Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tìm hiểu về nền hành chính Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.79 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


A. Lời mở đầu
Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì xu
hướng chung của các quốc gia là không ngừng giao lưu, học hỏi, đổi mới trên
mọi lĩnh vực để tránh khỏi sự tụt hậu. Đối với nước ta, là một nước trình độ
phát triển còn thấp thì việc học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước là
điều rất cần thiết.
Nhật Bản là quốc gia đã gặt hái được nhiều thành công trong việc xây
dựng một nền hành chính vững mạnh. Vì vậy, việc tìm hiểu về nền hành
chính Nhật Bản sẽ giúp chúng ta tìm ra các quy luật chung để vận dụng vào
việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia.

2


B. Phần nội dung
I. Giới thiệu chung về Nhật Bản
1. Về vị trí địa lý
Nhật Bản nằm ở phía Đông của Châu Á, là nước quần đảo ở Thái Bình
Dương, gồm hơn 1000 đảo, trong đó có 4 đảo lớn: Hôcaiđô, Sicôcư, Kiusiu
và Hônsiu. Riêng đảo Hônsiu chiếm trên 60% diện tích.
Tổng diện tích của đất nước mặt trời mọc là 379 954 km 2, chiếm chưa
đầy 0,3% tổng diện tích đất toàn thế giới.
Dân số của Nhật Bản năm 2011 là 126,23 triệu người, phần lớn là đồng
nhất về ngôn ngữ và văn hóa. Nhật Bản là một trong những nước có tuổi thọ
dân số cao nhất thế giới, trung bình là 81,25 tuổi vào năm 2006. Tuy nhiên
dân số nước này đang lão hóa do hậu quả của sự bùng nổ dân số sau thế chiến
thứ 2.
Thu nhập bình quân đầu người ở Nhật Bản là 39 652 USD/người,


chiếm 13,7% GDP thế giới. Chỉ số HDI là 0,953%.
2. Nét độc đáo
Mặc dù Nhật Bản là nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, trong khi
dân số quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài lại
là một trong những quốc gia xảy ra nhiều thiên tai nhất thế giới nhưng xứ sở
hoa Anh Đào được đánh giá là một cường quốc kinh tế, phát triển với tốc độ
thần kì khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc và khâm phục. Nhật bản còn là
nước xuất khẩu hàng đầu thế giới,dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ.

II. Khái quát mô hình nhà nước
1. Hình thức chính thể
Nhật bản là nước quân chủ lập hiến. Đứng đầu nhà nước là nhà vua
(Nhật Hoàng) chỉ có quyền tương đối hình thức. Theo hiến pháp hiện hành
của Nhật Bản, Nhật Hoàng là biểu tượng của quốc gia va sự đoàn kết dân tộc.

3


Quyền lực thực sự nằm trong tay nghị viện và chính phủ. Chính phủ do nghị
viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện.
2.Hình thức cấu trúc
Nhật Bản là nhà nước đơn nhất có một hệ thống pháp luật áp dụng
chung cho toàn bộ quốc gia. Quyền lực nhà nước được tập trung ở Trung
ương. Nhưng hiện nay Nhật Bản đang đẩy manh phân quyền ở địa phương.
Mối quan hệ giữa Trung ương với địa phương rất chặt chẽ.
Nhật Bản gồm 47 đơn vị hành chính.Trong đó có một quận thủ đô
Tô-ky-ô, hai quận thủ đô là Ky-ô-tô và Ô-sa-ca, một quận đặc biệt là Hốc-caiđô và 43 quận nông thôn.

