Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Xuất khẩu tôm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.41 KB, 36 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, có
giá trị ngoại tệ xuất khẩu đứng hàng thứ tư trong các ngành kinh tế quốc dân
(sau dầu,gạo,và hàng may mặc) trước năm 2001 và đã vươn lên hàng thứ ba
vào năm 2001.
Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho
nhân loại. Thực phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng cao rất cần thiết cho sự
phát triển của con người. Không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo
công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng nông
thôn và ven biển. Ở Việt Nam, nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cung cấp
công ăn việc làm thường xuyên cho khoảng 1,1 triệu người, tương ứng với 2,9
% lực lượng lao động có công ăn việc làm. Thuỷ sản cũng có những đóng góp
đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng kinh tế nói chung của nhiều nước.
Không những là nguồn thực phẩm, thuỷ sản còn là nguồn thu nhập trực
tiếp và gián tiếp cho một bộ phận dân cư làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế
biến và tiêu thụ cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như: Cảng, bến,
đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết
bị nuôi, cung cấp bao bì... và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân. Theo ước
tính có tới 150 triệu người trên thế giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một
phần vào ngành thuỷ sản.
6 tháng đầu năm 2013, XK tôm Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD, tăng 8,6%
so với cùng kỳ năm 2012. XK sang các thị trường trọng điểm tăng khả quan
như sang Nhật Bản tăng 6,6%, sang Mỹ tăng 22,4% và sang Trung Quốc tăng
33,7%. Nguồn cung tôm năm 2013 giảm so với 2012 do dịch bệnh tại Thái
Lan và nhiều nước khác dẫn tới giá tôm sẽ giữ xu hướng tăng và ở mức cao
trong 6 tháng cuối năm 2013. Nhờ đó, XK tôm Việt nam dự kiến sẽ tăng 9%
so với 2012 lên 2,4 tỷ USD.
2




Nhật Bản và Mỹ vẫn duy trì vị trí thứ nhất và thứ hai về NK tôm
Việt Nam. Trung Quốc đã vượt qua EU trở thành nước NK tôm lớn thứ 3 của
Việt Nam với tỷ trọng tăng từ 11,4% năm 2012 lên 13,3% trong 6 tháng đầu
năm 2013.
Nguồn cung tôm thế giới bị hạn chế bởi sản lượng tôm từ Thái Lan giảm
mạnh do ảnh hưởng của EMS khiến giá tôm tăng trên toàn cầu. Nhờ đó, giá
trị XK tôm Việt Nam sang các thị trường lớn tăng lên.
Do diện tích nuôi tôm chân trắng gia tăng trong khi diện tích nuôi tôm sú
giảm dẫn tới sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu sản phẩm tôm XK 6 tháng đầu
năm. Tôm chân trắng chiếm 41,3% giá trị XK tôm, gần tương đương với tỷ
trọng của tôm sú (50,8%).
Trên thị trường EU, giá tôm chân trắng HOSO tăng 7% trong 6 tháng
đầu năm 2013, từ 9,41 USD/kg tôm cỡ 31/40 lên 10,05 USD/kg. Giá tôm sú
HLSO tăng 16% từ 8,60 USD/kg tôm cỡ 16/20 lên 10 USD/kg.
- Giá tôm nguyên liệu đang tăng trở lại phần nào khuyến khích người
nuôi tôm thả nuôi trở lại, giúp giảm bớt căng thẳng về nguồn nguyên liệu cho
chế biến trong nước. Tôm sú nguyên liệu cỡ 30 con/kg có giá bán 180.000
đồng/kg tăng 20% so với đầu năm. Tôm chân trắng cỡ 100 con/kg có giá bán
102.000 đồng/kg, tăng 8,5%.
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế nước ta trong chính sách hội
nhập mới.Trong đó thủy sản nói chung và mặt hàng tôm nói riêng là một mặt
hàng quan trọng.EU là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế thế
giới, có sự phát triển ổn định và cũng hứa hẹn là bạn hàng chiến lược của
nước ta.

