Tải bản đầy đủ (.pdf) (229 trang)

Quản lý hoạt động truyền hình từ góc nhìn văn hóa đại chúng nghiên cứu trường hợp đài truyền hình thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 229 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------

TRƯƠNG VĂN MINH

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN HÌNH
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ĐẠI CHÚNG
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐÀI TRUYỀN HÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)
CHUYÊN NGÀNH

: VĂN HÓA HỌC

MÃ SỐ

: 62.31.70.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
1. TS. NGUYỄN VĂN HIỆU
2. TS. HUỲNH VĂN THÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết


quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận án

TRƯƠNG VĂN MINH


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN HÌNH (TRƯỜNG HỢP HTV) TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ĐẠI CHÚNG ..... 16
1.1.Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 16
1.2. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................... 33
Chương 2: QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ PHÁT SÓNG NỘI DUNG CỦA
HTV TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ĐẠI CHÚNG ............................................................. 48
2.1. Thực tiễn nhu cầu tiếp nhận của khán giả trên địa bàn TP. HCM từ góc nhìn văn
hóa đại chúng .................................................................................................................. 48
2.2. Quản lý sản xuất và phát sóng các nội dung đáp ứng nhu cầu thông tin ................. 59
2.3. Quản lý sản xuất và phát sóng các nội dung đáp ứng nhu cầu tự khẳng định bản
thân – truyền hình thực tế ............................................................................................ 64
2.4. Quản lý sản xuất và phát sóng các nội dung đáp ứng nhu cầu giao tiếp và gắn kết xã
hội – phim truyện truyền hình ...................................................................................... 77
2.5. Chuyển biến trong quản lý hoạt động sản xuất và phát sóng nội dung của HTV
hướng đến nhu cầu của khán giả .................................................................................. 88
Chương 3: QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ VIỆC SẢN XUẤT VÀ PHÁT
SÓNG NỘI DUNG CỦA HTV TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ĐẠI CHÚNG .................... 99
3.1. Quản lý hoạt động liên kết sản xuất (“xã hội hóa”) nội dung của HTV .................. 99
3.2. Quản lý quy hoạch và phát triển hạ tầng kỹ thuật công nghệ ............................... 112

3.3. Quản lý dịch vụ truyền hình ................................................................................ 117
3.4. Quản lý phát triển nguồn nhân lực ...................................................................... 123
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG TRUYỀN HÌNH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN HÌNH ......................... 128
4.1. Các yếu tố tác động tới nhu cầu và thái độ tiếp nhận của khán giả ....................... 128
4.2. Dự báo xu hướng vận động của ngành truyền hình Việt Nam.............................. 132
4.3. Khuyến nghị các giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động truyền hình . 144
KẾT LUẬN................................................................................................................... 163
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………… 170
PHỤ LỤC………………………………………………………………………………. 177


CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

Viết tắt

Đầy đủ tiếng Việt

Bộ TT&TT

Bộ Thông tin – Truyền thông

DVB-T2

Công nghệ truyền hình số mặt đất chuẩn T2

HTV

Đài Truyền hình TP. HCM


IPTV

Công nghệ truyền hình qua giao thức Internet

OTT

Ứng dụng truyền dẫn nghe-nhìn trên Internet

PTTH

Phim truyện truyền hình

PTTHHQ

Phim truyện truyền hình Hàn Quốc

PTTHVN

Phim truyện truyền hình Việt Nam

SFN

Phát sóng kỹ thuật số mặt đất đơn tần

THTT

Truyền hình thực tế

TP. HCM


Thành phố Hồ Chí Minh

VHĐC

Văn hóa đại chúng

VOD

Xem video theo yêu cầu

VTC

Đài Truyền hình Kỹ thuật số

VTV

Đài Truyền hình Việt Nam

XHH

Xã hội hóa

XHHSXCTTH

Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình


DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ HÌNH CHỤP TRONG LUẬN ÁN
Trang
Hình 1. 1: Mô hình quản lý truyền hình “Ba chủ thể” ........................................... 23

Hình 1. 2: Tháp nhu cầu của Maslow .................................................................... 29
Hình 1. 3: Sơ đồ mô hình “Mã” của Stuart Hall ................................................... 31
Hình 1. 4: Khán giả là tập hợp đa dạng các bộ giải mã tín hiệu ............................ 32
Hình 1. 5: Sơ đồ tổ chức của HTV ......................................................................... 41
Hình 1. 6: Tỉ lệ khán giả TP.HCM theo dõi truyền hình qua các nguồn truyền dẫn
(Nguồn: Đài Truyền hình TP.HCM, 2012) ............................................................ 43
Hình 1. 7 : Tỉ lệ khán giả TP. HCM theo dõi truyền hình qua các nguồn truyền dẫn
(Nguồn: Công ty TNS Vietnam, 2012) .................................................................. 43
Hình 1. 8: Mô hình hoạt động của HTV theo phương thức truyền thông một chiều
trước đổi mới ......................................................................................................... 44
Hình 1. 9: Mô hình hoạt động của HTV hiện nay theo hướng mở .......................... 45
Hình 2.1: Tỷ lệ khán giả TP.HCM với nhu cầu xem truyền hình cụ thể …………...51
Hình 2.2: Tương quan về tỷ lệ% khán giả dịch chuyển giữa HTV7 và các kênh
truyền hình khác .................................................................................................... 52
Hình 2.3: Biểu đồ chỉ số “rating” % của một số kênh truyền hình dẫn đầu tại thị
trường TP.HCM vào các khung giờ khác nhau trong ngày .................................... 58
Hình 2.4: “Rating” % của “Chương trình 60 giây” ............................................ 61
Hình 2.5: Chương trình “Phút giây cảnh giác” có chỉ số khán giả theo dõi cao
nhất vào chiều Chủ nhật ........................................................................................ 63
Hình 2.6: So sánh thị phần một số kênh truyền hình hàng đầu tại TP.HCM ........... 89
Hình 2.7: So sánh “rating”% của hai chương trình THTT phát sóng cùng giờ ...... 94
Hình 2.8: Sự gia tăng thị phần của HTV7 và HTV9 tại thị trường TP.HCM vào
đầu năm 2014……………………………………………………………………………….96
Hình 2.9: So sánh thói quen mở kênh (AvRch%) và tình trạng theo dõi (Rtg%)
của khán giả HTV7 trong 5 tháng đầu năm 2014…………………………………97
Hình 3.1: Sơ đồ kinh tế - văn hóa của hoạt động XHHSXCTTH……………..........106