III. Nền hành chính Nhật Bản
Nền hành chính ở Nhật Bản bao gồm các yếu tố: hệ thống thể chế

hành chính, bộ máy hành chính, đội ngũ nhân sự làm việc trong bộ máy và
nguồn tài chính công đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lí hành chính
nhà nước. Các yếu tố này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, không thể tách rời
và có ảnh hưởng lẫn nhau.
1.Thể chế của Nhật Bản
Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của thể chế quân chủ lập
hiến. Thể chế của Nhật Bản được xây dựng dựa trên hình mẫu của vương
quốc liên hiệp Anh-Bắc Ireland và một số nước phương tây khác sau này.
Nhật Bản được xếp vào các nước có nền dân chủ ưu việt nhất.
2.Bộ máy hành chính
2.1 Bộ máy hành chính ở trung ương
Ở Nhật Bản, quyền hành pháp được trao cho nội các. Nội các có nhiệm
vụ, quyền hạn triệu tập nghị viện, giải tán hạ viện, tuyên bố tổng tuyển cử
nghị viện, tiến hành các nghi lễ quốc gia nhưng phải thông qua Nhật hoàng.
Nội các có quyền tuyệt đối trong việc thực thi pháp luật, chính sách đối ngoại,
kí kết các hiệp ước (với sự phê chuẩn của quốc hội ), lập dự toán ngân sách
trung ương (phải được quốc hội phê chuẩn), phê chuẩn các nghị định của nội
4


các, quản lí các dịch vụ công cộng, quyết định đại xá, đặc xá, phạt, giảm tội,
khôi phục quyền.
Thành phần của nội các bao gồm thủ tướng và các bộ trưởng, tất cả
chịu trách nhiệm tập thể trước quốc hội. Thủ tướng đứng đầu nội các do Nhật
hoàng chỉ định dưới sự giới thiệu của quốc hội. Vị thủ tướng đang nắm quyền
hiện nay ở Nhật Bản là ông Noda Yoshihiko. Thủ tướng phải là dân sự, là thủ
lĩnh đảng chiếm đa số quốc hội, có quyền chỉ định và bãi nhiệm các bộ trưởng
và đề nghị quốc hội phê chuẩn. Tuy nhiên khác với Mỹ và một số quốc gia
dân chủ khác, thủ tướng Nhật Bản đa số được bầu ra từ trong đoàn đại biểu
quốc hội. Chính vì vậy mà ranh giới giữa lập pháp và hành pháp thường

không rõ ràng.
Thủ tướng được đề cử bởi cả hai viện của quốc hội Nhật Bản. Mỗi viện
tiến hành một cuộc bầu cử dưới hệ thống hai vòng bầu cử. Nếu cả hai viện
chọn ra hai người khác nhau, thì một ủy ban hỗn hợp từ hai viện sẽ được cử ra
để đồng ý một ứng cử viên chung. Tuy nhiên nếu cả hai viện đều không đồng
ý trong mười ngày thì cuối cùng quyết định của Hạ viện sẽ được ưu tiên. Do
đó, trên lý thuyết Hạ viện là cơ quan có tiếng nói cuối cùng trong việc quyết
định người được đề cử nắm giữ chức thủ tướng.
Thủ tướng phải từ chức nếu như Hạ viện thông qua một cuộc bỏ phiếu
bất tín nhiệm hoặc thất bại trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, ngoại trừ Hạ
viện bị giải tán trong vòng 10 ngày. Thủ tướng cũng phải từ chức sau mỗi lần
tổng tuyển cử Hạ viện, ngay cả trường hợp đảng của ông chiếm đa số trong
viện.
Theo Hiến pháp, các Bộ trưởng được Thủ tướng lựa chọn và bổ nhiệm.
Phần lớn thành viên của Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải là đại biểu của
một trong hai viện thuộc Quốc hội và tất cả thành viên đều phải là dân sự.
Theo Luật Nội các năm 2001, số lượng Bộ trưởng không được quá 14 người,
tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, vẫn có thể lên đến 17 người.
Hiện nay Nhật bản bao gồm mười bộ:
5


- Bộ môi trường
- Bộ đất đai, hạ tầng và giao thông
- Bộ kinh tế - thương mại và công nghiệp
- Bộ y tế lao động và phúc lợi
- Bộ giáo dục văn hóa thể thao khoa học và công nghệ
- Bộ tài chính
- Bộ ngoại giao
- Bộ tư pháp