3



1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
+ Tìm hiểu thực trạng xuất khẩu tôm sang thị trường EU
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tôm của Việt Nam
vào thị trường EU.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Xuất khẩu tôm của Việt Nam sang EU
Phạm vi nghiên cứu: Tại Việt Nam

4


1CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ
CỦA XUẤT KHẨU THỦY SẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về xuất khẩu
Xuất khẩu sản phẩm là việc bán và cung cấp sản phẩm là hàng hóa và
dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh
toán.
Các hình thức xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức đadạng,phong
phú bao gồm những dạng chủ yếu sau :
-Hình thức xuất khẩu trực tiếp: là hoạt động bán hàng trực tiếp của
mộtquốc gia cho một quốc gia nước ngoài thông qua các văn phòng đại diện
đểbán sản phẩm,giới thiệu sản phẩm,hoặc đầu tư trực tiếp sang nước đó
đểnâng cao lợi nhuận.
-Hình thức xuất khẩu gián tiếp: là việc bán hàng của một quốc gia cho
quốc gianước ngoài qua trung gian
-Hình thức buôn bán đối lưu: là phương thức giao dịch trao đổi hàng
hóa, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu,người bán đồng thời

là người mua, lượng giao dịch mua bán là tương đương.
-Hình thức gia công quốc tế: ghi chi tiết là hoạt động kinh doanh thương
mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc
bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biền thành
ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia
công).

5


1.2. Những qui định của thị trường EU đối với tôm xuất khẩu Việt Nam
trong qui định chung về mặt hàng thủy sản.
Thị trường thủy sản EU mở rộng nhanh chóng trở thành thị trường thủy
sản hàng đầu thế giới và đây là một thị trường không có cơ chế bảo hộ.Tuy
nhiên hàng hóa nói chung và hàng hóa thủy sản nói riêng đều phải trải qua
những qui định nghiêm ngặt của EU.
EU thống nhất các qui định về chất lượng, sức khoẻ và an toàn vệ sinh
thực phẩm áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Châu Âu. Thậm chí, Pháp và Ý áp
dụng quy định khắt khe hơn quy định của EU.Vì vậy, nhập khẩu thủy sản vào
Pháp, Ý có thể vẫn bị từ chối mặc dù đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện của
EU. Đặc điểm then chốt các quy định của EU là hàng thủy sản nhập khẩu vào
EU từ các nước thành viên thứ 3 (không thuộc EU) cần phải được chế biến,
đóng gói và bảo quản tại các cơ quan mà EU cho phép hoạt động.
Năm 2006, EU đưa ra luật mới đối với mặt hàng thủy sản nhập
khẩu.Luật mới được xem là nhất thể hóa qui định của EU. Luật mới về nhập
khẩu thủy sản vào EU là sự hợp nhất các qui định và chính sách đã được hài
hòa theo qui chuẩn của liên minh. Luật mới không nhằm gây khó khăn hay
giúp đỡ bất kỳ nước xuất khẩu nào cũng không phải để hạn chế mặt hàng thủy
sản vào EU mà nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng hiệu quả hơn. Bộ luật
mới về nhập khẩu thủy sản được thể hiện trong bốn hệ thống luật của EU với

luật 178/2002 là chủ đạo và bốn luật khác bổ sung bao gồm 852/2004,
853/2004, 882/2004 và 854/2004. Luật nhập khẩu thủy sản được hài hòa và
thống nhất là cơ hội cho các nước xuất khẩu vì theo nguyên tắc chỉ cần đáp
ứng tiêu chuẩn chung của Cộng đồng châu Âu (EC), hàng thủy sản có thể vào
bất kỳ thị trường thành viên nào trong EU, thay vì phải điều chỉnh theo từng
thị trường như trước đây.

