Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đề cương văn 12 .....................................................................................................................................

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326 KB, 31 trang )

1.So sánh: Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức
gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
VD: Trẻ em như búp trên cành

2.Nhân hoá: Là cách dùng những từ ngữ vốn dùng để miêu tả hành động của con người để
miêu tả vật, dùng loại từ gọi người để gọi sự vật không phải là người làm cho sự vật, sự việc
hiện lên sống động, gần gũi với con người.
VD: Chú mèo đen nhà em rất đáng yêu.
3.Ẩn dụ: Là cách dùng sự vật, hiện tượng này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng khác dựa vào
nét tương đồng (giống nhau) nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
4.Hoán dụ: Là cách dùng sự vật này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng khác dựa vào nét liên
tưởng gần gũi nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
VD: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên ngoài).

5.Điệp ngữ: là từ ngữ (hoặc cả một câu) được lặp lại nhiều lần trong khi nói và viết nhằm
nhấn mạnh, bộc lộ cảm xúc…
VD: Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
6.Chơi chữ: là cách lợi dụng đặc sắc về âm, nghĩa nhằm tạo sắc thái dí dỏm hài hước.
VD:
Mênh mông muôn mẫu màu mưa
Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ
7.Nói quá là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, qui mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được
miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
VD: Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng khen chồng bảo râu rồng trời cho.

8 Nói giảm, nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm
giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Ví dụ:


Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Có 6 phương thức biểu đạt, cụ thể như sau:
- Tự sự: là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng tạo
thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể việc mà còn quan tâm đến việc khắc
hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và
cuộc sống.
Ví dụ:
“Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa
nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết
suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến
chiều chẳng bắt được gì.”
(Tấm Cám)


- Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự
việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.
Ví dụ:
“Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng sừng sững bên bờ sông thành
một khối tím sẫm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn
tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát”
(Trong cơn gió lốc, Khuất Quang Thụy)

- Biểu cảm là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những
điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. PT biểu cảm là
dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.
Ví dụ:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than

(Ca dao)

- Thuyết minh là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó
cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.
Ví dụ:
“Theo các nhà khoa học, bao bì ni lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các loài
thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi.
Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các
đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn của hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch
bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải…”
(Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000)

- Nghị luận là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ
kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của
mình.
Ví dụ:
“Muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh thì phải có nhiều người tài giỏi. Muốn có nhiều người tài
giỏi thì học sinh phải ra sức học tập văn hóa và rèn luyện thân thể, bởi vì chỉ có học tập và rèn luyện thì
các em mới có thể trở thành những người tài giỏi trong tương lai”
(Tài liệu hướng dẫn đội viên)

- Hành chính – công vụ là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa
nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở
pháp lí [thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…]
Ví dụ:
"Điều 5.- Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính


Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà sách nhiễu nhân dân, dung túng, bao che
cho cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, không xử phạt hoặc xử phạt không kịp thời,

không đúng mức, xử phạt quá thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật."

6PHONG CÁCH NGÔN NGỮ
1. Phong cách ngôn ngữ hành chính:
Phong cách ngôn ngữ hành chính được thể hiện trên các đơn từ, nghị định, giấy chứng nhận,...
2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật:
Là phong cách ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm, có chức năng thông tin và ch ức năng thẩm mĩ. Ngôn
ngữ nghệ thuật có tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá.
3. Phong cách ngôn ngữ khoa học:
Là ngôn ngữ được dùng trong các văn bản khoa học (kể cả giao tiếp và truyền thụ kiến thức khoa
học) như:
+ Khoa học tự nhiên: Toán, Lý, Hoá, Sinh,...
+ Khoa học xã hội: Văn, Sử, Địa, Giáo dục, Triết học,...
4. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:
Là khái niệm chỉ toàn bộ lời ăn tiếng nói hàng ngày dùng để giao tiếp.
5. Phong cách ngôn ngữ báo chí:
Phong cách ngôn ngữ báo chí có tính th ời sự cập nhật, tính thông tin ngắn gọn, tính sôi động, hấp
dẫn, tạo sự tò mò, chú ý của người đọc, người xem,...
6. Phong cách ngôn ngữ chính luận:
Phong cách ngôn ngữ chính luận có tính công khai về quan điểm chính trị, tính chặt chẽ trong biểu
cảm và suy luận, tính truyền cảm, thuyết phục,...

Phương Châm Sống học đi đôi với hành

Trong sự nghiệp xậy dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ngày nay, xã hội ngày một phá
môn là đòi hỏi không thể thiếu của mỗi người. Tuy nhiên nhiều bạn trẻ hiện nay quá chú trọng vào việc họ
thực hành - một điều hết sức quan trọng. Mối quan hệ giữa học và hành một lần nữa được nhấn mạnh qua c
“Học đi đôi với hành”.

Học là sự hiểu biết, là vốn kiến thức của mỗi con người. Con người có học là con người biết suy nghĩ, có n
thực hiện, vận dụng những lý thuyết đã học bằng việc làm thực tế. Học kết hợp với hành không phải là vừa
ăn cơm hay rữa chén vừa học bài thì thử hỏi bạn có thuộc nỗi không? Sự kết hợp ta nói đến ở đây là việc th
nắm vững những vấn đề mà phần lý thuyết đó đề cặp đến để có thể vận dụng chúng một nhanh chóng, chín
thuyết môn toán Lượng giác ở trường, ta thực hành những lý thuyết đó bằng cách làm thật nhiều bài tập để
Nói chung phương châm “học đi đôi với hành” là hoàn toàn chính xác. Nếu không kết hợp học với hành th
việc được. Bởi trong công việc cái người ta cần, quan tâm hàng đầu là sản phẩm-thành quả lao động chứ k
không đạt được chỉ tiêu đó thì dẫu cho có thành tích học tập tốt đến đâu thì ta cũng sẽ nhanh chóng bị xã h
thương hại. Một kiến trúc sư đã tốt nghiệp ở truờng đại học danh tiếng với thành tích học tập rất xuầt sắc, v
có chút thẳm mĩ, chất lượng ngôi nhà thì chỉ thuộc loại soàn soàn mà thôi. Một học sinh học tập rất tốt, điể
đường trong thấy một bà lão ăn xin té ngã trên đường, không những không giúp đỡ mà ngược lại còn tỏ thá
hành về mặt học vấn thì còn bù đấp lại chứ thiếu thực hành ở mặt đạo đức thì thật không thể chấp nhận. M
sử dụng hoặc xây dựng lại, còn một con người có đạo đức suy thoái thì chỉ là đồ vô dụng. Một khi gạo đã n
tâm trong đầu cũng chẳng thể nào mất đi được chỉ có nước đầu thai kiếp khác mới có thể sống tốt được, nế


