Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN dạy giải toán có lời văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.27 KB, 20 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN ÂN THI
TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA THÁM

----------------™'&'˜---------------

Lĩnh vực: Toán / Lớp 3
Họ và tên: Đàm Thị Ngân
Chức vụ: Tổ trưởng CM tổ 2 + 3
Tài liệu đính kèm:......................................................................................................

====================T&

Đàm Thị Ngân

Năm học : 2011 - 2012 &T======================

Trường1T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU
Phần I : Đặt vấn đề
I - Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy giải toán hợp lớp 3


II - Lí do chọn đề tài
III - Đối tượng nghiên cứu
IV - Phương pháp nghiên cứu
Phần II : Nội dung
I - Đặc điểm tình hình
II - Nội dung thực hiện
III - Biện pháp thực hiện
1. Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm lời giải cho bài toán
3. Trình bày bài giải
4. Các bước tiến hành dạy giải một bài toán hợp
Phần I : Kết luận
I - Kết quả
II - Bài học kinh nghiệm
III - Ý kiến đề xuất
LỜI KẾT

Đàm Thị Ngân

Trang
2
3
3
3
5
5
6
6
6
6

6
9
11
12
14
14
14
15
16

Trường2T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

LỜI MỞ ĐẦU
Bạn đọc thân mến!
Nói đến Toán học là nói đến các con số. Nói đến các con số là nói
đến độ dài, số lượng, trọng lượng,…Nói cách khác, khi nói đến Toán học
là người ta không dùng những từ ngữ hoa mĩ, dườm dà mà sử dụng toàn
một loại từ ngữ và con số gọn ghẽ, tròn trịa và chính xác.
Là một người không hẳn không thích Toán học nhưng lại có xu
hướng gần gũi với văn học hơn, nên đôi chỗ, trong bản viết này, người
viết cố tình lan man “theo dòng văn học”. Mong rằng, sự bày đặt ấy
không làm mất đi cái duyên thầm và vẻ đẹp thuần túy, mộc mạc vốn có của
Toán học, mà nó còn giúp cho bạn đọc vơi bớt đi những căng thẳng
thường xảy ra khi phải tiếp xúc với những đường thẳng, những con số,…
Để rồi, thông qua những đoạn tự sự ấy, những hình khối, những đường nét

Toán học và tầm quan trọng của nó được hiện ra có màu sắc đậm đà, rõ
nét hơn.
Hy vọng rằng, đề tài nhỏ này sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ ràng hơn cốt
lõi của vấn đề và cũng phần nào giúp bạn đọc giải tỏa được những thắc
mắc, những băn khoăn đã vấp phải khi giảng dạy ở nội dung này.
Tác giả

Đàm Thị Ngân

Trường3T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

PHẦN I – ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC DẠY GIẢI TOÁN HỢP LỚP 3:

Như chúng ta đã biết, một trong bốn mạch kiến thức ở môn Toán 3 là
giải bài toán có lời văn. Trong sách giáo khoa (SGK) Toán 3, các bài toán
có lời văn (toán đơn và toán hợp) được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến
thức khác. Đây là mạch kiến thức khó, đòi hỏi khả năng phân tích, tổng
hợp của học sinh (HS) khi học tập. Trong chương trình Toán 3, ngoài các
bài toán đơn (bài toán giải bằng 1 phép tính), học sinh còn được học các
bài toán hợp, bài toán giải bằng 2 phép tính (2 bước tính). Mỗi bước tính là
bước giải một bài toán đơn. Kết quả phép tính ở bước tính thứ nhất sẽ là
một thành phần của phép tính ở bước giải thứ hai. Số bài toán hợp chiếm
một tỉ lệ lớn trong mạch kiến thức giải toán, xuyên suốt chương trình Toán
3.