Hình 3.2: Cấu trúc hoàn chỉnh, đơn giản và tiện ích của hệ thống Internet trên
truyền hình cáp……………………………………………………………………116

Hình 3.3: Mức đầu tư bằng quảng cáo (đơn vị USD) trên các kênh truyền hình
dẫn đầu tại thị trường TP.HCM 8 tháng đầu năm 2013…………………………119
Hình 4.1: Tỷ lệ khán giả truyền hình Mỹ tiếp nhận truyền thông khác cùng lúc
với truyền hình……………………………………………………………………129
Hình 4. 2: Mức độ tăng trưởng của quảng cáo trên truyền hình…………………141
Hình 4. 3: Việc can thiệp bằng mũi chích trực tiếp thường gây e ngại nhiều hơn
việc hòa trộn thuốc đặc trị vào dịch truyền (hình mang tính minh họa)…………146
Hình 4. 4: Mô hình “mở”,“động” và “thông” được đề xuất để quản lý hoạt động
HTV........................................................................................................................153


DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 2. 1: So sánh “rating” một số chương trình truyền hình thực tế được
phát sóng tại thị trường TP.HCM .......................................................................... 68
Bảng 2. 2: Tỉ lệ phim truyện truyền hình Hàn Quốc trên sóng HTV từ 2004 đến
2013 ...................................................................................................................... 85
Bảng 3. 1: Danh sách 10 buổi phát sóng chương trình cụ thể đạt “rating” %
cao nhất trong 8 tháng đầu năm 2013 ................................................................. 105
Bảng 3. 2: So sánh doanh thu của HTV và số lượng các chương trình
xã hội hóa ............................................................................................................ 106
Bảng 3. 3: Hiệu quả tài chính của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình
truyền hình của HTV ........................................................................................... 110
Bảng 3. 4: Mức độ thâm nhập của truyền hình trả tiền tại Việt Nam vào
năm 2013............................................................................................................. 118


1

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Từ khi ra đời đến nay, truyền hình đã cho thấy vị trí và tầm quan trọng của
nó trong lĩnh vực truyền thông, trong đó có việc đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của đại đa số quần chúng. Ở Việt Nam, từ sau đổi mới (1986)
đến nay, truyền hình có những bước phát triển mạnh mẽ gắn với những chuyển biến
sâu sắc trong đời sống văn hóa cộng đồng dân cư, nhất là tại các thành phố lớn.
Nắm bắt được nhu cầu hưởng thụ văn hóa và thị hiếu của công chúng, ngành
truyền hình Việt Nam đã đưa ra nhiều chương trình và thể loại chương trình được
đông đảo khán giả quan tâm theo dõi, ủng hộ và cũng nhận được từ công chúng
những phản hồi, những xu hướng hưởng thụ văn hóa có tác dụng điều chỉnh trong
việc hoạch định chiến lược và quản lý hoạt động truyền hình. Truyền hình đã có
nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế trên khía cạnh bảo
vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Truyền hình đã thực hiện
tương đối tốt chức năng tuyên truyền, thông tin nhưng vẫn còn nhiều khiếm khuyết
khi phản ánh thực tiễn cũng như định hướng cho văn hóa đại chúng. Trong quản lý
cũng như trong dư luận xã hội, cách hiểu và nhìn nhận bản chất của truyền hình
cũng còn nhiều khác biệt.
Xét từ khía cạnh văn hóa đại chúng (VHĐC), mặc dù thái độ của công chúng
đối với truyền hình có thể là tán thưởng hay phê phán, nhưng nhìn chung thường
theo hai hướng chính: mong muốn truyền hình phát huy mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực. Việc quản lý truyền hình vì vậy đòi hỏi sự công bằng, khách quan và
khoa học, hướng tới việc dung hòa những mục tiêu mang tính đối lập, mâu thuẫn từ
những góc nhìn khác nhau. Qua Luận án “Quản lý hoạt động truyền hình từ góc
nhìn Văn hóa đại chúng (Nghiên cứu trường hợp Đài Truyền hình TP. HCM)”,
chúng tôi mong nhận diện được tính đại chúng của truyền hình qua các thông điệp
đa dạng được chuyển tới khán giả, từ đó góp phần vào việc quản lý các hoạt động


2


truyền hình một cách có hiệu quả, để cho truyền hình Việt Nam vừa góp phần xây
dựng đất nước trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa thỏa mãn nhu cầu
thông tin, học tập và giải trí lành mạnh của đại đa số quần chúng khán giả.
2.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa VHĐC và việc quản lý hoạt động
truyền hình, tác giả thực hiện luận án hướng tới những mục đích sau đây:
Một là, góp phần bổ sung một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu quản lý
hoạt động truyền hình ở Việt Nam gắn liền với thái độ và nhu cầu của khán giả dưới
tác động của VHĐC.
Hai là, tìm ra những thành công và hạn chế trong hoạt động quản lý truyền
hình ở Việt Nam hiện nay, qua đó cho thấy tầm quan trọng của mối quan hệ giữa
quản lý hoạt động truyền hình và VHĐC.
Ba là, dự báo được xu hướng phát triển của môi trường truyền thông ảnh
hưởng đến VHĐC và tác động làm thay đổi thái độ và nhu cầu của khán giả truyền
hình, từ đó khuyến nghị những giải pháp nhằm cải tiến và đổi mới phương thức
quản lý hoạt động truyền hình cho phù hợp với sự phát triển.
3.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, đặc biệt tại các nước phương Tây, truyền hình với cách hiểu là
phương tiện truyền thông của VHĐC và là một hợp phần của VHĐC được giới
nghiên cứu quan tâm từ lâu, trở thành một phân ngành trong khoa học báo chítruyền thông, nghiên cứu xã hội học và nghiên cứu văn hóa học. Thậm chí truyền
hình ra đời đã thúc đẩy việc hình thành một trào lưu nghiên cứu VHĐC. Trong khi
đó, VHĐC được hình thành từ sự tác động của các phương tiện truyền thông đại
chúng lên xã hội, do đó nghiên cứu một đối tượng truyền thông từ góc nhìn VHĐC
không thể thiếu các phương pháp và quan điểm nghiên cứu của xã hội học cũng như
các lý thuyết về truyền thông (Media Theories).
Dù thịnh hành ở cuối thế kỷ XIX hay phổ biến ở đầu thế kỷ XXI, các quan
điểm về truyền thông đại chúng (bắt nguồn từ báo in và đang gây sốt với Internet)
nhìn chung cũng luôn ở hai nhóm cơ bản: nhóm các quan điểm phê phán và nhóm