đất nước mà thôi. Những ví dụ trên đã cho ta thấy phần nào tác hại của việc học không đi đôi với hành. Ng
bạn sẽ đạt được nhìêu thành tựu.
Không phải chỉ trong thời đại ngày nay mới cần phải kết hợp học với hành. Từ ngàn xưa, phương châm họ
Tuy nhiên, Kiến thức của nhân loại vô cùng phong phú, khoa học kĩ thuật ngày càng cao, nếu không học tậ
mới lạ của thế giới. Mà muốn đạt kết quả cao nhất trong việc học, sự kết giữa hợp học với hành là điều khô
ngày một phát triển, đất nước ngày một hội nhập với thế giới, phương châm kết hợp học với hành trở nên c
Là người học sinh, trong thời gian học tập ở nhà trường,chúng ta cần phải chăm chỉ học tập kết hợp đi đôi
và khinh nghiệm của cuộc sống để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao v
động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Và sau này, khi bước vào đời thì ph
cao chuyên môn để làm việc có hiệu quả hơn.
Tóm lại, câu phương châm trên nêu rõ tầm quan trọng của sự kết hợp giữa học và hành. Thực hiện phương
trong học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp sao này, đồng thời góp phần tích cực vào việc xây dựn

PCS

Trong sự nghiệp xậy dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ngày nay,
xã hội ngày một phát triển. Sự hiểu biết, trình độ khả năng chuyên môn là đòi hỏi
không thể thiếu của mỗi người. Tuy nhiên nhiều bạn trẻ hiện nay quá chú trọng vào
việc học lý thuyết ở trường mà đôi khi quên mất phải thực hành - một điều hết sức
quan trọng. Mối quan hệ giữa học và hành một lần nữa được nhấn mạnh qua câu:
“Học đi đôi với hành”.
Học là sự hiểu biết, là vốn kiến thức của mỗi con người. Con người có học là con người
biết suy nghĩ, có nhận thức, có sự hiểu biết. Hành là thực hành, thực hiện, vận dụng
những lý thuyết đã học bằng việc làm thực tế. Học kết hợp với hành không phải là vừa
học vừa làm. Cho giả dụ, nếu bạn vừa ngồi ăn cơm hay rữa chén vừa học bài thì thử
hỏi bạn có thuộc nỗi không? Sự kết hợp ta nói đến ở đây là việc thực hiện những lý
thuyết đã học nhầm hiểu rõ, nắm vững những vấn đề mà phần lý thuyết đó đề cặp
đến để có thể vận dụng chúng một nhanh chóng, chính xác trong thực tế sau này.
Như khi ta học lý thuyết môn toán Lượng giác ở trường, ta thực hành những lý thuyết
đó bằng cách làm thật nhiều bài tập để có thể nắm vững những lý thuyết ấy.
Nói chung phương châm “học đi đôi với hành” là hoàn toàn chính xác. Nếu không kết
hợp học với hành thì không thể đạt được hiệu suất cao trong công việc được. Bởi trong
công việc cái người ta cần, quan tâm hàng đầu là sản phẩm-thành quả lao động chứ
không phải là hiểu biết trên lý thuyết, một khi không đạt được chỉ tiêu đó thì dẫu cho
có thành tích học tập tốt đến đâu thì ta cũng sẽ nhanh chóng bị xã hội đào thải, trỡ
thành một kẻ thất bại đáng thương hại. Một kiến trúc sư đã tốt nghiệp ở truờng đại
học danh tiếng với thành tích học tập rất xuầt sắc, vậy mà căn nhà do anh ta thiết kế
ra lại không có chút thẳm mĩ, chất lượng ngôi nhà thì chỉ thuộc loại soàn soàn mà
thôi. Một học sinh học tập rất tốt, điểm môn Công dân luôn cao, vậy mà khi ra đường
trong thấy một bà lão ăn xin té ngã trên đường, không những không giúp đỡ mà
ngược lại còn tỏ thái độ coi thường ghê tởm bà ấy, thiếu thực hành về mặt học vấn thì
còn bù đấp lại chứ thiếu thực hành ở mặt đạo đức thì thật không thể chấp nhận. Một
ngôi nhà không hoàn hảo thì còn có thể tạm sử dụng hoặc xây dựng lại, còn một con
người có đạo đức suy thoái thì chỉ là đồ vô dụng. Một khi gạo đã nấu thành cơm, dù



có chỉnh sửa nữa thì cái ác tâm trong đầu cũng chẳng thể nào mất đi được chỉ có nước
đầu thai kiếp khác mới có thể sống tốt được, nếu không thì chỉ có thể làm hại người,
xấu hổ đất nước mà thôi. Những ví dụ trên đã cho ta thấy phần nào tác hại của việc
học không đi đôi với hành. Ngược lại, nếu bạn kết hợp tốt học với hành thì bạn sẽ đạt
được nhìêu thành tựu.
Không phải chỉ trong thời đại ngày nay mới cần phải kết hợp học với hành. Từ ngàn
xưa, phương châm học kết hợp với hành đã được áp dụng không ít. Tuy nhiên, Kiến
thức của nhân loại vô cùng phong phú, khoa học kĩ thuật ngày càng cao, nếu không
học tập sẽ bị lạc hậu, không phù hợp với những cái mới lạ của thế giới. Mà muốn đạt
kết quả cao nhất trong việc học, sự kết giữa hợp học với hành là điều không thể thiếu.
Trong thời đại ngày nay, xã hội ngày một phát triển, đất nước ngày một hội nhập với
thế giới, phương châm kết hợp học với hành trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Là người học sinh, trong thời gian học tập ở nhà trường,chúng ta cần phải chăm chỉ
học tập kết hợp đi đôi với hành. Học bao gồm cả văn hoá, chữ nghĩa và khinh nghiệm
của cuộc sống để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng
cao về nhận thức, về chính trị xạ hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng
tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Và sau này, khi bước vào đời thì phải tiếp tục
nâng cao trình độ hiểu biết, nâng cao chuyên môn để làm việc có hiệu quả hơn.
Tóm lại, câu phương châm trên nêu rõ tầm quan trọng của sự kết hợp giữa học và
hành. Thực hiện phương châm này đúng cách ta sẽ đạt hiệu quả cao trong học tập,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp sao này, đồng thời góp phần tích cực vào việc
xây dựng một đất nước phồn vinh tiến bộ.