So với 3 mạch kiến thức còn lại (Số học, Hình học và Đo lường),
khối lượng mạch Giải toán không nhiều (chiếm khoảng 9%), song nó
không chỉ giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển tư duy toán học nói
chung mà còn là yếu tố chính trong việc hình thành và phát triển tư duy
trừu tượng, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và cách nhìn nhận
thấu đáo, khúc triết trong cách giải quyết vấn đề của học sinh.
Với tầm quan trọng như vậy, việc dạy giải toán có lời văn cho HS
lớp 3 là một vấn đề không thể xem nhẹ. Nhưng trên thực tế, có rất nhiều
giáo viên đều lầm tưởng rằng, việc dạy giải các bài toán có 1-2 phép tính là
một việc làm đơn giản, không có gì là khó khăn, cứ theo “mẫu” mà dập.
Nhưng nếu nghiêm túc mổ xẻ, bóc tách vào tận cốt lõi của vấn đề, có lẽ lúc
đó ta sẽ thấy những suy nghĩ của mình còn hời hợt và cần phải xem xét lại.
Vậy cốt lõi của vấn đề có liên quan tới việc giải các bài toán hợp ở lớp 3 là
ở đâu?...
II- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Khi chọn viết đề tài, chắc hẳn mỗi người đều có một lí do nào đấy
cho riêng mình. Nhưng tôi xin phép được khoan nói tới lí do của mình và
mạn phép bạn đọc được hồi tưởng lại một chút ký ức của tuổi thơ. Xin bạn
đừng vội bực mình vì sự dông dài của người viết, bởi nó cũng là nguyên
nhân, đúng hơn là động lực sâu xa, khiến tôi thực hiện đề tài này.

Đàm Thị Ngân

Trường4T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3


Đó là những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ trước, khi tôi còn là
một HS trường cấp I. Ngày ấy, tôi là một HS khá cần mẫn, tính toán vào
loại nhanh nhạy. Những con tính cộng, trừ, nhân, chia tôi làm rất thuần
thục. Những điểm 9, 10 thì cứ liên tục xuất hiện trên mỗi trang vở. Tôi
được đánh giá là một học sinh giỏi. Hàng tháng, tôi luôn đứng ở vị trí đầu
lớp và rất ít khi bị tụt xuống vị trí số 2 hoặc số 3. Thế rồi, đến cuối năm
học lớp 4 hay lớp 5 gì đó ( về mốc thời gian tôi nhớ không chính xác lắm),
những bài toán lạ đột nhiên xuất hiện. Điều khác hẳn với những bài toán
trước là loại bài toán này phải làm từ hai phép tính trở nên mới ra được đáp
số. Đám học trò trong lớp, kể cả mấy đứa học sinh giỏi chúng tôi đều nháo
nhác cả lên vì sự hóc búa của bài toán. Để học sinh dễ trả lời, cô giáo tôi
đành phải hỏi lần lượt từng bước tính. Đại loại như: “Muốn tìm A thì em
làm thế nào?” (Dạ, lấy X chia cho Y). “Vậy khi biết A rồi, muốn tìm B thì
em làm thế nào?” (Dạ, lấy A x M)…v.v…và …v.v…
Đương nhiên, với những câu hỏi trực tiếp để tìm phép tính như vậy
thì tôi làm ngon ơ. Nhưng ngặt một nỗi, nếu để tôi tự làm từ đầu đến cuối
thì tôi mù tịt. Thế là thay vì những điểm 9, 10, những điểm 1, 2 cứ chồng
chất trong quyển vở của tôi. Chẳng riêng gì tôi mà cả lũ bạn bè trong lớp
của tôi cũng vậy. Thế là cô giáo bực dọc, quát tháo, chê bai chúng tôi là
lười nhác, ngu dốt. Sợ hãi, tôi càng chăm chỉ. Nhưng dù chăm chỉ đến
mấy, cần mẫn đến mấy, bộ óc thơ ngây, non nớt của tôi cứ mít đặc. Mỗi
khi đọc đề toán, tôi không biết mình phải bắt đầu từ đâu. Tôi cứ băn khoăn
tự hỏi, không biết làm cách nào để biết được đâu là bước tính đầu tiên. Nói
một cách đầy đủ, tôi không biết điểm xuất phát cũng như con đường nào
dẫn đến đáp số của bài toán. Hồi ấy, tôi không rõ nguyên căn của sự tình,
chỉ nghĩ là bài quá khó đối với khả năng của mình.
Dời cấp I, tôi được học qua nhiều thầy cô giáo khác, nhưng những
vấp váp về kiến thức thời học cấp I hình như làm tôi thiếu tự tin và không
còn được năng động như trước. Đôi khi, tôi cũng được chọn đi dự thi học

sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, nhưng chẳng bao giờ có giải. Tôi thấy kiến
thức của mình cứ thiếu hụt ở một góc nào đó mà tôi không thể lí giải nổi.
Tôi lớn lên, vào sư phạm rồi trở thành cô giáo. Niềm vui của một
giáo sinh mới ra trường cùng với những bài giảng say sưa trên lớp đã khiến
tôi tạm thời quên đi dấu ấn thuở nào. Rồi đến một ngày, khi dạy đến những
bài toán hợp, những điểm kém của học trò tự nhiên cứ liên tiếp xuất hiện.
Tôi băn khoăn tự hỏi, chẳng lẽ sự nhiệt tình của tôi như vậy vẫn còn chưa
đủ? Tôi thao thức nhiều đêm không ngủ, mong tìm ra câu trả lời thích
đáng. Rồi tôi cũng tìm được câu trả lời cho mình. Đúng hơn là trong những
đêm trằn trọc suy nghĩ đó, cái dấu ấn đậm nét thuở nào đột nhiên hiện về.
Đàm Thị Ngân

Trường5T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

Bộ óc người lớn cùng với những kĩ năng sư phạm đã giúp tôi đánh giá
được đúng vấn đề. Thì ra tôi đang dẫm lên vết xe của cô giáo cũ, cả thầy
trò tôi đều đi sai phương pháp! Khi dạy về giải loại toán này, tôi đã không
hướng dẫn HS đi đúng con đường dẫn đến đáp số của bài toán. Tôi đã nghĩ
rằng, những điều đơn giản này học sinh làm gì chẳng biết. Tôi đâu nghĩ ra
rằng, với một người lớn như tôi thì những bài toán cỏn con kia quả thực là
cực kì đơn giản, nhưng với những bộ óc non nớt của trẻ thơ giống như tôi
thuở nào thì nó lại cực kì phức tạp, bởi đó là một thế giới hoàn toàn mới
mẻ mà các em chưa hề bước chân vào. Chính vì tôi không nghĩ ra điều đó
nên tôi đã không kĩ càng hướng dẫn học sinh suy nghĩ, tìm cách giải của
bài toán là đi từ câu hỏi của bài toán ngược trở lại những cái đã biết. Để

rồi, cũng như tôi thuở xưa, trên khuôn mặt thơ ngây của đám học trò cứ
phảng phất dấu hỏi: Làm thế nào để biết được đâu là bước tính đầu tiên?...
Thật may là tôi đã thấu hiểu nỗi băn khoăn đó. Tôi đã hiểu, đã điều
chỉnh lại bài giảng của mình. Đó cũng chính là lí do tôi viết bản sáng kiến
kinh nghiệm này.
III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

- Đối tượng chung: Toàn thể HS khối lớp 3
- Đối tượng cụ thể: 27 HS lớp 3A
IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

-

PP lí luận, thực tiễn.
PP điều tra, thống kê.
PP phân tích, tổng hợp.
PP đàm thoại, gợi mở.
PP thực nghiệm, kiểm chứng.
PP thực hành.
PP đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.
…….

Đàm Thị Ngân

Trường6T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3


PHẦN II – NỘI DUNG
I- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

Đầu năm học 2011-2012, được sự phân công của Ban giám hiệu nhà
trường, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 3A, đồng thời kiêm nhiệm
công tác Tổ trưởng chuyên môn Tổ 2- 3. Ngay trong tháng đầu khảo sát và
qua việc giảng dạy, tôi đã phát hiện ra tổ mình đang gặp phải một vấn đề.
Đó là sự không nhất quán trong ngôn ngữ cũng như trong phương pháp
truyền thụ và giữa các giáo viên trong tổ. Đặc biệt, trong môn toán, phần
giải toán, các câu trả lời của HS không có sự thống nhất, em trả lời kiểu
này, em trả lời kiểu kia. Rồi danh số, đáp số cũng ghi không hợp lí. Tất cả
điều đó chứng tỏ, khi dạy mảng kiến thức này, giáo viên các lớp chưa thật
sự đi sâu vào phương pháp tìm lời giải, mỗi cô lại hướng dẫn trình bày một
kiểu, một cách khác nhau, dẫn đến sự bất hợp lí nói trên.
II- NỘI DUNG THỰC HIỆN:

Để khắc phục tình trạng bất ổn trên, ngay đầu tháng thứ hai của năm
học 2011-2012, tôi, với vai trò Tổ trưởng chuyên môn, đã cùng với các tổ
viên khối 3 xây dựng ngay chuyên đề: “Dạy giải toán có lời văn lớp 3” để
cùng nhau tháo gỡ những khó khăn mà học sinh mắc phải và thống nhất
trong toàn tổ về phương pháp giảng dạy cũng như cách thức trình bày dạng
toán này. Chuyên đề đặc biệt đi sâu vào giải các bài toán hợp. Nội dung
gồm 4 phần:
1.
2.
3.
4.