6


Muốn nhập khẩu được vào thị trường EU thì phải vượt qua được rào cản
kỹ thuật của EU."Rào cản kỹ thuật" là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản xuất
và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần.Bởi
vậy, yếu tố có tính quyết định để thâm nhập được vào thị trường EU chính là
vượt qua được rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật chính là qui chế
nhập khẩu chung được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: chất lượng, vệ
sinh thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn
về lao động.
Thứ nhất, tiêu chuẩn chất lượng: Chất lượng sản phẩm là chìa khóa của
sự thâm nhập thành công vào thị trường EU. Đặc điểm then chốt của các quy
định hiện tại của EU là hàng thủy sản nhập khẩu từ các nước thứ 3 (không
phải thành viên EU) vào EU cần phải được chế biến, đóng gói, bảo quản,
chuẩn tại các cơ quan mà EU cho phép hoạt động.
Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 là yêu cầu bắt buộc đối với các
doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU.Các doanh
nghiệp có giấy chứng nhận ISO thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn
các doanh nghiệp chưa được cấp giấy chứng nhận.
Thứ hai, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm: Các công ty chế biến
thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Việc áp dụng Hệ
thống phân tích mối nguy và điểm kiểm sóat tới hạn (HACCP – Hazard

Analysis Critical Control Point) là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt
buộc đối với các xí nghiệp chế biến thủy hải sản của các nước đang phát triển
muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU. Yêu cầu về nhiệt độ bảo quản
trong quá trình vận chuyển các sản phẩm thủy sản. Yêu cầu về những thành
phần phụ gia được phép sử dụng trong chế biến thủy sản do Văn phòng Thú y
Liên Bang (OVF – Federal Veterinary Office) qui định.

7


Thứ ba, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: Một đặc điểm nổi bật trên
thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với
thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu
dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ
thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các
sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra.
Thứ tư, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: Thị trường EU yêu cầu hàng hoá
có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo qui định (nhãn sinh thái, nhãn
tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn về thực
hành nông nghiệp tốt (GAP-Good Agricultural Practices) và các nhãn hiệu
sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ cách đánh giá
cấp độ khác nhau về môi trường. Ngoài ra, các công ty phải tuân thủ hệ thống
quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO14000) và các bộ luật mang tính xã
hội về đạo đức.Tiêu chuẩn SA 8000 (The Social Accountability 8000) là tiêu
chuẩn quốc tế về trách nhiệm xã hội sẽ càng trở nên quan trọng trong tương
lai.
Thứ năm, tiêu chuẩn về lao động: Uỷ ban châu Âu đình chỉ hoạt động
của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này
sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình

sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như lao động
tù nhân, lao động trẻ em.... đã được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày
25/9/1926 và 7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105.
1.3. 1.3. Vai trò của xuất khẩu tôm đối với Việt Nam
Trong thị trường nội địa
Trong những năm qua giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng mạnh.
Hàng thủy sản đã xuất khẩu tới 105 nước và vùng lãnh thổ. Chính nhờ sự tăng
8


trưởng mạnh mẽ của các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đã góp phần làm thị
trường nội địa có bước chuyển dịch.
Mặc dù mức tiêu thụ thủy sản nội địa thấp, song vấn đề tổ chức quản lí
thị trường thủy sản nội địa; vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩn,
bao gói nhãn mác, xuất sứ hàng hóa được thực hiện tốt sẽ là thứ thuốc “kháng
sinh” mạnh đảm bảo tính cạnh tranh hiệu quả của hàng hóa xuất khẩu.
Vì vậy để tăng doanh số xuất khẩu thì thủy sản nội địa là vấn đề cần
được quan tâm, thông qua việc tìm hiểu và phân tích nhu cầu trong nước. Với
mỗi mức nhu cầu khác nhau sẽ có qui mô phát triển, loại hình nuôi trồng thủy
sản cho thích hợp.
Hiện nay ở nước ta tôm là loại thủy sản rất được quan tâm cả về cách
thức nuôi trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
Thị trường tôm tập trung hầu hết ở các tỉnh có nguồn nước mặn, nước nợ
hay có thị trường tiêu thụ rộng lơn như : Đồng bằng sông cửu long, Hải
phòng, Thái bình.…
Như vậy vấn đề đặt ra với thị trường tôm nội địa là phải cho ra các sản
phẩm phong phú về chủng loại: đồ tươi, khô, đông lạnh, các loại tôm chất
lượng đa dạng: từ cấp thấp, cao cấp đến đặc biệt,phù hợp khả năng tài chính
của các tầng lớp dân cư.
Bên cạnh đó cũng phải chú ý ý tới mặt hàng tôm nhập khẩu, bởi càng