Phân tích Việt Bắc - Tố Hữu
Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác
phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy
được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng
Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở
người đi lòng không khỏi nhớ thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến.

nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt bắc.
Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi
đây:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi


Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. . . ”
Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta
ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng
thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây
giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của cản bộ và người
dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là lời
của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười
lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ
con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân
tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với
người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy.
Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện
phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là
để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người
đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết
được những ý nghĩa trong lòng nhau.
Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những

kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về,
cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên.
Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm
chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi
đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy
đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ.
Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì
để rụng còn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ
cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp
lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô


mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi.
Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở
như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc
không phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các
anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng
mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. . .
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa. . . "
Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người
chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm tình
cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt
mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc.
Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm
thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương

hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây
phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người.
Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong
tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng
chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho
nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.


Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể
ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên
hiện lên vô cùng đẹp:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. ”
Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những
người chiến sĩ cách mạng. Còn mình chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy
cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm thể hiện sự lưu luyến yêu
thương với mảnh đất và con người ở đây. Không biết rằng họ có nhớ không còn những người
chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi
và sự bày ỏ tình cảm của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động
của con người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ lại chọn
miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến đây vào mùa đông và
ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đông hiện lên với hình ảnh của những hình ảnh của rừng xanh và

màu đỏ tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến
mùa xuân thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người thì
hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên
được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một
mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến
những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ
thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.
Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những
người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về
tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà. . . ”


Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá
dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi
những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử.
Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc
đánh trận và những địa danh kia.
Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị
hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình
quân dân thể hiện rõ nhất:

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ”
Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng
lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân quân Việt
bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những
ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm
chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là
nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ
hơn. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm
tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng
của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một
niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta
một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã
dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng
như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của
cả nước.
Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những
niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết
bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:
Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường


Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. . .
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. "
Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng nhớ
đến những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể
hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của nhân
dân ta. Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy
trông về miền Bắc mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay
cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong
lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình
cảm.
Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những
chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và
giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa.
Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình
quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người

nhân dân Việt Bắc được.

Phân Tích Tây Tiến - Quang Dũng
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, “Tây Tiến” là một hồi
tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây bắc và về
người chiến sĩ Tây Tiến. Lúc đầu bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, trong lần in thứ hai tác giả
đã bỏ đi chữ “nhớ” có phải tác giả sợ thừa không? Hay còn có lí do nào khác là sợ hẹp nghĩa.
“Nhớ Tây Tiến” là xoáy vào cái tâm trạng, nỗi niềm riêng của cá nhân, còn “Tây Tiến” khái quát
hơn, nó muốn thâu tóm cả đất trời Tây Tiến, cả một thời oanh liệt của Tây Tiến.
Mở đầu bài thơ là 14 dòng thơ đầu khắc họa bức tranh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ gắn liền với
những kỉ niệm hành quân chiến đấu của đơn vị Tây Tiến, 8 câu thơ tiếp theo tô đậm tâm hồn hào
hoa lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến qua hai kỉ niệm đó là đêm hội đuốc hoa và buổi chiều hành
quân trên sông nước vùng đất Châu Mộc, 8 câu thơ tiếp theo là bức chân dung bi tráng vẽ trực
tiếp về tập thể đơn vị Tây Tiến, 4 câu thơ cuối như một sự hoài niệm về chặng đường của những
người chiến sĩ Tây Tiến tình nguyện hi sinh thân mình vì đất nước.
Trong phần đầu tiên đó là 14 dòng thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng trữ tình.


“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trong bức tranh ấy, cả những chi tiết nhỏ nhất cũng thắm đượm, bao bọc chan hòa bởi một nỗi
nhớ dằng dặc và da diết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi với”
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau, không gian thực tại và không gian hồi
tưởng. Tuy nhiên chỉ có độc giả mới nhận ra điều đó, còn với tác giả khi ông nói “xa rồi” là khi

những hình ảnh của một quá khứ chưa xa đang ùa tới, nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để
hồn thơ lơ lửng, “chơi vơi trong cõi nhớ”. Nỗi nhớ ấy như được giăng mắc một màn sương rất khó
định hình, rất khó gọi tên, nỗi nhớ ấy dâng trào không kìm nén nổi đã khiến nhà thơ cất lên thành
tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những âm “ơi”, “chơi vơi” tạo nên âm hưởng
ngân mãi trong lòng người đọc , vọng mãi vào thời gian năm tháng, tô đậm các cung bậc cảm xúc.
Trong tâm trí nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả
như vẫn còn rành rành trong tâm trí:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Có thể nói nét độc đáo trong thơ Quang Dũng là đã hiện thực thì hiện thực đến khắc nghiệt mà đã
lãng mạn thì lãng mạn đến mộng mơ. Bút pháp này được thể hiện rõ khi miêu tả thiên nhiên Tây
Bắc. Thiên nhiên ấy vẫn thường thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh mạng bé
bỏng trong khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm
hồn các chiến sĩ Tây Tiến có dịp bay bổng, nếu “sương lấp” lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu
thì “hoa về” lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. Khung cảnh núi rừng mà đoàn quân Tây
Tiến bước chân qua vừa thơ mộng, nhưng cũng thật hùng vĩ, được gợi nên với những đèo dốc
núi non hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bốn câu thơ mang vẻ đẹp của thể thơ tứ tuyệt, một bức tranh thiên nhiên hoành tráng có núi, dốc,
vực…hiểm trở, dữ dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng. Các từ ngữ như “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm” “heo hút”…đều là những từ ngữ giàu tính tạo hình được tác giả huy động để diễn tả
thật chính xác cảnh núi rừng hoang sơ, hiểm trở. Quang Dũng không viết “súng chạm trời” mà viết
“súng ngửi trời” cách viết này thể hiện được chất hóm hỉnh, nghịch ngợm của người lính. Hơn thế
nữa khi miêu tả độ cao tác giả lại dùng từ chỉ độ sâu: “heo hút cồn mây súng ngửi trời” và có
những câu thơ như bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” khiến ta liên tưởng
đến những vách núi dựng đứng như hình gấp khúc. Có thể nói thơ Quang Dũng đậm chất nhạc,