Tóm tắt bài toán.

Tìm lời giải cho bài toán
Trình bày bài giải.
Các bước tiến hành.

III-BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

1. Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý:
Như chúng ta đã biết, phần tóm tắt bài toán không phải là một thành
phần trong khâu trình bày bài giải, nhưng là phần quan trọng giúp HS có
cái nhìn tổng thể về toàn bộ nội dụng bài toán, từ đó tìm được mối liên hệ
cần thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua đó, giúp các em biết lựa chọn
phép tính thích hợp. Đối với lớp 3 (cũng như đối với HS tiểu học nói
chung), sử dụng sơ đồ đoạn thẳng (SĐĐT) để tóm tắt là hợp lí nhất. SĐĐT
không những giúp các em có một cái nhìn khái quát về bài toán mà còn
Đàm Thị Ngân

Trường7T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

giúp các em nhận ra cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa chúng.
Trong những trường hợp không thể sử dụng được SĐĐT thì ta mới nên
dùng quy ước bằng lời để tóm tắt.
Một điều GV cần ghi nhớ là để HS làm tốt các bài toán hợp thì GV
cần hướng dẫn HS rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài toán đơn. Vì vậy, việc
rèn cho HS thuần thục khâu tóm tắt các bài toán đơn (chủ yếu bằng SĐĐT)
là không thể thiếu. Việc thuần thục khâu tóm tắt bài toán đơn không những

giúp HS nhanh chóng tìm ra lời giải, mà nó còn là cơ sở giúp HS có kĩ
năng tóm tắt và giải các bài toán hợp.
Ví dụ, với dạng sơ đồ tóm tắt bài toán đơn loại “Nhiều hơn” như:
230 kg
Buổi sáng:
90 kg
Buổi chiều:
? kg
Ta cũng có dạng sơ đồ tóm tắt cho bài toán hợp tương ứng:
230 kg
Buổi sáng:
90 kg

? kg

Buổi chiều:
Một ví dụ khác, khi học loại toán “ Gấp một số lên nhiều lần” ta có
dạng tóm tắt kiểu như:
10 tuổi
Con:
Mẹ:
? tuổi
Thì khi học đến toán hợp, ta cũng có kiểu tóm tắt :
Đàm Thị Ngân

Trường8T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học


Dạy giải toán hợp Lớp 3

10 tuổi
Con:
? tuổi
Mẹ:
Khi hướng dẫn HS vẽ sơ đồ, GV cần lưu ý HS dóng thẳng các vị trí
đầu mút có giá trị so sánh. Với các bài toán dạng chia phần hoặc gấp, giảm,
các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ cần đảm bảo tính chính xác
tuyệt đối (sử dụng thước có chia vạch cm hoặc dòng kẻ ô li). Còn những
bài toán dạng hơn, kém ( hoặc nhiều hơn, ít hơn) thì các phần được chia ra
chỉ mang tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được sự chính xác tương đối
(ước lượng bằng mắt).
Bên cạnh việc luyện cho HS kĩ năng tóm tắt đề toán, GV cũng cần
chú trọng luyện cách nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải. Chẳng hạn:
Nêu bài toán theo tóm tắt sau rồi giải:
50 kg
Bao gạo:
15 kg
Bao ngô:
? kg
HS có thể nêu thành bài toán:
Bao gạo cân nặng 50 kg, bao ngô cân nặng hơn bao gạo 15 kg. Hỏi
bao ngô cân nặng bao nhiêu ki - lô - gam ?
Khi đã hiểu được rõ gốc gác của sơ đồ như vậy thì HS sẽ chọn được
ngay phép tính cộng để giải bài toán.
Với cách dạy học như vậy, việc dạy giải bài toán hớp có 2 phép tính
sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn nhiều. HS sẽ giải được không mấy khó khăn
bài toán có dạng tóm tắt:
50 kg