3

các quan điểm ủng hộ. Sở dĩ nhóm phê phán được chúng tôi đặt lên trước bởi vì hầu
như xưa nay, thái độ đầu tiên của các nhà nghiên cứu trước sự xuất hiện của các
hiện tượng VHĐC (hệ quả của truyền thông đại chúng) là lo âu rồi sau đó mới xuất
hiện những quan điểm ủng hộ. Nhà xã hội học truyền thông Eric Maigret đã nhận
xét rất hình tượng rằng lịch sử nghiên cứu về truyền thông đại chúng thường trải
qua quá trình dao động từ cực này qua cực kia tương tự như chu kỳ của một con lắc,
lúc thì lên án và tố cáo, lúc thì bênh vực và ca ngợi.1
Thoạt đầu, mô hình căn bản cho quan điểm phê phán “Hiệu ứng truyền
thông” (Media Effects) mô phỏng theo “mũi kim chích” (Hypodermic Needle) hay
“viên đạn thần” (Magic Bullet), theo đó, thông điệp truyền thông có thể được “chích
thẳng vào máu” hay “bắn thẳng vào đầu” khán giả. Xuất phát từ những luận điểm
của các nhà khoa học theo chủ nghĩa hành vi (Behaviourism) thịnh hành trong thập
niên 1930, mô hình này tạo cái nhìn tiêu cực về truyền thông, trong đó có truyền
hình. Từ “Effect” với ý nghĩa hiệu ứng xấu cần được phân biệt rõ với
“Effectiveness” mang ý nghĩa ảnh hưởng tích cực [McQuail, Denis 2005: 554].
Trường phái “hiệu ứng” tiếp tục được bổ sung thêm nhiều nhà nghiên cứu như
Jonathan Freedman, Jerry Mander… trước sự xuất hiện của các phương tiện truyền
thông mới vào cuối thế kỷ XX.
Cùng với các học giả theo trường phái “hiệu ứng”, tất cả các nhà nghiên cứu
theo quan điểm Marxist đều dựa trên luận điểm nổi tiếng của Karl Marx và
Friedrich Engels trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845-1846), theo đó giai cấp
nào là lực lượng thống trị trong xã hội, chi phối những tư liệu sản xuất thì cũng là
lực lượng tinh thần thống trị, chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, là
những người sản xuất ra tư tưởng, điều tiết sự sản xuất và sự phân phối những tư
tưởng của thời đại họ đang sống. Từ luận điểm này, các học giả thuộc trường phái
“hiệu ứng” cho rằng VHĐC là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản nhằm mang lại sự lạc
thú cho các tầng lớp bị trị, tạo điều kiện cho họ cam chịu và quên đi thân phận của

mình. Tiêu biểu cho nhóm các học giả theo quan điểm này là trường phái Frankfurt
1

Dẫn lại theo Trần Hữu Quang 2005: 348.


4

với Theodor Adorno và Max Horkheimer. Các tác giả sau này như Herbert Schiller
với tác phẩm “Con người một chiều” (One-dimensional man) hay Herbert Schiller
trong “Truyền thông đại chúng và đế quốc Mỹ” (Mass Communications and
American Empire) đều phê phán chế độ tư bản sử dụng truyền thông đại chúng để
mê hoặc, điều khiển quần chúng trong nước và thống trị các nước thuộc thế giới thứ
ba bằng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa.
Ở phía đối lập với quan điểm phê phán, tiêu biểu cho khuynh hướng ủng hộ
truyền thông đại chúng là các học giả theo theo quan điểm chức năng luận
(Functionalism). Mặc dù quan điểm này có nguồn gốc từ các công trình nghiên cứu
xã hội học nhưng cũng được giới học giả tiếp cận trong nghiên cứu truyền thông và
VHĐC. Các lý thuyết gia tiên phong Robert Merton, Harold Lasswell, Charles
Wright, qua các công trình nghiên cứu của mình, đều đi đến kết luận là truyền thông
đại chúng luôn có những chức năng để thỏa mãn những nhu cầu của xã hội, duy trì
tính ổn định, tính liên tục của một xã hội cũng như nhu cầu hội nhập và thích nghi
của các cá nhân trong xã hội. Một trong những nhánh nghiên cứu theo quan điểm
này là lối tiếp cận “Sử dụng và Hài lòng” (Uses and Gratifications).
Giai đoạn chính thức mở đầu cho việc nghiên cứu vai trò của truyền hình
trong đời sống văn hóa xã hội là từ sau Thế chiến thứ hai đến đầu thập niên 1960,
với các tác giả điển hình là P.Lazarsfelds, B.Berelson và H.Gauder trong “Sự lựa
chọn của nhân dân” (The People’s Choice) (1948). Trong công trình này, các tác
giả quan niệm rằng truyền thông không phải là một thứ quyền lực có thể tác động
trực tiếp lên các cá nhân mà chỉ là một trong các thiết chế xã hội. Sự ứng xử của

công chúng, khán giả đối với các thông điệp truyền thông còn phụ thuộc vào các
yếu tố xã hội và văn hóa khác nhau [81].
Ngoài ra, các tác giả theo thuyết “tất định công nghệ” (Technological
Determinism), hay có người dịch là “quyết định luận kỹ thuật”, thì xã hội luôn biến
đổi bởi những phương tiện mà con người sử dụng để truyền thông với nhau hơn là
nội dung của thông điệp. Những người khai sinh ra thuyết này là nhà sử học, kinh tế
học Harold Innis và nhà triết học Herbert Marsshall McLuhan thuộc trường phái


