó chính là công hiệu của sự tu thân. Cho nên đạo làm người thì tu thân, sửa
mình là quan trọng nhất, do vậy mà “từ đấng thiên tử cho đến kẻ thứ dân, ai
cũng phải lấy sự sửa mình làm gốc. Cái gốc loạn mà cái ngọn trị thì chưa có
vậy, cái gốc mình đáng hậu mà bạc, cái ngọn mình đáng bạc mà hậu, là chưa
có bao giờ” (Đại học).


×