ngày người dân càng trở lên “sính ngoại”, chúng ta cần có cách thức quản lí
để người dân nhận ra rằng: Mặt hàng tôm của ta chất lượng không kém mà
giá cả lại hợp lí, không những thế lại dược xuất khẩu sang những thị trường
rộng lớn như EU, Mỹ, Nhật bản.
Tóm lại chúng ta cần ổn định thị trường nội địa của các mặt hàng thủy
sản nói chung và của mặt hàng tôm nói riêng để tạo điều kiện cho xuất khẩu
thủy sản phát triển bên vững.
9


Trên thị trường quốc tế
Trong thời gian qua xuất khẩu tôm ở Viêt Nam vào thị trường quốc tế có
những biến động rõ rệt.
Nhất là xuất khẩu vào Mỹ _ thị trường chiếm 23-26% tổng kim ngạch
xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tiêu thụ 50% tôm xuất khẩu của Vệt Nam là thị
trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng xuất khẩu Việt Nam nó đã góp phần không
nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Nhưng đó là thị trường đầy nguy hiểm. Kỳ đầu 2005 xảy ra vụ kiện tôm
giữa Mỹ và 54 doanh nghiệp Việt Nam đã làm cho mặt hàng tôm trong nước
và xuất khẩu chao đảo, hiện tượng rớt giá và vấn đề uy tín làm đau đầu các
nhà cầm quyền.
Mặc dù sự kiện trên đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng nó là bài học kinh
nghiệm cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Việc Việt Nam ra nhập WTO, bỏ qua hàng rào thuế quan sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho những bước phát triển của mặt hàng xuất khẩu thủy sản. Bên
cạnh đó để có thể cạnh tranh với các thị trường tôm khác trên thế giới buộc
các nhà quản lí phải có những chính sách cụ thể. Đẩy mạnh việc xuất khẩu
thủy sản không chỉ về số lượng mà còn cả chất lựơng.
Để làm được điều đó chúng ta cần nhìn nhận lại thực trạng phát triển của
xuất khẩu thủy sản và xuất khẩu tôm để có những biện pháp cải thiện hữu

hiệu nhất.
1.3.1. Xuất khẩu thủy sản tạo nguồn vốn cho nhập khẩu và tích lũy phát
triển sản xuất,phục vụ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước,Việt Nam
phải có đủ nguồn vốn để nhập khẩu công nghệ,máy móc và những nguyên vật
liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước.Nguồn vốn từ hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng,trong đó ngành
10


thủy sản có đóng góp một phần đáng kể.Kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn
chiếm một tỷ trọng lớn, khoảng 9-10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
và ngành thủy sản cũng đóng góp khoảng 10% vào GDP của Việt Nam.Thủy
sản đã thực sự trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực.Năm
2000,kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 1,478 tỷ USD,gấp 7 lần so với năm
1990.Năm 2009,kim ngạch xuất khẩu đã đạt 4,25 tỷ USD,trong đó thị
trườngEU chiếm 25,8 kim ngạch xuất khẩu.Có thể khẳng định về sự đóng góp
của xuất khẩu thủy sản vào nguồn vốn cho phát triển đất nước.
1.3.2. Xuất khẩu thủy sản đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển
Xuất khẩu có tác động tích cực tới hoạt động thúc đẩy sản xuất.
Thứ nhất, xuất khẩu thủy sản phát triển sẽ duy trì và mở rộng thị trường
tiêu thụ cho hàng thủy sản kéo theo sản xuất trong nước phát triển và ổn định.
Thứ hai, việc xuất khẩu sẽ làm hàng hóa thủy sản Việt Nam tham gia vào
cuộc canh tranh gay gắt và khắc nghiệt trên thị trường thế giới về giá cả và
chất lượng.Đây là động lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển,đẩy
mạnh sản xuất,cải tổ lại bộ máy của mình hiệu quả hơn.
Thứ ba, xuất khẩu thủy sản tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu
vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Xuất khẩu thủy sản
không chỉ tạo điệu kiện cho ngành thủy sản phát triển mà còn tạo điệu kiện

cho các ngành nghề khác phát triển theo như:ngành khai thác,chế biến,nuôi
trồng thủy sản,công nghiệp đóng tàu…
Thứ tư,xuất khẩu thủy sản tạo ra những tiền đề kinh tế kĩ thuật nhằm cải
tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Trong những năm qua,việc
tập trung hướng mạnh vào xuất khẩu thủysản đã đem lại những thay đổi cho
ngành thủy sản Việt Nam, trở thành ngànhkinh tế mũi nhọn của đất nước.