sau khi miêu tả sự khó khăn, hiểm trở của rừng núi Tây Bắc với những từ toàn thanh trắc như
“khúc khuỷu”, “thẳm”, “hút”… thì ngay sau đó là một câu toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi” gợi vẻ êm đềm của không gian và trạng thái bình yên thanh thản của tâm hồn. Không chỉ
có vậy, thiên nhiên Tây Bắc còn mang vẻ dữ dội, bí hiểm hoang sơ được thể hiện trong câu thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Rừng núi với thác sâu, cọp dữ luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến, những
phép tu từ nhân hóa thác biết gầm thét, “cọp trêu người” càng tô đậm thêm ấn tượng về sự hoang
vu, dữ dội. Chính vì sự nguy hiểm đó nên có nhiều chiến sĩ đã không còn đủ sức theo kịp đồng
đội, họ đã nằm lại nơi chân đèo, góc núi hoang vu, lãnh lẽo: “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Phép
tu từ nói giảm, nói tránh “bỏ quên đời” vừa giảm đi sự đau thương, vừa thể hiện khẩu khí rất anh
hùng, lãng mạn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. 14 dòng thơ đầu được mở đầu bằng tiếng gọi da
diết “Tây Tiến ơi” thì khi kết thúc tiếng gọi ấy lại lặp lại “Nhớ ôi Tây Tiến”:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ thể hiện tình cảm quân dân thắm thiết, mặn nồng. Sau những ngày hành quân vất vả
các chiến sĩ đã được nhận những tình cảm yêu thương, quý mến và những bát cơm xôi nếp ngày
mùa nóng hổi từ những người con gái dân tộc duyên dáng, xinh đẹp.
8 dòng thơ tiếp theo là nỗi nhơ bang khuâng da diết về đêm hội đuốc hoa nơi núi rừng Tây Bắc,
một sinh hoạt văn hóa, văn nghệ truyền thống của bộ đội ta trong kháng chiến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Kỉ niệm về đêm hội hiện về thật sống động náo nức trong nỗi nhớ nhà thơ, doanh trại nơi đóng
quân không hề tăm tối mà lại ngập tràn ánh sáng, một chữ “bừng” diễn tả ánh sáng đột ngột phá
tan màn đêm tăm tối, chữ “bừng” ấy còn là sự bừng lên của tiếng nhạc và điệu khèn và của xiêm
áo lộng lẫy.
Đêm liên hoan văn nghệ đoàn quân Tây Tiến từng bừng, nhộn nhịp như đêm hội bởi ánh sáng
ngập tràn, bởi điệu nhạc rạo rực, ngất ngây và bởi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc với xiêm áo

lộng lẫy, dáng điệu e thẹn tình tứ đưa hồn người lính trẻ về tận Viên Chăn – thủ đô nước bạn Lào.
Nếu ở bốn dòng thơ trên kỉ niệm tươi mới khiến lòng người xao động bồi hồi thì ở bốn dòng thơ
sau lại như dìu dắt hồn người bang khuâng man mác về một chiều sương cao nguyên quyến rũ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Không gian buổi chiều như giăng mắc một màn sương, buổi chiều sương ấy là một buổi chiều
sương nơi cao nguyên Châu Mộc. Câu hỏi tu từ liên tiếp “có nhớ” rồi “có thấy” như xoáy sâu thêm
cảm xúc bồi hồi, thương nhớ, nhớ về cảnh “hồn lau”, “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ. Còn


“dáng người trên độc mộc” phải chăng đó là dáng nét nhẹ nhàng, duyên dáng uyển chuyển, tài
hoa hòa lẫn sự khỏe khoắn, mạnh mẽ của người chèo thuyền và chiếc thuyền chở bộ đội qua
sông rất lạ đó là thuyền “độc mộc”, tất cả đã làm nên vẻ đẹp kì diệu lạ lùng rồi nhưng nếu hiểu từ
hoa trong câu thơ này là người con gái thì những cô gái chèo thuyền tài hoa kia mãi mãi làm trái
tim người chiến sĩ trẻ rung động, say mê, có khi thuyền qua sông rồi mà những đôi mắt đa tình
vẫn còn ngoảnh lại ngắm mãi không thôi. Chỉ qua 8 câu thơ mà Quang Dũng đã cởi mở toàn bộ
trái tim, tâm hồn lãng mạn thơ mộng, lạc quan của đoàn quân Tây Tiến đã lên đến đỉnh điểm, trên
chiến trường đầy gian khổ hiểm nguy nhưng họ vẫn yêu đời, vượt qua mọi gian khổ để không gục
ngã và hướng tới ngày độc lập, tự do.
8 câu thơ tiếp theo đã làm hiện lên rõ ràng cụ thể, sắc nét từ ngoại hình đến nội tâm của cả đơn vị
Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ với nhiều mất mát hy sinh nhưng ở họ vẫn toát
lên phong thái cốt cách anh hùng, một vẻ đẹp vừa hào hùng hào hoa và cũng vừa bi tráng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quan xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ có âm hưởng mạnh mẽ nhờ cách sử dụng từ ngữ tài hoa, dùng “đoàn binh” có âm
vang hơn “đoàn quân’, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn binh luôn cầm chắc vũ khí trong tay với tư
thế sẵn sang chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hai câu thơ đó chính là cái
gân guốc bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt. “Không mọc tóc” chính là hậu quả của những cơn
sốt rét rừng, quân xanh màu lá cũng là một thực tế hiển nhiên, ở đây có thể hiểu là xanh màu áo,
xanh màu lá ngụy trang hay là xanh làn da vì thiếu máu. Hiện thưc được khúc xạ qua bút pháp
lãng mạn của Quang Dũng trở thành cách nói mang khẩu khí ngang tang, cứng cỏi, không mọc
tóc chứ không phải tóc không thể mọc được vì sốt rét. Cách nói chủ động làm cho người lính Tây
Tiến đì từ cái dữ dội của rừng thiêng mà ra xuất quỷ nhập thần trong mỗi nhiệm vụ. Ẩn sau ngoại
hình ấy là sức mạnh nội tâm “dữ oai hùm” là khí phách của đoàn quân ấy, có tác dụng cực tả thần
thái tư thế oai phong, dữ tợn của đoàn quân ấy khi đánh giặc. Những hình ảnh rất thực, giọng
điệu lãng mạn của Quang Dũng như mang nghĩa tượng trưng rất khí phách. Khó khăn gian khổ là
thế nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn không nguôi vơi đi nỗi nhớ, những tình cảm lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những người lính Tây Tiến gân guốc, cứng rắn mạnh mẽ lại là những chàng trai hào hoa, phong
nhã đầy mộng mơ. “mộng” và “mơ” của người lính được được gửi về hai phương trời: biên cương
– nơi còn đầy bóng giặc với mộng giết giặc lập công và Hà Nội nơi quê hương yêu dấu – mơ
những dáng hình thân yêu. ‘dáng kiều thơm’ ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức. Nỗi nhớ của
người lính Tây Tiến về dáng kiều thơm, thanh lịch, duyên dáng của thiếu nữ Hà Nội mang một vè