5

Toronto (Canada), trong đó McLuhan nổi tiếng với hai phát biểu trong tác phẩm
“Hiểu truyền thông” (Understanding Media) là “Truyền thông chính là thông điệp”
và thế giới là “một ngôi làng toàn cầu”. Theo McLuhan, kỹ thuật và công nghệ
chính là sự nối dài các giác quan và hệ thần kinh của con người, do vậy những thay
đổi về công nghệ có thể dẫn tới những cách thức tri giác và nhận thức mới. Ông còn
cho rằng trong thế kỷ XX, truyền hình sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng mà trong đó
mọi người trên toàn thế giới sẽ có cơ hội gần gũi và hiểu biết nhau hơn, cùng tham
gia vào một nền văn hóa chung trong một “ngôi làng toàn cầu”.
Bắt đầu từ thập niên 1960, truyền hình phát triển mạnh tại châu Âu và Hoa
Kỳ với những thay đổi lớn trong đời sống chính trị - xã hội của các nước phương
Tây. Trong thời gian này, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa đương đại CCCS (Centre
for Comtemporary Cultural Studies) của trường Đại học Birmingham (Anh) cũng
vừa được hình thành và đã tiến hành nhiều nghiên cứu về truyền thông, trong đó có
truyền hình, gắn với các vấn đề VHĐC. Trường phái “dung hòa” do những học giả
thuộc CCCS dẫn đầu đã nhanh chóng chiếm thế thượng phong trong lĩnh vực
nghiên cứu truyền thông đại chúng. Xu hướng nghiên cứu này chịu ảnh hưởng của
trường phái Frankfurt trong cách phê phán sự thống trị về mặt văn hóa của giai cấp
thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa nhưng lại nhấn mạnh đến khả năng linh hoạt
và sáng tạo của quần chúng trong việc tiếp nhận, sử dụng các thông điệp truyền

thông và tác động trở lại, góp phần xây dựng các thông điệp phù hợp với hoàn cảnh
và nhu cầu thỏa mãn của chính họ.
Tiếp tục phát triển các nghiên cứu của những người sáng lập, trong vai trò
giám đốc CCCS, học giả Marxist người Anh Stuart Hall đã đưa ra một cách tiếp cận
mới trong việc nghiên cứu quá trình sản xuất và tiếp nhận các thông điệp truyền
thông. Mô hình “Mã”(Encoding/Decoding) của ông là phối hợp giữa “Ký hiệu học”
(Semiology), các lý thuyết về ý thức hệ ảnh hưởng lên truyền thông đại chúng trong
nghiên cứu truyền thông. Mô hình này cũng liên quan đến tính chất đa nghĩa
(Polysemy) của nội dung thông điệp truyền thông và cách tiếp nhận đa dạng của
công chúng, vì vậy có thể làm giảm bớt “hiệu ứng” của truyền thông cũng như liên


6

kết các chức năng tích cực của truyền thông. Một cách tiếp cận như vậy có khả năng
dung hòa được những mối lo âu thái quá hoặc niềm lạc quan “ngây ngô” về sức
mạnh của truyền thông đại chúng.
Từ thập niên 1970 tới nay, giới nghiên cứu đã cho ra đời nhiều lý thuyết và
phương pháp tiếp cận nghiên cứu vai trò của truyền hình trong đời sống văn hóa, xã
hội các nước phương Tây (nơi truyền hình mặc nhiên đã được coi là một hình thức
của VHĐC). Ở Anh có James Halloran với “Những hiệu ứng của truyền hình” (The
Effects Of Television) (1970), Raymond Williams (1974) và công trình “Truyền
hình, công nghệ và dạng thức văn hóa” (Television, Technology And Cultural
Form), hay John Fiske với hàng loạt nghiên cứu như “Văn hóa truyền hình”
(Television Culture) (1987), “Tìm hiểu Văn hóa đại chúng” (Understanding
Popular Culture) (1989)…Ở Mỹ, các nhà nghiên cứu cũng sôi nổi không kém, tiêu
biểu là Muriel G. Cantor đã lưu ý đến những tác động tích cực và tiêu cực của
truyền hình cũng như các biện pháp quản lý nội dung các chương trình truyền hình
trong công trình “Truyền hình giờ vàng: Nội dung và kiểm soát” (Prime-time
Television: Content and Control ) (1980), Frank J. Coppa với “Màn hình và xã hội:

Ảnh hưởng của truyền hình tới những khía cạnh của văn minh đương đại” (Screen
and Society: The Impact of Television Upon Aspects of Contemporary Civilization)
(1980)…Trong giai đoạn này, trào lưu của chủ nghĩa “hậu hiện đại” với quan niệm
không còn biên giới giữa văn hóa tinh hoa (High Culture) và VHĐC (Popular
Culture) cùng sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới như Internet, điện
thoại di động…, khiến các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý tới sự ảnh hưởng của đời
sống xã hội lên truyền hình, đặc biệt vai trò của người thụ hưởng truyền hình được
đề cao qua hai hướng tiếp cận nghiên cứu là “Sử dụng và Hài lòng” (Uses and
Gratifications) và Nghiên cứu Văn hóa (Cultural Studies), trong đó có VHĐC.
Ở các nước châu Á, việc nghiên cứu truyền hình nói chung và quản lý truyền
hình theo hướng tiếp cận VHĐC còn rất hạn chế về mặt lý thuyết, kể cả tại các
nước có truyền hình phát triển mạnh như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Đáng lưu ý là công trình của Ananda Mitra (1993) nghiên cứu về Truyền


7

hình và VHĐC ở Ấn Độ và mới đây là Beng Huat Chua, Koichi Iwabuchi (2008)
trong công trình “VHĐC các nước Đông Á: Phân tích làn sóng Hàn Quốc” (East
Asian Pop Culture: Analysing the Korean Wave) đã có những phân tích về ảnh
hưởng của phim truyền hình Hàn Quốc tới sinh hoạt văn hóa của giới trẻ và phụ nữ
trung niên một số nước trong khu vực, một hình thức “xuất khẩu VHĐC” có nguồn
gốc từ chính sách quản lý văn hóa và sản xuất các sản phẩm truyền hình của chính
phủ Hàn Quốc. Cũng trong một công trình mới nhất là “Cấu trúc, khán giả và
quyền lực mềm trong văn hóa đại chúng Đông Á” (Structure, Audience and Soft
Power in East Asian Pop Culture), Ben Huat Chua (2012), với tư cách là nhà
nghiên cứu VHĐC hàng đầu của Singapore, đã tập trung phân tích “quyền lực” của
công chúng truyền thông châu Á trong xu hướng văn hóa hội tụ ngày nay.
Tại Việt Nam, truyền hình có mặt từ cuối thập niên 1960. Mặc dù đã có gần
nửa thế kỷ hình thành và phát triển, nhưng truyền hình ở nước ta vẫn chưa được