11


1.3.3. Xuất khẩu thủy sản có tác động tích cực đến việc giải quyết công
ănviệc làm và cải thiện đời sống nhân dân
Thủy sản là một ngành sản xuất có giá trị kinh tế cao.Xuất khẩu thủy sản
đã có những dóng góp to lớn với kinh tế thủy sản nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Việc mở rộng qui mô,phát triển sản xuất của ngành thủy sản đang cần
thêm nhiều lao động.Thu hút lao động vào ngành sẽ giúp giải quyết công ăn
việc làm cho người dân,nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Số
lao động của ngành thủy sản tăng từ 3,12 triệu người(năm 1996)lên khoảng
3,8 triệu người vào năm 2001,4 triệu người vào năm 2005. Mỗi năm tạo ta
khoảng 125000 chỗ làm mới.
1.3.4. Xuất khẩu thủy sản là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế đối ngoại, nâng cao địa vị kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế
Quan hệ ngoại giao là cơ sở cho các hoạt động thương mại phát triển
trong đó có xuất khẩu.Việc đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và đẩy mạnh xuất
khẩu thủy sản nói riêng có vai trò tăng cường hợp tác quốc tế và góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, thủy sản Việt
Nam đã có mặt trên 100 quốc gia và không ngừng được mở rộng.
Sự phát triển không ngừng của hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam
thời gian qua đã góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển.
Chính sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế này lại thúc đẩy quan hệ

thương mại phát triển,tiếp tục thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản phát
triển hơn nữa.
Với sự phát triển của thương mại thủy sản Việt Nam và các nước, Việt
Nam đã thiết lập được mối quan hệ song phương và đa phương với các nước
như Đan Mạch, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Thụy Điển...và các tổ chức
quốc tế như FAO,WB,DANIDA...Các mối quan hệ hợp tác này sẽ tạo điều

12


kiện cho ngành thủy sản phát triển cũng như thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
thủy sản của ngành Việt Nam trong thời gian tới.

13


2CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU TÔM CỦA VIỆT NAM
SANG MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG CHỦ YẾUVÀ EU

2.1. Thực trạng xuất khẩu tôm của Việt Nam vào thị trường EU
Năm 2005, do ảnh hưởng của vụ kiện chống bán phá giá ở Mĩ, sản lượng
nhập khẩu tôm của EU từ các nước châu Á gia tăng. Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan và Việt Nam đều tăng khối lượng xuất khẩu sang EU từ năm 2004.
Một trong những lý do đó là lượng nhập khẩu của thị trường EU từ Mỹ Latinh
giảm do sản lượng nơi đây giảm sút.
Tôm luôn là nhóm sản phẩm nhập nhiều nhất của thị trường EU. Năm
2008, giá trị nhập khẩu tôm tăng theo các dạng sản phẩm. Khối lượng nhập
khẩu tăng từ 385 nghìn tấn năm 2000 lên xấp xỉ 539 nghìn tấn năm 2008, với
giá trị tương ứng là 2,5 tỷ USD lên 3,1 tỷ USD.