- Bộ quản lý công cộng - nội vụ - bưu điện và viễn thông
- Bộ nông, lâm, ngư nghiệp
Và hai cơ quan ngang bộ là:
- Cục phòng vệ
- Uỷ ban an toàn quốc gia
2.2 Hành chính địa phương
Cơ cấu chính quyền địa phương ở Nhật bao gồm các quận, thành phố,
hạt, thị trấn và làng. Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương ở Nhật
Bản là Thị trưởng và các Nghị sĩ hành chính địa phương đều do cử tri địa
phương trực tiếp bầu ra thông qua phổ thông đầu phiếu trực tiếp, nhiệm kì là
4 năm.
Chính quyền địa phương ở Nhật bản gồm hai cấp là chính quyền cấp
tỉnh và chính quyền cấp hạt. Hạt là địa phương cấp cơ sở ở Nhật, chịu trách
nhiệm chính trong việc cung ứng các hàng hóa công cộng thiết yếu đối với
đời sống nhân dân. Tỉnh là địa phương cấp trung gian duy nhất giữa chính
quyền trung ương với chính quyền cơ sở, chịu trách nhiệm chuyển tải các
chính sách của trung ương về địa phương. Nếu như trách nhiệm phân công
cho chính quyền các tỉnh giồng nhau thì trách nhiệm phân công cho chính
quyền các hạt lại không giống nhau tùy theo dân số của mỗi hạt. Hạt có dân
số càng đông thì càng được phân công nhiều trách nhiệm. Các địa phương cấp

6


hạt được khuyến khích sáp nhập với nhau nhằm giảm đáng kể số lượng chính
quyền địa phương.
2.3. Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương
Ở Nhật Bản, mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương
theo hình thức tập quyền. Các cơ quan trung ương nắm toàn bộ quyền hành
pháp luật và các chính sách chủ yếu. Địa phương là các đơn vị chấp hành,

thực hiện các mệnh lệnh và kế hoạch từ trung ương đưa xuống. Các cơ quan
địa phương phụ thuộc các cơ quan trung ương phần lớn về tài chính. Mặc dù
có quyền quyết định mọi công việc ở địa phương mình nhưng chính quyền địa
phương lại phụ thuộc gần 70% ngân sách trung ương.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính thì gần
đây Nhật Bản đang đẩy mạnh phân quyền. Một mặt nhằm tăng cường sự quản
lí thống nhất và sự điều hành vĩ mô của chính phủ trung ương đối với toàn
quốc và địa phương. Mặt khác nhằm tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm
của chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động của địa phương.

III. Nhân sự trong bộ máy hành chính
1. Tuyển dụng cán bộ, công chức
Ở Nhật Bản, yếu tố con người luôn được đặt lên hàng đầu và hành
chính nhà nước luôn được coi là một nghề cao quý trong xã hội. Khi được trở
thành một công chức thì có địa vị trong xã hội rất cao, và người dân rất tôn
trọng. Công chức Nhật là những người làm công ăn lương nhà nước, làm việc
trong bộ máy hành chính Nhật Bản. Công chức Nhật được phân làm 3 loại:
công chức cao cấp, công chức trung cấp và công chức sơ cấp.
Người Nhật có thông lệ tốt là cấm kỵ việc anh em, chị em hay bố
con, mẹ con cùng làm trong một cơ quan. Nhà nước Nhật Bản nêu ra một yêu
cầu nhất quán là khi tuyển chọn một người vào làm bất cứ công việc gì cũng
phải thực hiện qua kì thi. Mục đích của việc thi tuyển là để chọn nhân tài, xóa
bỏ chế độ dùng tiền, dùng quyền để mua bán văn bằng, tước vị. Ở Nhật Bản

7


coi trọng năng lực thực tế chứ không nặng về bằng cấp. Vì thế việc tuyển
dụng công chức ở Nhật Bản rất chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Về nguyên tắc tuyển dụng, Nhật Bản luôn đề cao hai nguyên tắc cơ