nghiên cứu một cách có hệ thống trong mối tương quan với các khoa học chuyên
ngành nghiên cứu văn hóa. Bên cạnh đó, VHĐC chỉ mới được đặt vấn đề nghiên
cứu gần đây, cho nên các công trình khoa học có liên quan đến truyền hình và quản
lý hoạt động truyền hình (xã hội học, khảo sát thực nghiệm, báo chí học…) thường
được đặt chung trong các nghiên cứu về truyền thông đại chúng mà hướng nghiên
cứu chính cho tới nay chỉ tập trung vào công chúng - người tiếp nhận từ góc nhìn xã
hội học và và báo chí học.
Các tác giả nghiên cứu ở lĩnh vực xã hội học có Mai Quỳnh Nam (1996,
2001), Trần Hữu Quang (2000, 2006), Đỗ Nam Liên (2005). Các công trình của họ
chủ yếu thực hiện việc đo lường các mức độ và cách thức tiếp nhận truyền thông
của công chúng Việt Nam và coi đó là những yếu tố quyết định đối với hiệu quả hay
tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng. Xét về mặt quan điểm khoa
học, các nghiên cứu về tiếp nhận của công chúng truyền thông đã góp phần thay đổi
nhận thức về “hiệu ứng” của truyền thông vốn được cho là tác động một chiều đến
công chúng, đem lại cái nhìn toàn diện hơn về công chúng trong môi trường truyền
thông. Các kết quả nghiên cứu của hai tác giả Trần Hữu Quang và Đỗ Nam Liên


8

được sử dụng hầu như trong tất cả các công trình, luận án sau này liên quan đến báo
chí và truyền thông.
Về khía cạnh kinh tế học, tác giả Đinh Quang Hưng (1996) đã nêu ra những
luận điểm về sự quan trọng của các mô thức tiếp nhận của khán giả ảnh hưởng đến
chiến lược phát triển của truyền hình. Về báo chí học có Tạ Ngọc Tấn (2001),
Nguyễn Văn Dững (2002, 2006, 2007), Lê Thanh Bình (2008)…là những tác giả đi
sâu vào nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận của truyền thông đại chúng Việt
Nam, nêu bật được mối quan hệ giữa truyền thông và sự phát triển xã hội trong đó
nhấn mạnh những tác động của truyền thông đến đời sống kinh tế xã hội nước ta
trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Riêng đối với các luận án tiến sĩ báo chí học về đề tài truyền hình, số lượng
các công trình vẫn còn ít và thường không đề cập đến VHĐC cũng như mối quan hệ
giữa VHĐC và truyền hình. Trong số những công trình nghiên cứu về truyền hình,
gần đây nhất có luận án tiến sĩ “Vấn đề ‘xã hội hóa’ sản xuất chương trình truyền
hình ở Việt Nam hiện nay” của Đinh Thị Xuân Hòa (2012) và “Nghiên cứu xu
hướng phát triển của truyền hình từ góc độ kinh tế học truyền thông” của Bùi Chí
Trung (2012). Các tác giả của hai luận án này đã cập nhật các xu hướng của truyền
hình thế giới và vận dụng vào phân tích các vấn đề “thời sự” của ngành truyền hình
Việt Nam như “xã hội hóa” hoạt động sản xuất chương trình và việc hình thành thị
trường truyền thông, trong đó truyền hình tồn tại và phát triển theo cơ chế thị
trường. Mối quan hệ giữa VHĐC (gắn kết với kinh tế thị trường) và truyền hình
(một ngành kinh tế dịch vụ phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của khán giả đại
chúng) đã được các tác giả đề cập nhưng chưa nêu bật được vai trò của VHĐC
trong thị trường truyền thông cũng như sự tác động của nó đối với thực tiễn hoạt
động của ngành truyền hình.
Các công trình nêu trên nghiên cứu các lĩnh vực chuyên môn của truyền hình
có liên hệ với với nhiều bộ môn khoa học khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn còn rất
ít và hạn chế ở lĩnh vực văn hóa. Hơn nữa, việc nghiên cứu các hoạt động truyền
hình từ góc nhìn VHĐC vẫn còn mới mẻ và chưa có một công trình độc lập phân


9

tích một cách có hệ thống về truyền hình với vai trò vừa là phương tiện vừa là một
hợp phần của VHĐC. Khoảng trống này là một thực tế đầy khó khăn nhưng cũng là
một trong những động lực thúc đẩy nghiên cứu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác quản lý hoạt động truyền hình
từ góc nhìn VHĐC. Vì đây là một vấn đề mới và phạm vi khảo sát quá rộng nên

chúng tôi giới hạn đối tượng nghiên cứu trường hợp là “Đài truyền hình TP.HCM”
(HTV) với sự thể hiện của hai kênh quảng bá (dịch vụ công) có nhiều ảnh hưởng
đối với công chúng là HTV9 và đặc biệt là HTV7; không gian nghiên cứu là địa bàn
TP.HCM và vùng lân cận; thời gian nghiên cứu là trong vòng mười năm trở lại đây,
từ lúc VHĐC bắt đầu có tác động rõ nét đối với đời sống kinh tế - xã hội của các đô
thị lớn và ảnh hưởng đến những hoạt động của truyền hình qua việc phổ biến các
nội dung thu hút đông đảo khán giả. Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu này, từ
góc nhìn VHĐC, tác giả đánh giá công tác quản lý hoạt động truyền hình ở Việt
Nam hiện nay, cụ thể là ở HTV và đề xuất giải pháp quản lý hoạt động truyền hình
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu, sở thích giải trí văn hóa của công chúng khán giả hiện
nay.
4.2. Nguồn tư liệu và tài liệu
Tư liệu bao gồm các nguồn:
-Tư liệu khảo sát, điều tra xã hội học.
-Tư liệu lưu trữ và hiện hành của HTV có liên quan đến đề tài.
Tài liệu bao gồm các nguồn:
-Lý luận văn hóa và văn hóa đại chúng
-Lý luận về văn hóa quản lý và quản lý văn hóa.
-Nghiên cứu truyền hình, nghiên cứu quản lý hoạt động truyền hình từ góc
nhìn VHĐC.
-Tài liệu liên quan đến Đài truyền hình TP.HCM.
-Văn bản pháp quy về quản lý nhà nước ngành truyền hình ở Việt Nam.