Việt Nam đứng trong 5 nước xuất khẩu tôm nhiều nhất thế giới.
Đơn vị : triệu USD
Năm 2004
43,6

2005
15,75

2006
32,25

2007
58,9

2008
116,35

2009
281

Năm 2009 là một năm “đáng nhớ” đối với ngành tôm Việt Nam khi khối
lượng xuất khẩu đạt gần 210 nghìn tấn với kim ngạch đạt trên 1,67 tỉ USD,
tăng 9,4% về khối lượng (KL) và 3% về giá trị (GT) so với năm 2008.
Trong số 4 mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm tôm,
cá tra, cá ngừ và nhuyễn thể chân đầu thì tôm là mặt hàng duy nhất tăng
trưởng trong năm 2009 đầy “giông bão”.
Một năm nhìn lại (2009), xuất khẩu tôm Việt Nam sang các thị trường
trên thế giới cũng có nhiều biến động. Mặc dù Nhật, Mỹ và EU vẫn là ba thị

14



trường chính nhưng so với năm 2008, thị phần xuất khẩu tôm sang các thị
trường này có thay đổi đáng kể.
Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 395 triệu USD,
giảm 15,4% so với năm 2008, dẫn tới thị phần xuất khẩu sang thị trường này
giảm từ 28,7% năm 2008 xuống còn 23,6%. Mỹ là nước khởi nguồn của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 nhưng nhập khẩu
tôm Việt Nam vào Mỹ chỉ thật sự giảm sâu kể từ tháng 8/2009. Mức giảm liên
tục duy trì ở 2 con số và kéo dài cho đến hết tháng 12/2009. Ngoài yếu tố
khan hiếm nguyên liệu trong nước, cũng có thể nói ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính dẫn tới suy thoái kinh tế khiến Mỹ gia tăng nhập khẩu tôm
chân trắng từ Thái Lan do lợi thế về giá và kích cỡ phù hợp.
Nhật: Vẫn duy trì vị trí thị trường nhập khẩu tôm số 1 của Việt Nam với
khối lượng nhập gần 57 nghìn tấn, kim ngạch đạt trên 493 triệu USD, nhưng
năm 2009 lại là một năm “khá buồn” đối với nhiều nhà xuất khẩu tôm sang
Nhật. Sau quý I, xuất khẩu tôm sang thị trường này liên tục sụt giảm cho đến
hết tháng 11 dẫn tới xuất khẩu cả năm giảm 3,3% về lượng và 1% về giá trị
Thị phần xuất khẩu giảm từ 30,7% xuống còn 29,5% năm 2009. Kinh tế suy
thoái mạnh, tiêu dùng trong nước giảm là nguyên nhân chính dẫn tới thị
trường này giảm nhập khẩu tôm từ hầu hết các nhà cung cấp truyền thống như
Việt Nam, Ấn Độ..
EU: Là thị trường duy nhất trong ba thị trường chính tăng trưởng khả
quan trong năm 2009. Năm vừa qua, Việt Nam xuất 41 nghìn tấn tôm sang
EU, thu về 281 triệu USD. So với năm 2008, lượng xuất khẩu tăng 26,5% và
giá trị tăng hơn 20% kéo theo thị phần xuất khẩu tăng từ 14,4% lên 16,8%
năm 2009. Cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng không
quá “trầm trọng” nên xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU chỉ sụt giảm trong 5
tháng đầu năm sau đó duy trì sức tăng trưởng mạnh trong suốt 7 tháng cuối