Bao gạo:
15 kg
Đàm Thị Ngân

? kg

Trường9T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

Bao ngô:
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm lời giải cho bài toán:
Ở lớp 3, các bài toán hợp chỉ dừng lại ở 2 bước tính. Việc chọn phép
tính đúng cho mỗi câu lời giải đã được HS thực hành nhuần nhuyễn từ khi
giải các bài toán đơn. Vì vậy, kĩ năng này không còn là vấn đề cốt lõi khi
dạy giải các bài toán hợp. Vấn đề mấu chốt khi dạy HS giải các bài toán
này nằm ở chính đặc điểm của dạng toán. Đó là làm sao cho HS nhận biết
được đó là một bài toán hợp (bài toán phải giải bằng 2 phép tính). Thực tế
cho thấy, rất nhiều HS sau khi đọc xong một đề toán hợp, không biết rằng
bài toán cần phải giải bằng 2 bước tính. Thế là tóm luôn câu hỏi để đặt câu
trả lời, để rồi chẳng biết phải chọn phép tính nào cho đúng. Để giúp HS
tránh được sai sót này, GV cần xây dựng một hệ thống câu hỏi để giúp HS
đi tìm lời giải của bài toán. Đây chính là quá trình phân tích bài toán để tìm
câu trả lời. Nói chính xác là để tìm đúng thứ tự của 2 bước tính.
Quá trình phân tích bài toán cho phép ta tách một bài toán hợp (mà
HS chưa giải được) thành 2 bài toán đơn (loại toán mà HS quá quen
thuộc). Điều này cũng giống như việc bẻ gãy cả đôi đũa thì không được

nên ta phải tìm cách tách nó ra từng chiếc một.
Như quan điểm ban đầu của người viết (đã phân tích kĩ càng ở phần
“Lí do chọn đề tài”), quá trình phân tích bài toán để tìm lời giải phải theo
kiểu đi ngược từ câu hỏi đến cái đã cho. Nhưng trong thực tế, rất nhiều GV
đều có chung phương pháp là hướng dẫn HS đi xuôi từ cái đã cho đến câu
hỏi.
Ví dụ, với bài toán sau:
Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng
thứ nhất 6 lít dâu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ? (BT2 - Tr50 Toán 3).
GV thường hướng dẫn HS giải từng bước như sau:
- Bài toán cho biết gì ? (Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai
đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu)
- Vậy muốn biết thùng thứ hai đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào ?
(lấy 18 + 6 = 24 (lít))
- Bây giờ đã biết thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng
24 lít dầu. Vậy muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu, em
làm thế nào ? (Lấy 18 + 24 = 42 (lít)).
Thực tế, cách trên rất dễ thực hiện, nó vừa làm cho bài giảng trở nên
suôn sẻ, trôi chảy, lại vừa làm cho HS đỡ mệt óc vì không phải động não
Đàm Thị Ngân

Trường10
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

nhiều. Đó chính là cách giải bài toán theo lối tổng hợp. Ở đây, bám theo lời

văn của đề bài, ta lần lượt giải 2 bài toán đơn:
Bài toán 1: ……….. Tìm số lít dầu ở thùng thứ hai.
Bài toán 2: …………Tìm số lít dầu ở cả hai thùng.
Kết hợp (tổng hợp) lại ta có cách giải bài toán đã cho.
Song cách làm này không đặc trưng cho phương pháp tìm cách giải
của các bài toán trong toán học và trong thực tế. Do đó, nó không giúp HS
nắm được đường lối chung để giải các bài toán, không giúp HS giải được
các bài toán khó hơn trong toán học và trong cuộc sống sau này. Ngẫm lại
quãng đường học tập thuở ấu thơ của mình, tôi có thể khẳng định chắc
chắn rằng, chính tôi là minh chứng sống về những lỗi lầm của phương
pháp dạy học nói trên. Tuy vậy, phương pháp này lại có thể áp dụng hữu
hiệu cho các HS yếu kém, bởi ở những HS này, kĩ năng phân tích và tổng
hợp rất hạn chế, cần dẫn dắt từng bước nhỏ thì các em mới hiểu ra vấn đề.
Vì vậy, GV cần có sự điều chỉnh trong cách dạy và nên nhớ chỉ nên dùng
một cách rất hạn chế phương pháp trên.
Trở lại vấn đề ban đầu, để giúp HS tìm ra lời giải của bài toán, GV
cần hướng dẫn HS suy nghĩ đi từ câu hỏi của bài toán đến những cái đã
cho. Cách phân tích bài toán như vậy có làm cho HS hơi mệt óc vì phải
động não, song đổi lại, các em sẽ trở nên thông minh hơn, đầu óc sẽ dần
dần tinh tế hơn. Vì vậy, nên sử dụng cách đó thường xuyên. Đặc biệt, với
những đối tượng HS khá, giỏi thì đây là phương pháp hữu hiệu nhất. Với
những phương pháp này thì bài toán 2 (Tr50 – Toán 3) (đã nêu ở trên) ta có
thể hướng dẫn HS suy nghĩ như sau:
- Bài toán đã cho biết gì ? (Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ
2 đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu).
- Bài toán hỏi gì ? (Cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu ?).
( Đây là 2 câu hỏi giúp HS nắm rõ đâu là điều kiện của bài toán (cái đã
biết), đâu là câu hỏi của bài toán (cái cần tìm) nên GV cần cho vài HS nhắc
lại để các em nắm chắc nội dung cũng như yêu cầu của đề).
- Muốn biết cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu em làm thế nào?