hào hoa, lịch lãm vốn có của những trí thức đất nước Hà Thành. Lý tưởng, khát vọng của người
lính Tây Tiến được thể hiện ở tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, sự hy sinh cao cả để bảo vệ Tổ quốc:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Sau những câu thơ rắn rỏi đẹp đẽ thì đến đây âm điệu của câu thơ chợt trầm và trùng xuống để
độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay
chậm, còn gì thiêng liêng, cao cả hơn sự hi sinh chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường

hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mộ viễn xá của những người chết xa quê.
Nhưng các chiến sĩ vẫn bình thản bởi vì họ sẵn sang chấp nhận điều đó. Một trong những lý do
thôi thúc họ lên đường là hình ảnh của những người anh hùng mà họ tiếp nhận được trong văn
chương. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi được dâng hiến và xả thân cho đất nước. Hai
câu thơ tiếp vẫn mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái
chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hi sinh của họ. Trong thực tế các chiến sĩ hi
sinh thậm chí không có nổi một manh chiếu nhưng khi đi vào “Tây Tiến” cái đẹp để lại là cái đẹp
trong tâm tưởng. “Về đất” là cách nói giảm nói tránh về sự mất mát đau thương. Đâu đây vẫn còn
những giọt nước mắt đọng lại sau những hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm
sâu xa. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ quang
vinh của mình. Sự hi sinh của những con người ấy lớn lao thầm lặng ly động cả đất trời khiến cho
dòng sông Mã phải gầm lên khúc đôc hành. Tiếng gầm ấy như một lời vĩnh biệt những người con
yêu của đất nước.
Bốn câu thơ cuối đã khép lại bài thơ nhưng hình ảnh về những người lính Tây Tiến – những
người đã dùng máu của mình nhuộm thắm thêm lá cờ của Tổ quốc vẫn còn đó và sống mãi trong
lòng người đọc:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Bài thơ là một dòng chảy dài da diết cháy bỏng của Quang Dũng nhớ về đồng đội thân yêu. Với
âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn với hình ảnh thơ phong phú sinh động,
Quang Dũng đã không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, hiểm trở lại
vừa thơ mộng trữ tình mà ông còn chạm khắc vào lịch sử bức tượng đài tập thể những người lính
Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Chính vì vậy mà bài thơ mãi mãi là một hoài niệm không
thể quên trong lòng người đọc bây giờ và mãi mãi về sau.


Phân tích Đất Nước - ng khoa điềm
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua


những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào
của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn
ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng
ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn
toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư
tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước .
Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận,
nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước
của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện
hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây
tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt
son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi
quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm
ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của

một dân tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia
đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối
tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia .
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của
một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng
quên nhau .


Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây
nhà cửa :Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó .
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc
và giản gị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy
tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn
Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm .
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể
mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không
gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương . Ý nịêm về đất nước được
gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi
ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý
nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu
hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không
những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã
từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất


…”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh
con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi
mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất
Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng,
nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình
nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê
hương, hướng về cội nguồn .
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian
mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng
đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long
Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long
Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người
nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều
hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống
lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong
chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch
sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì
tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi
cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .


Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng
ta :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con
người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là
của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và
tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo
ra Đất nước .
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh
lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được
cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là
những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi :
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” . Ở đây cảnh
vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm
hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên,
đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh,

những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu
sắc :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta .
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến
những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người


vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con
người vô danh bình dị đó .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau
các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch
cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của
cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng
vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân
tộc : Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một
tâm hồn lạc quan phơi phới . Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí

tách reo vui …
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất
nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa
lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .

Sóng - Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nổi lên từ thời kì đầu xây dựng hoà bình với những
bài thơ tươi trẻ qua phần Chồi biếc trong tập thơ Tơ tằm và chồi biếc (in chung với