10

5. Quan điểm nghiên cứu, giả thuyết khoa học và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể và hướng tiếp
cận liên ngành từ góc nhìn văn hóa học, vận dụng lý thuyết chức năng luận trong

nghiên cứu văn hóa, các lý thuyết trong nghiên cứu truyền thông và các vần đề
VHĐC đương đại như lý thuyết “Mã” (Encoding/Decoding), lý thuyết “Sử dụng và
Hài lòng” (Uses and Gratifications), cách tiếp cận “Văn hóa hội tụ” (Convergence
Culture), “Văn hóa tham gia” (Participatory Culture).
5.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Sau khi đặt vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản lý truyền hình và
VHĐC, tác giả luận án nêu câu các hỏi nghiên cứu:
Liệu có tồn tại sự ảnh hưởng qua lại giữa VHĐC và quản lý hoạt động của
một đài truyền hình?
Nếu có sự ảnh hưởng qua lại giữa VHĐC và quản lý hoạt động của một đài
truyền hình thì mối quan hệ này được thể hiện ở những yếu tố chủ yếu nào trong
quản lý hoạt động truyền hình?
Việc quản lý hoạt động truyền hình gắn liền với VHĐC cần phải theo mô
hình nào để phát huy hiệu quả quản lý và khai thác thế mạnh của VHĐC?
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu này, các giả thuyết được nêu ra trong
luận án bao gồm:
Quản lý hoạt động truyền hình có thể được thực hiện từ nhiều góc nhìn khác
nhau, nhưng quản lý từ góc nhìn VHĐC là hình thức quản lý lấy khán giả làm trung
tâm trong bối cảnh VHĐC đang tác động mạnh và rộng rãi ở hầu hết các mặt trong
đời sống kinh tế - xã hội hiện nay sẽ khách quan và hiệu quả hơn.
Trong môi trường truyền thông có quá nhiều lựa chọn dành cho khán giả,
thái độ và nhu cầu của số đông khán giả quyết định việc hình thành nội dung và
phân phối các thông điệp truyền hình, do đó sẽ làm thay đổi cách quản lý hoạt động
truyền hình cho phù hợp với nhu cầu của khán giả.


11

Ở chiều ngược lại, chính sự bất cập trong quản lý truyền hình (bao gồm việc
kém chuyển động trong môi trường truyền thông hội tụ, trong phạm vi ngành và

từng đài cụ thể) có thể làm thay đổi xu hướng hưởng thụ văn hóa nơi khán giả, đẩy
khán giả đến với các phương tiện truyền thông mới hoặc chuyển dịch sang các kênh
truyền hình khác.
Việc quản lý truyền hình gắn liền với VHĐC cần phải dựa trên một mô hình
phù hợp với môi trường truyền thông “mở” và “động”, theo đó các giải pháp quản
lý phải tạo sự liên thông với môi trường truyền thông và có sự tương tác tích cực
với khán giả.
5.3. Quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, người viết đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu theo hướng tiếp cận liên ngành và hệ thống - cấu trúc để xác định mối
quan hệ giữa việc quản lý hoạt động HTV trong môi trường truyền thông Việt Nam
và nhu cầu, thái độ của khán giả TP.HCM trong bối cảnh chung của VHĐC đang
phát triển mạnh trên thế giới. Nội dung chính của đề tài luận án là quản lý hoạt động
truyền hình từ góc nhìn VHĐC nên tính liên ngành của đề tài rất cao, thể hiện đầu
tiên là liên ngành Văn hóa học – Báo chí học. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu các
thành quả khoa học ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu của Báo chí học, Khoa học truyền
thông, Xã hội học…, hướng tiếp cận liên ngành được thể hiện ở hai cấp độ cơ bản
là sử dụng một số khái niệm và lý thuyết trong khoa học truyền thông và các
phương pháp nghiên cứu trong xã hội học để soi rọi và tìm hiểu những lĩnh vực có
tính giáp ranh giữa truyền thông đại chúng và VHĐC.
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận án bao gồm:
Phương pháp lịch sử: nhằm làm rõ các sự kiện quan trọng diễn ra trong quá
trình hình thành, phát triển của các đối tượng nghiên cứu để tìm ra các nguyên nhân
và hệ quả tiếp theo trong mối liên quan giữa các sự kiện. Phân tích, đánh giá việc
hình thành phương thức quản lý hoạt động truyền hình trong quá trình phát triển của
truyền hình Việt Nam, cụ thể là ở HTV.


12


Phương pháp so sánh: nhằm so sánh đặc điểm và cách tiếp nhận các kênh
truyền hình khác nhau của khán giả TP.HCM qua các thời kỳ, so sánh cách quản lý
hoạt động của các đài, kênh truyền hình nhằm hướng tới nhu cầu thụ hưởng truyền
hình của khán giả. Ở cấp độ xuyên văn hóa, luận án cũng áp dụng phương pháp so
sánh để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa truyền hình Việt Nam với
truyền hình thế giới, đặc điểm của HTV so với các đài truyền hình các nước trên thế
giới; so sánh đặc điểm của VHĐC Việt Nam với VHĐC các nước châu Á trong vai
trò tiếp nhận.
Phương pháp hệ thống: Đặt vấn đề hoạt động truyền hình là một hệ thống có
tính ổn định tương đối và luôn có xu hướng phát triển, tác giả luận án sử dụng
phương pháp hệ thống để phân tích các vấn đề đồng đại và lịch đại của truyền hình
Việt Nam, cụ thể ở HTV trong mối quan hệ với VHĐC. Ngoài ra, tính tự tổ chức
gắn liền với tính tổ chức của hoạt động truyền hình cũng được tác giả vận dụng để
đề xuất mô hình quản lý hoạt động HTV theo hướng “mở”, “động” và “thông” với
môi trường truyền thông hiện đại.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, đặc
điểm cấu trúc của đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý hoạt động truyền hình,
trường hợp HTV, tác giả đã dựa vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của HTV và khả
năng nghiên cứu của mình để phân tích từng yếu tố bộ phận của công tác quản lý
HTV và sau đó khái quát lại toàn bộ các hoạt động đó để tìm ra bản chất và quy luật
hoạt động của HTV từ góc nhìn VHĐC.
Phương pháp quan sát tham dự (Participant Observation): Tác giả luận án
được trực tiếp theo dõi thường xuyên đối tượng nghiên cứu từ hai góc độ khách
quan và chủ quan. Qua các khảo sát định tính trong quá trình tiếp xúc, làm việc với
nhiều người thuộc giới quản lý, sản xuất, phân phối và khán giả, tác giả luận án đúc
kết được những nguyên nhân và hệ quả của các trường hợp điển hình trong hoạt
động quản lý HTV.
Phương pháp phỏng vấn sâu (In-Depth Interview): Với tư cách là người
nghiên cứu, tác giả luận án đã tiếp xúc với các cá nhân liên quan trực tiếp và gián