( Lấy số lít dầu ở thùng thứ nhất cộng với số lít dầu ở thùng thứ hai).
- Số lít dầu ở thùng thứ nhất biết chưa ? ( Biết rồi: 18 lít dầu).
- Số lít dầu ở thùng thứ hai biết chưa ? ( Chưa).
- Vậy muốn biết số lít dầu ở thùng thứ hai em làm thế nào?
( Lấy số lít dầu ở thùng thứ nhất cộng với 6)
- Vậy để giải bài toán này, trước hết ta phải đi tìm cái gì?
( Trước hết ta phải tìm số dầu đựng ở thùng thứ hai)
….
Đàm Thị Ngân

Trường11
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

Quá trình suy nghĩ trên không những giúp HS tách được bài toán đã
cho thành hai bài toán đơn ( loại toán các em đã quá quen thuộc) mà còn
giúp các em biết cần phải suy nghĩ từ đâu và thứ tự thực hiện các bước như
thế nào.
3. Trình bày bài giải:
Khi đã tìm được cách giải bài toán thì việc cuối cùng cần làm là trình
bày bài giải. Phần trình bày bài giải các bài toán hợp (ở lớp 3) bao gồm 2
câu lời giải, 2 phép tính và đáp số. Hầu hết các bài toán có lời văn đều có
chung một cấu trúc trình bày bài giải: Sau mỗi câu lời giải là một phép tính
tương ứng, cuối cùng ghi đáp số ở góc bên phải.
Tuy nhiên, ở lớp 3 cũng có những bài toán mà câu trả lời lại phải đặt
sau phép tính. Chẳng hạn:

Một lớp học có 33 học sinh, phòng học của lớp đó chỉ có loại bàn
hai chỗ ngồi. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn học như thế? (BT2 – Tr71 –
Toán 3).
Với loại bài như thế này, ta có thể trình bày bài giải như sau:
Thực hiện phép chia, ta có:
33 : 2 = 16 (dư 1)
Số bàn có hai HS ngồi là 16 bàn, còn 1 HS nữa cần có thêm một
bàn. Vậy số bàn cần có ít nhất là:
16 + 1 = 17 ( bàn)
Đáp số: 17 cái bàn.
Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn cũng như các bài toán hợp
không có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung
câu lời giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi
cái cần tìm biểu thị.
Ví dụ: Số lít dầu
Cái cần tìm

đựng ở thùng thứ hai
Phạm vi cái cần tìm biểu thị

Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều
này nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời
theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường
hợp nội dung câu trả lời chỉ có một phần ( Phần 1) thì mỗi phép tính
thường có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau ( hoặc
ngược lại).
Đàm Thị Ngân

Trường12
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên



Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

Để có sự nhất quán, GV cần hướng dẫn HS (và quy định rõ ràng) là
đặt phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi mới đến phần 2 (phạm vi cái cần tìm
biểu thị).
Ví dụ: Nên trả lời:
- Số lít dầu đựng ở thùng thứ hai là:
- Số học sinh ở mỗi hàng là:
Không nên trả lời:
- Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
- Mỗi hàng có số học sinh là:
Cách trả lời nào cũng đúng, nhưng trả lời theo cách thứ nhất không
những khúc triết, rõ ràng hơn mà còn giúp HS ghi đúng ngay tên đơn vị
(danh số) sau khi thực hiện phép tính.
Khi viết câu lời giải, GV cũng cần lưu ý HS không được viết tắt các
đơn vị đo lường ( VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ ki - lô gam”, không viết “ m” mà phải viết là “ mét”,…), các đơn vị này chỉ viết
tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5 kg, 10 m,…).
Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, GV cũng cần lưu
ý hướng dẫn viết tên đơn vị ( danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho
phù hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như:
con gà, cái thuyền, kg gạo,…Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta
chỉ cần ghi đơn vị chỉ lượng đứng trước là: Con, cái, kg,…Nhưng khi ghi
đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo,…
4.Các bước tiến hành giải một bài toán hợp:
a - Bước 1: Đọc kĩ bài toán. Đọc kĩ để hiểu rõ đâu là dữ kiện, điều
kiện của bài toán ( cái đã cho, đã biết), đâu là câu hỏi của bài toán (cái cần