Cẩm Lai). Thơ Xuân Quỳnh mang nặng tình cảm thiết tha, gắn bó với cuộc đời, biết
vượt lên những thử thách khó khăn để xây dựng hạnh phúc chung. Riêng về thơ tình
Xuân Quỳnh có những tình cảm đằm thắm, đôn hậu, thuỷ chung. Hai bài thơ tình
được nhiều người biết đến là Thuyền và biển và Sóng. Trong cả hai bài thơ tác giả
dùng hình thức ẩn dụ để nói về tình yêu lứa đôi. Quan hệ giữa thuyền và biển là quan
hệ của tình yêu. Biển tượng trưng cho người con gái, thuyền tượng trưng cho người
con trai, quan hệ là gắn bó thắm thiết. Tuy nhiên có lúc biển nổi sóng để xô thuyền
cũng như tình yêu có lúc va chạm. Nhưng rồi cuối cùng vẫn là tình yêu hạnh phúc.
Trong bài Thuyền và biển, Xuân Quỳnh viết:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu”.
Xuân Quỳnh đã khéo liên hệ tạo cho mối quan hệ này nhiều sắc thái phù hợp với tình
yêu đôi lứa và cũng phù hợp với đặc điểm của đối tượng miêu tả:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ.
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố.”
Ở bài Sóng Xuân Quỳnh tập trung hẳn vào hình tượng sóng và qua những biến hoá
của sóng Xuân Quỳnh nói lên tình yêu đôi lứa. Tất nhiên đây không phải là những con
sóng cô đơn mà trong một tương quan gắn bó sóng với bờ, sóng là Em và bờ là Anh.
Có nhiều hiện tượng thiên nhiên có khả năng nói lên được đặc điểm của tình yêu như
ngôi sao, vầng trăng, ngọn gió, ngọn lửa. Nguyễn Đình Thi cũng hay sử dụng những
biểu tượng ngôi sao, ngọn lửa, ngọn gió để nói lên tình yêu:
-“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh”
-“Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh”
-“Anh vẫn yêu em như lữa dữ
Như gió mùa xuân quạt dịu hiều”


Nhưng dù sao mọi hiện tượng đều hữu hạn, và sóng có khả năng biểu hiện khá đầy
đủ sự phong phú của tình yêu. Sóng là một hình tượng ẩn dụ vừa hoá thân vừa hoà
nhập với cái tôi trữ tình. Và ở đây sóng phải góp phần nói lên tình cảm, tình yêu của
một tâm hồn thơ nữ.
Sóng là một hình tượng đẹp của thiên nhiên được vận dụng để nói lên nhiều trạng
thái của tình cảm và riêng với tình yêu thì con sóng phải mang một sắc thái đặc biệt.
Không phải là con sóng nhỏ lăn tăn của ao vàng “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” (Thu
điếu) hoặc như sóng gợn để nói lên nỗi buồn kéo *** “Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp”(Tràng Giang). Bản thân con sóng cũng có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ
dịu êm khi lại ồn ào, dữ dội:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”
Con sóng cũng như tình yêu với bao khát vọng bồi hồi, khi mạnh mẽ khi dịu em, và
sóng cũng phải tìm đến tận biển cả giữa đại dương mênh mông mới thực sự tìm thấy
chính mình, và nhận thức được sức mạnh và những khát khao đích thực của con
sóng.
Con sóng là vĩnh hằng gắn với sự vĩh hằng của biển khơi muôn đời, con sóng của
ngày xưa với con sóng của hôm nay không có gì thay đổi, vẫn dào dạt, vẫn sôi nổi
như tình yêu của tuổi trẻ muôn đời vẫn bồi hồi. Xuân Quỳnh đã liên hệ tình yêu của
tuổi trẻ với con sóng của đại dương:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng phát triển theo những quy luật chung
của đời sống xã hội và những quy luật riêng của mỗi tình yêu lứa đôi, song không dễ
cắt nghĩa được đầy đủ bản chất, sự vận động và những biến hoá của tình yêu. Xuân
Diệu viết:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều


Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.”
Tình yêu là tiếng nói của con tim nên cũng rất khó xác định một cách cụ thể những
tiêu chuẩn của sự yêu thích. Xuân Quỳnh cũng đã nêu lên tính quy luật và không có
quy luật của tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.”

Thực ra: “Gió bắt đầu từ đâu” là có thể giải thích được, nhưng cái khó khăn hơn là
phải giải thích và xác định : “Khi nào ta yêu nhau”, khi nào mặt biển nổi sóng, những
con sóng của tình yêu.
Chính nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Diệu cũng có lúc phải nhận xét:
“Tình yêu đến – tình yêu đi, ai biết.”
Tình yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và một nỗi
nhớ là một tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời khi xa cách sẽ có nhiều
nỗi nhớ: con nhớ cha mẹ, bạn bè nhớ nhau… Nhưng nỗi nhớ trong tình yêu lại có
những đặc điểm khá riêng biệt. Nỗi nhớ được biểu hiện với nhiều màu sắc ở trong
thơ, đó chính là cái chứng tích của tình yêu đích thực.

Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng
“Tây Tiến” một khúc thơ hội tụ hết những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ
những vui tươi rộn rã cho đến bi tráng hào hùng hay một phút lơ đễnh mông
lung. “Tây Tiến” khắc sâu trong lòng người những dư vị khó phai, tựa như
những làn ba thu mát dịu vừa khiến lòng người sảng khoái vừa mang đến sự
lạnh lẽo tái tê.
“Tây Tiến” đó là những nét họa tinh tế, những nốt nhạc trầm vang mà Quang
Dũng đã cẩn thận từng chút sáng tạo nên, vẽ đến cái cao nhất, sâu nhất, gảy
phím đàn cao vút rồi trầm hùng. “Tây Tiến” đó không phải chỉ là miền cương
thổ đầy cát bụi, đấy không chỉ là một nỗi nhớ miên man, mà đấy còn là vẻ đẹp,
là tượng đài của con người, của những người lính trẻ trung, của những chàng
thi sĩ tài hoa dưới lớp áo xanh rì.
Bắt đầu trang thơ cách mạng, mỗi nhà thơ có một phong cách khác nhau, tựa
như Chính Hữu đã gợi lên “Đồng chí” của mình bằng hình ảnh miền quê
nghèo túng, hay Phạm Tiến Duật với hình ảnh những chiếc xe không kính.