bản, xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi tuyển. Thứ nhất là phải đảm bảo
nguyên tắc công khai, công bằng, đối xử bình đẳng trong quá trình tổ chức.
Việc công khai hóa thông tin không chỉ thể hiện ở trước cuộc thi mà sau khi
có kết quả, các thí sinh đỗ hay trượt cũng đều được công khai. Bình đẳng
nghĩa là tất cả các công dân đều có quyền và cơ hội ngang nhau khi có mong
muốn làm việc cho cơ quan nhà nước. Thứ hai là phải đảm bảo nguyên tắc
căn cứ trên thành tích tức là kết quả phản ánh thực chất năng lực, trình độ của
người thi. Thực hiện nguyên tắc này nhằm loại trừ thái độ thiên vị chính trị,
ảnh hưởng tình cảm cá nhân và xếp hạng thí sinh theo thứ tự xứng đáng, đảm
bảo cho nền công vụ tuyển dụng được những ứng cử viên giỏi nhất.
Ở Nhật Bản, quy định về độ tuổi dự thi tuyển tùy thuộc vào từng loại
công chức: công chức loại I phải có độ tuổi từ 21 đến 23, công chức loại II có
độ tuổi từ 21 đến 29, công chức loại III có độ tuổi từ 17 đến 25. Phương thức
tuyển dụng rất linh hoạt. Thông thường thí sinh phải trải qua ba vòng thi: sơ
tuyển, thi kì 2 và thi vấn đáp tại cơ quan mà người đó có thể được nhận vào
làm việc.
Nội dung thi tuyển là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả
của ki thi, bao gồm những kiến thức cơ bản bảo đảm cho công chức có một
trình độ học vấn nhất định, các kiến thức chuyên môn và các kĩ năng nghiệp
vụ. Nội dung đánh giá thí sinh thường dựa trên tiêu chí: hiểu biết, biết cách
làm và biết cách đối xử. Khi trung tuyển, nếu đạt số điểm cao, thí sinh có
quyền nêu nguyện vọng sẽ được làm trong bộ nào. Người được tuyển dụng sẽ
làm việc suốt đời, không thuyên chuyển giữa các ngạch hành chính.
Về hình thức thi tuyển, Nhật Bản áp dụng hai hình thức cơ bản là
viết và vấn đáp để có thể đánh giá chính xác nhất về năng lực, trình độ của thí
sinh. Ngoài ra, Nhật Bản còn áp dụng hình thức thi tài năng, năng khiếu và thi
8


thể lực đối với thi tuyển công chức đảm nhận vị trí công việc mang tính

chuyên ngành, đặc thù riêng.
2. Sử dụng và quản lí cán bộ, công chức
Nhật Bản rất chú trọng chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức. Các
Cán bộ, công chức khi làm việc cứ 2 - 3 năm được tăng lương một lần. Một
năm cán bộ, công chức được thưởng ba lần nhưng không vượt quá số tiền của
5 tháng lương cộng lại. Cán bộ, công chức được hưởng chế độ phụ cấp nuôi
dưỡng khi về già. Trong cơ cấu tổ chức của chính phủ Nhật Bản, có viện nhân
sự là cơ quan quy định chế độ lương bổng cho công chức. Mục đích của viện
nhân sự là định mức đãi ngộ trên trung bình với chế độ đãi ngộ cao hơn khu
vực dân doanh đề thu hút nhân tài. Nhờ vậy, Nhật Bản luôn có đội ngũ cán
bộ, công chức ưu tú.
Không chỉ chú trọng đến chế độ đãi ngộ mà Nhật Bản còn luôn đề
cao chế độ hưu trí. Cán bộ, công chức từ 20 đến 60 tuổi áp dụng chế độ hưu
trí quốc gia với mức đóng cố định là 13 300 yên/ 1 tháng trong 25 năm.
Những người có thu nhập thấp có thể đóng với mức thấp hơn. Còn đối với
những người đã đến một địa vị ví dụ như trưởng phòng trở lên, đến tuổi quy
định là 60 thì nghỉ hưu, nhưng thường thì chỉ đến tầm 52 – 53 tuổi thì những
người đó sẽ tự xin nghỉ. Chính phủ Nhật sẽ sắp xếp cho những người này
được sang làm ở khu vực bán công bán tư, hay làm các doanh nghiệp, hoặc
thậm chí là các tổ chức phi Chính phủ… nhưng với mức đài thọ cao hơn
nhiều so với Nhà nước. Mặt lợi của chính sách này là những người ở độ tuổi
52 – 53 nghỉ hưu thì sẽ tạo điều kiện để lực lượng lao động trẻ kế cận. Do đó
việc luân chuyển cán bộ của Nhật rất tốt.
Nền công vụ của Nhật Bản được tổ chức theo mô hình việc làm.
Trong mô hình tổ chức công vụ này, các công chức được tuyển dụng cụ thể
và trực tiếp vào từng vị trí công việc cần thực hiện trong bộ máy công vụ.
Những công việc này được thực hiện tại các vị trí khác nhau, mỗi vị trí thực
hiện một hay nhiều nhiệm vụ nhất định và đòi hỏi người giữ vị trí đó có
9