tìm).
b - Bước 2: Tóm tắt bài toán. Tóm tắt để thiết lập mối quan hệ giữa
dữ kiện và yêu cầu của bài. Để làm rõ điều này, chúng ta nên hướng HS
tóm tắt bằng SĐĐT. Trong trường hợp không thể sử dụng được SĐĐT thì
mới dùng quy ước bằng lời.
c - Bước 3: Dựa vào dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán, phân
tích bài toán qua hệ thống câu hỏi đi từ câu hỏi của bài toán đến cái đã cho.

Đàm Thị Ngân

Trường13
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

d - Bước 4: Trình bày bài giải thành 2 bước theo thứ tự ngược lại
quá trình phân tích bài toán (dựa vào kết quả phân tích ở bước 3).
e - Bước 5: Kiểm tra bài giải. kiểm tra lại lời giải, phép tính và kết
quả tính xem đã phù hợp và đúng với yêu cầu bài toán chưa. Đây là một
yêu cầu bắt buộc giúp HS có thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của
mình để tránh được những sai sót không đáng có.

*
*

Đàm Thị Ngân


*

Trường14
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

PHẦN III – KẾT LUẬN
I- KẾT QUẢ:

Sau khi chuyên đề “ Giải toán có lời văn” được triển khai và thực
hiện trong toàn khối 3, kết quả chúng tôi thu được thật đáng mừng. Hầu hết
các em HS trong khối đều có một cách trình bày bài giải thống nhất, khoa
học và rõ ràng. Đại đa số các em đã biết suy nghĩ và tìm ra lời giải. Riêng
các em HS khá giỏi, ngoài việc giải thuần thục các bài toán hợp trong
chương trình SGK, các em còn tiếp thu và thực hành giải các bài toán hợp
phức tạp hơn ( có 3, 4 phép tính) trong chương trình nâng cao cũng nhẹ
nhàng và dễ dàng hơn nhiều.
Tổng hợp đợt khảo sát chất lượng khối 3 vào giữa tháng 2 cho thấy,
trong số 74 em HS khối 3 thì có tới 68 em ( chiếm 91,9 %) làm đúng bài
toán có lời văn (bài toán giải bằng 2 phép tính), còn lại 4 em có hướng giải
đúng nhưng tính toán còn nhầm lẫn, chỉ còn 2 em giải sai phương pháp và
chọn phép tính chưa đúng. Riêng lớp 3A có 25 em làm đúng hoàn toàn,
còn 2 em có hướng giải đúng nhưng tính toán còn nhầm lẫn. Điều đáng
ngạc nhiên là hầu như các em thuộc đối tượng khá giỏi đều có chung một
bài làm giống hệt nhau từ phần tóm tắt, câu lời giải, đến cách ghi tên đơn
vị ở phép tính và đáp số. Điều đó chứng tỏ các em không những đã biết

xuất phát điểm của hành trình đi tìm đáp số của bài toán mà các em còn
hiểu rõ nội dung và bản chất của từng bài.
Kết quả đạt được ở trên cho thấy sự đúng đắn và tính khả thi của
phương pháp. Nó không những tháo gỡ bế tắc lâu nay của GV đứng lớp,
mà còn góp phần rèn luyện những chủ nhân tương lai của đất nước thành
những con người năng động, tự tin và thấu đáo trong việc giải quyết mọi
vấn đề, trên mọi lính vực. Đó chính là cái hệ quả to lớn mà Toán học nói
chung và các phương pháp giải toán nói riêng mang lại cho cuộc sống của
các em sau này.
II- BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Như vậy, để có được kết quả cao trong học tập của HS thì sự nhiệt
tình giảng dạy của GV thôi là chưa đủ. Mỗi một môn học, mỗi một bài học,
mỗi một tiết học đều có một sắc thái, một đặc điểm riêng, đòi hỏi một
phương pháp riêng phù hợp với nó. Vì vậy, ngoài những phương pháp
chung đã được sách in thành chương, thành mục, mỗi GV cần xây dựng
cho mình một phương pháp dạy học riêng. Theo tôi, phương pháp dạy học
hữu hiệu nhất là một phương pháp có nội dung không chỉ thay đổi theo
từng tiết học mà theo từng nhu cầu tiếp thụ của HS. Mỗi HS có một khả
năng nhận thức khác nhau, vì vậy, chúng ta cần phải dựa vào tình hình
Đàm Thị Ngân