13

tiếp đến vấn đề nghiên cứu để tìm hiểu kiến thức, quan điểm và cả cảm nhận của họ
về những vấn đề gắn với đề tài nghiên cứu. Trong quá trình phỏng vấn, ngoài vấn
đề chính được tác giả nêu ra lúc đầu, còn lại tất cả nội dung buổi phỏng vấn đều
được người trả lời khai triển, dẫn dắt tình huống câu hỏi để đảm bảo hiệu quả phát
hiện mới của phương pháp này.
Phương pháp điều tra xã hội học: Do đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn hóa
ứng dụng nên phương pháp này được thực hiện cùng với phương pháp quan sát
tham dự và phương pháp phỏng vấn sâu nhằm phục vụ cho quá trình từng bước
chứng minh sự quan hệ hữu cơ giữa các đối tượng nghiên cứu. Việc chọn 600 mẫu
điều tra được tính toán theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên không lặp với công
thức tính mẫu được giảng dạy tại Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM. Để đảm bảo tính đại diện và tính
khoa học của các thông tin cần thu thập, việc tổ chức điều tra được triển khai theo
phương pháp phỏng vấn trực tiếp từng hộ dân ở khu vực trung tâm TP.HCM (quận
1, quận 3, quận Bình Thạnh) và ngoại vi TP.HCM (quận 12, huyện Hóc Môn,
huyện Nhà Bè). Các kết quả trả lời được lượng hóa để thể hiện mức độ và thái độ
quan tâm cũng như nhu cầu của khán giả đối với các chương trình của HTV nói
riêng, truyền hình nói chung, từ đó đánh giá mức độ quản lý hiệu quả của HTV từ
góc nhìn VHĐC.
6. Đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Luận án tập trung vào mảng đề tài quản lý văn hóa, quản lý báo chí (trong đó
có truyền hình) và VHĐC sẽ góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về VHĐC tại các
thành phố lớn Việt Nam, tiêu biểu là TP.HCM, trong điều kiện phát triển của các
phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống (với đối tượng nghiên cứu là
HTV), đồng thời cho thấy sự tồn tại khách quan của VHĐC thông qua sự tương tác
giữa khán giả và các chương trình truyền hình.

Đề tài cũng góp phần làm sáng tỏ thêm các đặc điểm mang tính quy luật của
văn hóa Việt Nam, làm cơ sở để giải thích quá trình giao lưu và tiếp biến với các


14

nền văn hóa cũng như các trào lưu văn hóa của thế giới từ khi truyền hình xuất hiện.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp định hướng cách nhìn khoa học trong vấn đề quản lý và
phát triển ngành truyền hình trên tinh thần tiếp cận VHĐC để giữ gìn, bảo vệ và
không ngừng bồi đắp, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam một cách hiệu
quả và thiết thực trong bối cảnh toàn cầu hóa.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án sẽ đóng góp trước hết vào quá trình xây dựng kế hoạch nội dung
chương trình phát sóng ngắn hạn và trung hạn của hai kênh quảng bá (dịch vụ công)
HTV7 và HTV9 của Đài truyền hình TP.HCM (HTV) cũng như sự phát triển tổng
thể của HTV trên các lĩnh vực, góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
xây dựng chiến lược phát triển của đài.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung phần thực tiễn cho việc định hướng
tuyên truyền và kế hoạch hoạt động của các cơ quan tuyên giáo, cơ quan quản lý
nhà nước về văn hóa, quản lý báo chí của trung ương và TP.HCM trong giai đoạn
phát triển và hội nhập của đất nước vào nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, những nội dung của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy và học tập các chuyên đề văn hóa truyền thông, xã hội học truyền thông,
sản xuất truyền thông … tại các trường đại học.
7.Kết cấu của luận án
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phụ lục, luận án gồm có 4 chương:
Chương một (32 trang) bao gồm hai nội dung chủ yếu là cơ sở lý luận cùng
với các khái niệm công cụ được vận dụng để phân tích xuyên suốt luận án và cơ sở
thực tiễn của quá trình phát triển của truyền hình Việt Nam trong đó có HTV.
Chương hai (52 trang) phân tích những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong

quản lý hoạt động sản xuất và phát sóng nội dung HTV trên cơ sở lý luận và thực
tiễn của truyền hình thế giới và Việt Nam từ góc nhìn VHĐC.
Chương ba (29 trang) bổ sung các hoạt động quản lý HTV ở các lĩnh vực xã
hội hóa sản xuất chương trình truyền hình, kỹ thuật, dịch vụ và quản lý nguồn nhân


15

lực để phục vụ công tác sản xuất nội dung của HTV, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa của công chúng.
Từ thực tiễn quản lý HTV nhìn từ góc độ VHĐC và những kết quả nghiên
cứu đạt được, chương bốn (35 trang) và là chương cuối cùng nêu lên hướng vận
động của truyền hình Việt Nam, có tham khảo, so sánh một số kinh nghiệm của
truyền hình thế giới để khuyến nghị các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản
lý hoạt động truyền hình tại Việt Nam nói chung và HTV nói riêng, hướng đến đại
chúng khán giả trong bối cảnh toàn cầu hóa.


16

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG TRUYỀN HÌNH (TRƯỜNG HỢP HTV)
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ĐẠI CHÚNG

1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1. Văn hóa đại chúng và góc nhìn văn hóa đại chúng
1.1.1.1. Khái niệm Văn hóa đại chúng theo nghĩa của thuật ngữ “Popular Culture”
Văn hóa đại chúng (VHĐC) là một thuật ngữ Việt Nam còn tương đối mới,
khá phức tạp và dễ bị dùng lẫn với một số khái niệm khác nên trong mục này,

chúng tôi sẽ làm rõ khái niệm VHĐC theo ý nghĩa của thuật ngữ tiếng Anh
“Popular Culture” để phân biệt với các dạng thức văn hóa và hoạt động văn hóa
thuộc về dân chúng (như Folk Culture), thuộc về số đông quần chúng (như Mass
Culture) hoặc hướng tới quần chúng (như “Văn hóa quần chúng”).
Thuật ngữ tiếng Anh “Popular Culture” được giới nghiên cứu Anh nhắc tới
lần đầu tiên vào cuối thập niên 1950 trong tác phẩm “Lợi ích của việc biết chữ”
(The Uses of Literacy) của Richard Hoggart xuất bản năm 1957 tại London cũng
như những công trình nghiên cứu văn hóa của Raymond Williams [54, tr.77]. Sau
đó cũng chính Richard Hoggart, Raymond Williams đã cùng với nhà sử học
E.P.Thompson

sáng lập ra Trung tâm văn hóa đương đại CCCS (Centre for

Contemporary Cultural Studies) đặt tại Đại học Birmingham, nước Anh, vào năm
1964 2 với mục đích nghiên cứu chủ yếu là các vấn đề liên quan đến “Popular
Culture”.
Điều đáng lưu ý là cả ba học giả trên đều xuất thân từ tầng lớp lao động
nghèo của nước Anh, vừa đến độ tuổi trưởng thành và được bước chân vào giảng
đường đại học khi Thế chiến II vừa kết thúc. Những trải nghiệm từ cuộc sống bình
dân đã hình thành nơi họ tư tưởng mở rộng giới hạn của văn hóa từ những điều “đạo
cao, đức trọng” (Literacy-Moral) sang các khái niệm mang tính đời thường. Theo
2