Còn với Quang Dũng là gì? Đó không phải là một miền quê mà là một miền

đất người đã đi qua, không phải là một lời trần thuật đơn thuần mà là một
tiếng gọi. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi nhung nhớ, tiếng gọi đã đưa người
lính trở thành một biểu tượng của nỗi nhớ thương:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Khúc tráng ca dần dần được mở ra, trong dư âm của tiếng lòng. “Tây Tiến ơi!”
ba tiếng vang lên với tất cả những gì tha thiết nhất, dạt dào nhất mà cũng đớn
đau nhất, lẩn khuất vào lòng người và rung lên những xúc cảm tinh tế. “Tây
Tiến” đó chỉ đơn thuần là tên một chiến dịch, tên một đơn vị nhưng lại được
cất lên như tiếng gọi tới người mình yêu thương. Cách gọi ấy đầy đam mê,
cùng nuối tiếc, tiếng gọi như vút dài trong suốt chiều dài của con sông Mã, từ
một âm thanh tạo nên một hình ảnh thơ đậm chất tạo hình. Chúng ta luôn
nghĩ rằng, những con người của chiến trường, dưới tầng tầng bom đạn, hẳn
sẽ vô cùng cứng rắn, nhưng ngay với câu thơ đầu tiên, Quang Dũng đã cho
chúng ta thấy sự mềm yếu rất chân thật trong tâm hồn người lính. Chúng ta
như nhìn thấy hình ảnh một con người, đứng bên dòng sông, với đôi mắt cuộn
sóng đỏ, run rẩy mà thốt lên lời chia biệt mà cũng là lời nhớ nhung. Người lính
nghe trong lòng một nỗi “chơi vơi”, một khoảng trống không gì bù đắp được,
một con tim đói khát nhưng không thể tìm được nguồn thỏa mãn. Nỗi nhớ sâu
đến sắc, nỗi nhớ khôn nguôi, nỗi nhớ tầng tầng giăng mắc khắp núi rừng Tây
Bắc. Những hồi ức cứ chốc chốc hiện lên chan hòa trên “đường lên thăm
thẳm mùa chia phôi” trong cái “Tây Tiến mùa xuân ấy”. Từng lời thơ trôi nổi,
bồng bềnh, hòa lẫn giữa cái bi thương cùng quyết liệt, giữa sự ám ảnh mà
vẫn thật mộng mơ, tâm hồn con người hẳn phải rất tinh tế và nhạy cảm, trái
tim chiến sĩ không chai sạn như người ta vẫn nghĩ, nó cháy bỏng tình yêu, dạt
dào nhung nhớ, tràn đầy những cung bậc cảm xúc khác nhau mà sẽ rung lên
mãnh liệt mỗi khi tìm được nguồn cảm hứng. Nỗi nhớ của người lính, đó là nỗi
nhớ máu thịt, nỗi nhớ không thể tách rời khỏi thân thể, tựa như là một phần
của trái tim, là bản năng vốn có, họ có thể không tiếc thân mình, xông pha
chiến tuyến, cười vang trước những gian nan nhưng cũng dễ dàng rơi lệ trong

giây phút biệt ly. Những người chiến sĩ cùng nỗi nhớ mà Quang Dũng tạo nên
không phải là những gì cao cả, cao quý xa vời, đó không phải một bức tượng
uy nghiêm, hùng tráng, đó là sự giản dị và chân thật trong tâm hồn, khiến cho
chúng ta tựa như đến gần với những còn người “sống mãi tuổi 20′′ kia.
Người lính của Quang Dũng không đơn giản chỉ được thể hiện trong những
nhung nhớ mông lung, giống như chính ngòi bút của ông kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lối miêu tả thực tế cùng lãng mạng. Những người chiến cùng chí
khí còn được bộc lộ nhiều hơn trong cuộc hành quân của họ. Nhắc đến hai
từ “trường chinh” người ta liền nghĩ đến một cái gì đó thật dài dặc, thật gian
nan và tràn đầy nguy hiểm. Quả thực là như vậy, những con đường hành
quân cực nhọc của người lính Tây Tiến cứ nối tiếp hiện ra, bắt đầu từ một
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” , một chốn “Lam Sơn chướng khí”, nếu
như khi nói về sương người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp lãng mạng, bồng bềnh
như trong Việt Bắc của Tố Hữu có câu:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Nhưng với Quang Dũng cũng như binh đoàn Tây Tiến thì trái ngược hẳn,


sương trước hết đó là những màn sương mù dày đặc “lấp” người, một thử
thách thực sự gành cho con người mà chỉ những ai có bản lĩnh thật sự mới
dám dương đầu. Nhưng trước hoàn cảnh đó, thái độ của người lính ra sao,
thật lạ kỳ, họ không hề sợ hãi, họ dường như coi “sương lấp” kia trở thành
những “bản khói cùng sương” thơ mộng vậy, người chiến sĩ đối mặt với gian
nguy với một tâm hồn lạc quan đầy sức trẻ, với cái gọi là “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”. Mới câu thơ trên ta còn bị cảm giác rợn ngợp xâm chiếm
nhưng ngay câu thơ sau đã chao đảo trong vẻ đẹp thần kì của đêm núi rừng.
“Hoa về” ở đây không đơn giản là những đóa hoa thiên nhiên, không phải
dáng hình thiếu nữ, đó là sự thăng hoa trong tâm hồn, là những xúc cảm căng
tràn, là ước ao trải nghiệm trước gian nguy. Ngòi bút Quang Dũng không hề

che đậy thực tiễn khốc liệt cũng giống như người lính hứng khởi muốn thử
sức mình trước những hiểm nguy. Họ đối mặt khó khăn với một niềm say mê,
thích thú tới man dại, dường như chính những gian khổ ấy đã khiến cho bọn
họ bừng giấc khỏi những mệt mỏi trên đường. Mà còn hơn thế nữa, sương
khói kia chỉ mới là khúc dạo đầu cho một bản trường ca bất tận, tất cả thử
thách còn đang chờ đợi phía trước mà ấn tượng nhất chính là địa hình núi cao
vực sâu đầy hiểm trở của Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”
Từ “dốc” được điệp lại nhiều lần trong câu thơ kết với với những tính từ mạnh
như “khúc khuỷu” và “thăm thẳm” đã vẽ nên cả một không giang hùng vĩ và
oai linh. Dốc đã lên cao thì sẽ lên cao vút mà đã xuống sâu thì sâu đến vô
cùng. Hai tiếng “khúc khuỷu” còn làm cho ta liên tưởng tới một con đường
mấp mô không hề bằng phẳng như người Tây Bắc thường có câu “Mỗi bước
đi đầu gối chạm cằm” để hình dung về những con dốc cheo leo hiểm trở.
Những người lính đã phải vật lộn với những đèo cao và dốc đứng ấy trong
suốt quãng đường hành quân qua miền biên cương Tổ quốc. Nhưng đó mới
chỉ là những gian khổ ta có thể hình dung, trên thực tế còn có những hiểm
nguy mà ta khó lòng tưởng tượng ra nổi.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Ở đây có một hình tượng rất đặc biệt “cồn mây” không phải “cồn đất” hay “cồn
cỏ” mà là “cồn mây”, đây cũng càng không phải một sự tránh lập lại ý thơ,
trước có núi đá thì nay có mây trời, đây là một thử thách thật sự của người
lính. Có lẽ nhiều người sẽ thấy hình tượng này quá mức lãng mạng, nhưng
không, đó cũng chính là một dụng ý của Quang Dũng, nếu như trong cả bài
thơ, tác giả đã tinh tế dùng những hình ảnh đối lập giữa hiện thực khó khăn và
cảnh sắc mộng mơ, thì ở đây ý thơ hiện thực đã được chia ra giữa hình ảnh
thực “dốc núi” và huyễn thực “cồn mây”. Dường như “heo hút cồn mây” kia đã
trở thành một thử thách chỉ dành cho người lính, một món quà rất đặc biệt mà
Tây Bắc dành tặng những chiến sĩ áo xanh để thử chí nam nhi. Ngoài ra, hình
ảnh thơ dường như lạc lõng này còn là sự nhấn mạnh, khiến chúng ta thấy rõ