Trường15
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3


thực tế để điều chỉnh cách dạy làm sao cho có hiệu quả nhất. Chỉ có như
vậy, công sức lao động của chúng ta bỏ ra mới không bị uổng phí. Kết quả
mới thể hiện đúng giá trị của nó.
III- Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:

Để nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên, đồng thời nâng cao
chất lượng học tập của học sinh, giúp các em nắm vững phương pháp giải
toán nói chung và phương pháp giải toán hợp nói riêng, tôi xin đề xuất một
số ý kiến sau:
1. Về phía nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề bồi dưỡng,
nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Hàng năm tổ chức các chuyên đề về dạy giải toán theo từng nội
dung cụ thể để phục vụ tốt cho công tác giảng dạy ở mảng kiến thức này.
- Khi nhập các đầu sách, thư viện của nhà trường cần lưu ý chọn lọc
các loại sách tham khảo có chất lượng của các tác giả, nhà xuất bản có uy
tín để phục vụ cho giáo viên và học sinh trong việc giảng dạy và học tập.
2. Về phía giáo viên:
- Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của bản
thân bằng cách tự học, tự bồi dưỡng, tự cập nhật các thông tin và phương
pháp mới thông qua đồng nghiệp, qua sách tham khảo, qua mạng internet,

- Khi lên kế hoạch giảng dạy cần chuẩn bị kĩ càng nội dung. Tham
khảo thêm các tư liệu có liên quan để bổ sung vào bài dạy cho tiết học trở
nên phong phú, đa dạng, hấp dẫn học sinh.
- Giáo viên không nên quá lệ thuộc vào sách hướng dẫn của Bộ giáo
dục. Cần mạnh dạn tìm ra các cách khác nhau nhằm giúp học sinh nắm
được mục tiêu bài học một cách nhanh nhất, nhẹ nhàng nhất và đầy đủ
nhất.


Đàm Thị Ngân

Trường16
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

LỜI KẾT
Mỗi con người khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành đều có những dấu
ấn, những bước ngoặt. Một dấu ấn tuổi thơ, dấu ấn về một loại toán có lời
văn, dấu ấn về những điểm 1, 2, đã giúp tôi có được một bài học, một kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy hôm nay. Nghĩ về những vấp váp ngày
xưa, mới thấy mình càng phải cẩn trọng trong từng bước đi sắp tới. Nghĩ
tới các em, những con người chưa hoàn thiện về nhân cách, ta mới càng
thấy rõ trách nhiệm lớn lao của mình. Phải, chính chúng ta, những người
thầy, không ai khác, chính là những người dẫn đường, chỉ lối, dẫn dắt các
em bước vào thế giới tri thức. Vì vậy, chúng ta không thể để các em đi
những bước đi sai lệch. Hãy bằng những kinh nghiệm của bản thân, bằng
nỗi đam mê với nghề nghiệp và tấm lòng bao dung với con trẻ, mỗi chúng
ta hay là những kim chỉ nam cho mọi hành động của trẻ, để một ngày nào
đó, các em có thể vươn tới những đỉnh cao tri thức loài người.

Ân Thi, ngày 28 tháng 2 năm 2012

Người viết:

Đàm Thị Ngân


Đàm Thị Ngân

Trường17
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Dạy giải toán hợp Lớp 3

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
2.
3.
4.

Đàm Thị Ngân

Toán 3
Tạp chí Thế giới trong ta ( CĐ – T3/ 8 – 2004)
Chuyên đề Giáo dục Tiểu học ( Tập 11/ 2004)
Chuyên đề Giáo dục tiểu học ( Tập 13 / 2005)

Trường18
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học


Dạy giải toán hợp Lớp 3

Ý kiến đánh giá của BGH trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám:

Ý kiến đánh giá của Hội đồng giám khảo cấp trên:

Đàm Thị Ngân

Trường19
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên


Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học

Đàm Thị Ngân

Dạy giải toán hợp Lớp 3

Trường20
T.H.Hoàng Hoa Thám - Ân Thi - Hưng Yên



×