những năng lực, kiến thức nhất định. Việc tuyển dụng nhân sự căn cứ vào
những vị trí công việc còn trống và yêu cầu đối với vị trí, chức danh đó. Cách
thức tổ chức công vụ theo mô hình này bảo đảm bảo tìm được đúng người
đúng việc. Hoạt động tuyển dụng vào công vụ diễn ra công bằng và khách
quan hơn đồng thời kích thích được sự cạch tranh lẫn nhau ngay trong đội ngũ
nhân viên hành chính khiến cho hiệu quả hoạt động công vụ được nâng lên.
4. Tài chính công
Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng
tiền của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá
trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm
phục vụ việc thực hiện những chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội
(không vì mục tiêu thu lợi nhuận).
Ở Nhật Bản, nguồn tài chính công dùng để duy trì hoạt động của bộ
máy nhà nước, giúp đảm nhiệm hiệu quả các chức năng của nhà nước đối với
xã hội, nhằm đảm bảo sự tồn tại vững chắc của quốc gia về phương diện
chính trị, phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội cho công dân của
mình.
Đặc điểm nguồn tài chính công ở Nhật Bản đó là tài chính công chủ
yếu dược thực hiện thông qua cơ chế quyền lực nhà nước mà không phải là cơ
chế thỏa thuận. Các quyết định về thu thuế hay phân bổ ngân sách đều được
thực hiện dưới hình thức quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nguồn vốn chủ yếu mà nhà nước có được là từ sự đóng góp không hoàn trả
của cá nhân, tổ chức trong xã hội dưới hình thức thuế và các hình thức khác.
Sau đó, nguồn vốn này được phân bổ lại cho xã hội.
Hiện nay, chính phủ Nhật Bản đang chú trọng củng cố cơ sở tài chính
cho địa phương để thực hiện tự quản, độc lập về tài chính (hay phân
quyền tài chính đầy đủ hơn cho địa phương ). Việc căn cứ phân quyền tài
chính tập trung vào hai nội dung chủ yếu đó là căn cứ vào nguồn thu của địa


10


phương và mở rộng quyền tự chủ tài chính cho địa phương nhằm đảm bảo thu
chi hiệu quả.
Tuy nhiên, nợ công đang là vấn đề nổi cộm trong tài chính công của
Nhật Bản. Nợ công của Nhật Bản bao gồm trái phiếu chính phủ do nhà nước
phát hành, các khoản vay và chứng khoán ngắn hạn nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách. Theo số liệu thống kê của bộ tài chính Nhật bản,
tháng 9 năm 2011, nợ công tăng 1,1% so với số liệu thống kê tháng trước đó.
Mức nợ là 77 385 000 tỉ yên trái phiếu chính phủ, khoản vay là 5 173 000 tỉ
yên từ các tổ chức tài chính, 128 840 000 tỉ yên kinh phí đáp ứng các nhu cầu
tài chính ngắn hạn. Mặc dù vậy, Nhật Bản vẫn có thể tránh nguy cơ vỡ nợ vì
lợi tức trái phiếu Nhật Bản chỉ chạm mức cao nhất là 1,4% trong khi đó ở Hi
Lạp là 8%.
Để khắc phục tình trạng nợ công, Nhật Bản đã thực hiện hai cuộc cải
cách lớn về tài chính đó là cải cách Big Bang và cải cách về hệ thống tài
chính. Nội dung của cải cách Big Bang là mở rộng sự lựa chọn cho các nhà
đầu tư và những người đi vay đồng thời cải tiến chất lượng phục vụ của các
trung gian tài chính và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng nhằm phát
triển một thị trường đem lại nhiều lợi ích hơn. Để làm được điều đó thì cần
phải thiết lập những khuôn khổ pháp lý và những quy định đáng tin cậy cho
sự giao dịch bình đẳng, minh bạch.
Cuộc cải cách tài chính được thực hiện với ba nội dung lớn đó là:
Thứ nhất, cần phải giải quyết ngay vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng chủ
yếu nhằm lấy lại lòng tin cho hệ thống tài chính Nhật Bản nhằm tạo ra một thị
trường tài chính được thế giới đánh giá cao. Thứ hai là chủ trương tạo ra một
hệ thống tài chính minh bạch hơn để có thể hỗ trợ cho cải cách cơ cấu. Thứ ba
là xây dựng một khuôn khổ mới, chính phủ sẽ tiến hành ba biện pháp chủ yếu
là thắt chặt việc đánh giá tài sản, đảm bảo đủ vốn và tăng cường công tác