Giám đốc đầu tiên của Trung tâm là Stuart Hall (1932- ).


17

họ thì các loại hình văn hóa “cao cấp” như kịch Shakespeare hay nhạc của Mozart
đơn thuần chỉ là các dạng thức giao tiếp xã hội vào những thế kỷ trước, cũng giống

như các dạng thức khác phổ biến trong thời của các học giả này như tiểu thuyết của
Ian Flemming hay nhạc của Elvis Presley. Có điều hai loại sau thì ai đọc cũng được
và ai nghe cũng hiểu. Sự ra đời của khái niệm tiếng Anh “Popular Cuture” thoạt đầu
xuất phát từ quan điểm của các nhà khoa học nói trên với mong muốn đưa thêm vào
phạm trù văn hóa những cái mà trước đây không được văn hóa tinh hoa (High/Elite
Culture) “chấp nhận”. Và cũng từ việc mở rộng này đã hình thành chính thức một
lĩnh vực nghiên cứu mới trong giới học thuật phương Tây từ nửa sau thế kỷ XX, đó
là Cultural Studies [91, tr. 229].
Mặc dù thuật ngữ tiếng Anh “Popular Culture” mới xuất hiện từ giữa thế kỷ
XX ở phương Tây nhưng khái niệm văn hóa mang tính phổ biến và số đông đã được
hình thành từ rất lâu. Ở mỗi thời đại cũng như bối cảnh xã hội khác nhau, nó mang
những tên gọi khác nhau cũng như bao gồm những dạng thức giao tiếp xã hội khác
nhau để phân biệt rõ với các dạng thức của văn hóa tinh hoa. Nhiều học giả cho
rằng “Popular Culture” chí ít cũng đã có từ sau Thiên Chúa giáng sinh (tuy chưa
mang đầy đủ những đặc trưng của “Popular Culture” hiện đại). Cơ sở chứng minh
cho luận điểm này là các ấn bản đơn giản được in số lượng lớn (bằng phương pháp
thô sơ) để phát cho quần chúng vào những thế kỷ đầu Công nguyên với tên gọi
Thánh kinh cho kẻ ăn xin. Hoặc khi bàn về văn học bình dân, người ta thường nhắc
tới các tác phẩm phổ biến rộng rãi trong quần chúng của nhà văn Anh Daniel Defoe
(1660-1731) hay nhà văn Nga Matvei Komarov (1730-1812) được viết bằng thứ
ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng và giản dị [33, tr. 176,177]. Tuy nhiên, cho tới cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, “Popular Culture” mới được hình thành theo đúng
nghĩa của nó (mặc dầu vẫn chưa có tên gọi chính thức) do đã hội đủ các các tiền đề
quan trọng.
Tiền đề thứ nhất là nền sản xuất đại công nghiệp mang tính hàng hóa có khả
năng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hàng loạt của khối công chúng thuộc nhiều nhóm xã
hội khác nhau trên không gian địa lý rộng lớn và xuyên quốc gia. Hệ quả trước tiên


18


của nó là hình thành một lớp công chúng mới, chủ yếu là giới trẻ, có thói quen tiêu
dùng các sản phẩm vật chất cũng như tinh thần rẻ tiền được sản xuất hàng loạt, từ
đó hình thành những nét chung trong lối sống và giao tiếp xã hội trên nhiều phương
diện.
Tiền đề thứ hai dựa trên sự phát triển và xuất hiện mới các phương tiện
truyền thông đại chúng (báo in, phát thanh, truyền hình và mới nhất là Internet). Sự
gia tăng số lượng phục vụ theo hướng ngày càng rẻ của các loại hình truyền thông
này cùng với đà phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra một khối công chúng
ngày càng lớn và “đồng nhất” trong phương thức hưởng thụ sản phẩm vật chất và
tinh thần, cho dù khác nhau về giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, thành phần xã
hội…Sự “đồng nhất” này đã góp phần hình thành nên một tầng lớp đông đảo “thụ
động và không phê phán” (quan điểm của các học giả theo nhóm lo ngại tác động
tiêu cực của “Popular Culture”) gắn liền với các sản phẩm văn hóa rẻ tiền, dễ tiếp
thu và liên tục thay đổi.
Tiền đề thứ ba và cũng là tiền đề quan trọng nhất chính là sự nhận thức về
con người đã thay đổi theo hướng nhìn nhận tích cực vai trò của các cá nhân và
nhóm người trong việc hình thành các xu hướng văn hóa và có khả năng tập hợp
thành một khối công chúng văn hóa tác động trực tiếp lên các quá trình hoạt động
sản xuất vật chất và sáng tạo các giá trị tinh thần.
Từ ba tiền đề trên, có thể định nghĩa khái niệm “Popular Culture” theo hai
khía cạnh sản xuất và tiêu thụ hay sáng tạo và hưởng thụ.
1. Định nghĩa theo khía cạnh sản xuất (sáng tạo): “Popular Culture” là tất cả
những gì mà nhân dân thực hiện hoặc tạo ra cho chính mình bao gồm tất cả các hoạt
động của cuộc sống hàng ngày từ ăn uống, giải trí tới giao tiếp, ứng xử với môi
trường tự nhiên và xã hội.
2. Định nghĩa theo khía cạnh tiêu thụ (hưởng thụ): “Popular Culture” là hình
thức giải trí được sản xuất thông qua và bằng truyền thông thương mại (truyền hình,
điện ảnh, kỹ nghệ âm nhạc…) có đủ năng lực kinh tế và kỹ thuật để có thể thu hút



×