những gian nguy trong quãng đường hành quân của người lính rất đa dạng,
nhiều khi là chút khó khăn vụn vặt, nhưng cũng có khi là thử thách khôn cùng.
Tuy nhiên, dẫu có khó khăn đến mức nào, gian khổ ra sao thì đoàn binh Tây
Tiến vẫn giữ nguyên cho mình một thái độ lạc quan mà còn thêm phần tếu táo
khi thốt lên “súng ngửi trời”. Đây là một cách nói đậm chất lính, những chàng
bộ đội trẻ lại dùng từ “ngửi”, một giác quan tầm thường để cảm nhận chốn linh
thiêng. Điều này cho thấy sự lạc quan cùng hào sảng của người lính trẻ. Họ


đứng trước gian khổ nhưng chí không sờn, lòng không nao núng, họ vẫn cười
đùa và coi thường mọi thứ dù có khi những lời cười cợt ấy chỉ là một cách để
họ quên đi gian nguy. Họ đã coi mình trở thành vẻ đẹp trung tâm của tạo hóa,
tiếng cười vang lên để xua đi khó khăn, biến cực nhọc thành thứ tầm thường.
Để rồi sau một chặng hành quân dài dặc họ có thể sảng khoái nhìn lại những
thành quả mình đạt được:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
“Ngàn thước”, “ngàn thước” lên cao xuống thấp, đó chính là những chặng
đường mà người chiến sĩ đi qua. Họ dường như đã chỉ thẳng vào gian nan mà
khảng khái nói rằng, dẫu có bao nhiêu khó khăn gian khổ nữa họ vẫn có thể
vượt qua, chắc chắn vượt qua và nhất định sẽ vượt qua. Vóc dáng của người
lính bỗng chốc trở nên cao lớn, nó không còn những cái mềm mại của một hồi
nhung nhớ, nó không tếu táo như những phút vui đùa, nó nghiêm nghị và oai
nghiêm khiến người ta cảm phục. Đối với họ thử thách thực sự không phải là
chút sóng lòng sông, không phải ít nhiều trắc trở núi rừng mà phải được đo
bằng “ngàn thước”, chỉ những gì là “ngàn thước” mới có thể được coi là thử
thách đối với họ. Hiện thực gian khổ là thế nhưng ý chí của người lính vẫn vút
cao, sự mạnh mẽ, rắn rỏi như tăng dần lên sau từng thử thách. Họ không vì
cực nhọc mà nhụt chí, cực nhọc cho họ thêm chí hướng, cùng sức mạnh để
tiếp tục chặng đường bảo vệ nước nhà.
Chí khí ngút trời, lòng quân vững chãi, nhưng dẫu nói gì đi nữa hò vẫn là

những chàng trai trẻ của đất Hà thành đầy hào hoa và lãng mạng. Suốt một
dọc hành quân gian lao, đoàn binh Tây Tiến đã thể hiện con người chiến sĩ
của mình, thì đến khi đôi chân đã mỏi, dừng lại chốn bản làng thì tất cả nhưng
phong hoa, thi sĩ bị kìm nén bao lâu liền bất chợt tuôn trào:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ?
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Cả khung cảnh rực rỡ sắc hoa, lấp lánh ánh sáng, quay cuồng trong những
khúc nhạc tưng bừng. Những chàng trai cởi bỏ lớp áo xanh, buông lơi cây
súng, trở về với chính con người vốn có của mình. Tất cả như ấm dần lên, tất
cả như ngả nghiêng và ngây nhất trong ánh sáng lửa đuốc, trong điệu man
của khèn của nhạc. Như hoa, tựa mộng, những phút giây ngập tràn cảm hứng,
những chiếc lán cũng thành doanh trại oai nghiêm, đêm lửa đuốc thành “hội
đuốc hoa” tráng lệ. Giờ phút này họ như quên đi hết tất thảy gian nguy, đứng
đón gió nghe tiếng khèn vang, bên ngọn lửa say mê ca vũ. Nếu như trong
“Đồng Chí” của Chính Hữu, người lính hiện lên thật đơn thuần giản dị với “Yêu
nhau tay nắm lấy bàn tay” hay “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” thì những
người lính của Tây Tiến lại trái ngược hoàn toàn. Họ tếu táo, nghịch ngợm,
thỉnh thoảng để lại lời trêu ghẹo “Kìa em, xiêm áo tự bao giờ”. Cả không gian
vang vọng tiếng cười sảng khoái, tựa như xuân phong mãn ý, xuân tình nở rộ.
Sự hiện diện của “em”, sự e ấp tình tứ của “em” như đã gột rửa bụi trường
chinh trên vai anh, để anh đắm đuổi trong không gian mà em, nhạc cùng thơ
quấn quít. Người lính đã trở thành những chàng thi sĩ nhạy cảm, xao xuyến
trước vẻ thi vị của cảnh sắc núi non của con người Tây Bắc, lòng họ rạo rực
ngọn lửa tình yêu, tưng bừng sức trẻ, tâm hồn họ lúc này như được sinh ra từ
nhạc, từ thơ. Ngọn lửa cháy bỏng ánh lên dung nhan thiếu nữ, ngọn lửa múa



×