quản lí.

11


5. Cải cách hành chính ở Nhật Bản
Cải cách hành chính ở Nhật Bản trước hết hướng tới việc cải thiện
chất lượng của các yếu tố cấu thành nền hành chính. Xu hướng cải cách hành
chính ở Nhật Bản hiện nay là cải cách những hệ thống, chính sách, các tổ
chức hoạt động của hành chính công để đảm bảo một chính phủ hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả và được tổ chức, sắp xếp hợp lí, một chính phủ thích ứng
tốt với sự thay đổi và xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Thực hiện cải cách hành chính nhằm mục tiêu xây dựng một chính
phủ có bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả và hoạch định được những chính sách mang
tầm chiến lược, toàn diện để đáp ứng với sự thay đổi thường xuyên của tình
hình. Đồng thời chính phủ cần có những quan điểm linh hoạt, mềm dẻo để
quản lý tốt những vấn đề khẩn cấp, bất thường và có những quan điểm rõ
ràng, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân.
Phạm vi và đối tượng của cải cách hành chính ở Nhật Bản là c hính
phủ với vai trò, chức năng, trách nhiệm của nó; các công cụ, quy trình, thủ tục
và các điều cần thiết khác để thực hiện vai trò của chính phủ; Các cơ quan, tổ
chức của chính phủ, các đơn vị công khác, các công chức và những người làm
việc trong khu vực công và các chức năng liên quan.
Cải cách được thực hiện với những chương trình cụ thể đó là: cải
cách những công việc, các chương trình, chính sách của chính phủ; cải cách
những cơ quan hành chính của trung ương; bãi bỏ, tư nhân hóa hoặc thực hiện
những cải cách khác đối với các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức của
chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ liên kết với chính phủ; cải cách
công vụ nhằm giảm số lượng, bảo đảm chất lượng và đạo đức công vụ; cải
cách các quy trình, thủ tục hành chính và quan hệ giữa chính phủ với nhân

dân; tăng cường tính minh bạch, giải trình của chính phủ; đẩy mạnh chính phủ
điện tử; phân cấp và cải cách chính quyền địa phương.

12


Nhật Bản đã thực hiện cải cách hành chính liên tục trên nhiều mặt và
đạt được một số thành quả đáng kể đó là bộ máy chính phủ ở trung ương đã
được thu gọn, giảm đáng kể số lượng các tổ chức bên trong của các bộ, vai trò
của phủ nội các được nâng lên so với các bộ, quyền lực và khả năng kiểm soát
của thủ tướng đối với các bộ được tăng cường, giữa các bộ có sự phối hợp tốt
hơn dẫn đến việc hoạch định chính sách có xu hướng dễ dàng và chỉ đạo thực
hiện có hiệu quả, hình thành một hệ thống các tổ chức để đánh giá các giá trị
và chính sách.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng thực tế cải cách hành chính ở
Nhật Bản vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Tình hình khủng hoảng tài chính, sự
tranh chấp giữa các đảng phái khiến cho cuộc cải cách còn nhiều hạn chế.
Mặc dù vậy, cuộc cải cách hành chính của Nhật Bản vẫn nhận được sự ủng hộ
rộng rãi của dân chúng và được thực hiện dựa trên nền tảng là tinh thần đoàn
kết, ý chí không ngừng cải tiến của người Nhật. Chính điều đó đã làm nên
thành công của cuộc cải cách.

IV. Mở rộng vấn đề và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hiện nay, cải cách hành chính không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên,
then chốt của Nhật Bản hay các nước phát triển mà đang là vấn đề được hầu
hết các nước trên thế giới quan tâm. Nhất là trong bối cảnh quá trình toàn cầu
hóa đang diễn ra mạnh mẽ với sự vận động và biến đổi không ngừng của tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội…để tránh khỏi sự tụt hậu thì thực hiện cải cách
hành chính cũng là vấn đề tất yếu đối với Việt Nam. Quá trình hội nhập khu
vực và quốc tế sẽ tiếp tục mở rộng cơ hội cho sự hợp tác, trao đổi và học tập

kinh nghiệm về cải cách hành chính giữa Việt Nam với các nước.
Có thể nói, trong việc thực hiện cải cách hành chính, Nhật Bản là một
trong những nước đi tiên phong. Quá trình cải cách hành chính ở Nhật đã,
đang và sẽ gặt hái được nhiều thành công nhưng cũng gặp không ít những khó
khăn. Đó là cơ sở quan trọng cho các nước học tập và rút kinh nghiệm, đặc
biệt là Việt Nam. Ở nước ta, công cuộc cải cách hành chính trong hơn 10 năm
qua đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế, xã
hội đất nước. Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước còn mang nặng dấu ấn của
13


cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu
cầu của cơ chế quản lý mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều
kiện mới và hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Vì vậy, để xây dựng một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; để xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước thì việc xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi những
chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến lược mà chính phủ Nhật Bản đã sử
dụng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính đối với Việt Nam là
rất cần thiết.
Hiện nay, tổ chức bộ máy ở nước ta còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc;
phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán,
chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ
công. Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần
trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc
chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra
nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Bộ máy hành chính ở các

địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc được
những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các tình
huống phức tạp. Vì vậy, việc tinh giản bộ máy hành chính, đẩy mạnh phân
cấp chính sách cho chính quyền địa phương trong tổ chức bộ máy hành chính
ở Nhật Bản là bài học rất đáng quý cho nước Việt Nam ta. Hơn thế nữa, việc
tuyển dụng nhân sự căn cứ vào thực tài, không chỉ chú trọng đầu vào mà còn
chú trọng đầu ra, thực hiện tốt chế độ đãi ngộ và chính sách tiền lương cho
đội ngũ cán bộ, công chức, quan tâm đến vấn đề đào tạo, nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ, công chức cũng là bài học mà Việt Nam cần học hỏi từ
Nhật.

14


C.Tổng kết
Như vậy, với một thể chế hành chính đồng bộ, thống nhất; bộ máy
hành chính hoạt động nhịp nhàng, linh hoạt, chặt chẽ từ trung ương ương đến
địa phương; đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, hiện đại và chuyên môn hóa cao
cùng với các cuộc cải cách hành chính có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới đã
giúp Nhật Bản xây dựng một nền hành chính vững mạnh. Đó cũng là câu trả
lời đáp lại niềm tin và sự mong mỏi của nhân dân Nhật Bản về một chính phủ
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Làm nên những thành công đó phải chăng là
do tinh thần đoàn kết cùng với ý chí không ngừng cải tiến, vươn lên của con
người Nhật Bản? Và chắc chắn rằng, nền hành chính Nhật Bản với những ưu
điểm và nét độc đáo riêng sẽ là nền tảng để Nhật Bản ngày càng nâng cao vị
thế của mình trên trường quốc tế.

15



Danh mục tài liệu tham khảo

• Tập bài giảng Hành chính so sánh. Học viện hành chính.
• Giáo trình Lí luận hành chính nhà nước. Học viện hành chính.
• Một số kết quả cải cách hành chính ở Nhật Bản. Vũ kiều Oanh.
• Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam. Thủ
tướng chính phủ.



16



×