15


năm. Mặc dù giá xuất khẩu tôm sang thị trường EU không cao như giá xuất
sang Nhật và Mỹ nhưng không thể phủ nhận EU là thị trường rất vững vàng
bởi đây là khối kinh tế vững chắc với đồng tiền euro mạnh và ổn định.
Trung Quốc: Năm 2008, Trung Quốc chỉ chiếm 3% thị phần xuất khẩu
tôm Việt Nam thì sang đến năm 2009, Trung Quốc nhanh chóng gia tăng thị
phần lên 5,7%. Có thể nói Trung Quốc là thị trường đáng chú ý nhất trong
năm vừa qua bởi xuất khẩu tôm sang thị trường này chưa một lần tăng trưởng
dưới 2 con số. Có tháng xuất khẩu tôm sang Trung Quốc tăng trưởng tới 3 con
số như tháng 2 (+ 294% về KL và +270% về GT). Không quá khắt khe về
chất lượng cộng với nhu cầu lớn về tôm cỡ trung và nhỏ để sản xuất hàng chế
biến giá trị gia tăng chính là ưu thế của thị trường này. Trung Quốc đã trở
thành thị trường “thay thế” hợp lý nhất cho năm 2009.
Hàn Quốc: Xuất khẩu tôm sang thị trường này năm 2009 cũng rất đáng
ghi nhận. Khối luợng xuất khẩu tăng 35,3% (đạt 16.429 tấn), giá trị tăng
26,2% (đạt 107 triệu USD). Thị phần xuất khẩu sang nước này đã tăng từ
5,2% năm 2008 lên 6,4% năm 2009. Hàn Quốc vốn được coi là thị trường
không quá khó tính về chất lượng sản phẩm nhưng họ cũng sẵn sàng áp dụng
các biện pháp kiểm tra nghiêm ngặt nếu vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Ôxtrâylia: Không phải là một thị trường nổi bật nhưng cũng không thể
không nhắc đến thị trường này trong bức tranh tổng thể xuất khẩu tôm trong
năm 2009. Mặc dù, nước này vẫn đang áp dụng các biện pháp kiểm tra
nghiêm ngặt đối với tôm nguyên liệu nhập khẩu nhưng trong bối cảnh Nhật
giảm nhập khẩu thì Ôxtrâylia lại là điểm đến khác rất tiềm năng. Năm 2009,
Việt Nam xuất khẩu trên 8 nghìn tấn tôm sang Ôxtrâylia, thu về gần 72 triệu
USD, tăng 9,2% về KL và 1,8% về GT. Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng
sang Ôxtrâylia thừa nhận rằng giá xuất sang thị trường này khá cao và ổn


16


định. Nếu đáp ứng được yêu cầu về chất lượng thì đây là một thị trường
không thể bỏ qua.
Năm 2010, XK tôm sang EU cũng tăng trưởng rất đáng chú ý mặc dù
nhiều nước trong khối rơi vào khủng hoảng nợ nghiêm trọng. Nhiều dự báo từ
đầu năm ngờ rằng NK tôm vào khối thị trường chung này sẽ giảm mạnh
nhưng thực tế cho thấy XK tôm Việt Nam sang EU vẫn tăng trưởng cao. 9
tháng đầu năm nay, khối lượng XK sang EU đạt 30.980 tấn, trị giá 225,5
triệuUSD, tăng 10,3% về khối lượng và 18,4% về giá trị so với cùng kỳ năm
ngoái. Đức, Pháp, Anh - 3 nước trong khối EU là những nhà NK hàng đầu
tôm Việt Nam - dường như không chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng
nợ bắt đầu từ cuối năm 2009. Giá trị XK tôm sang 3 thị trường này đều tăng
trưởng khá, trong đó, giá trị XK sang Pháp tăng 56,8%, sang Đức tăng 12,3%
và sang Anh tăng 6,2%.
Dự báo các tháng còn lại của năm, XK tôm Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng
trưởng nếu tình hình thị trường không có nhiều biến động quá lớn.
2.2. Đánh giá về tình hình xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường EU
2.2.1. Những khó khăn khi xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU
-Về khoảng cách địa lý: châu Âu cách Việt Nam (nêu chính xác con số
về khoảng cách). khoảng cách từ Saigon, VN đến USAR Central là 14853 km
(9229 miles) hoặc (8020 nautical miles) theo đường chim bay.Trong hoạt
động xuất khẩu thủy sản, khoảng cách địa lý có ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả kinh doanh. Mọi giao dịch, trao đổi thông tin, đàm phán thương
mại,vận chuyển hàng hóa bằng các phương tiện vận tải công cộng đều cần các
bên đối tác phải đầu tư thêm thời gian, công sức và chi phí tốn kém hơn. Đối
với mặt hàng thủy sản nói chung và tôm nói riêng thì đây là một khó khăn
đáng kể. Thời gian vận chuyển kéo dài có ảnh hưởng không tốt tới chất lượng
tôm xuất khẩu.Đây chính là một trong những nguyên nhân hạn chế tương đối


17


tính cạnh tranh của tôm Việt Nam so với tôm của EU và tôm xuất từ các nước
gần châu Âu hơn.
-Về khả năng cạnh tranh: EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nên
các nhà xuất khẩu thủy sản vào EU cạnh tranh gay gắt và quyết liệt. Các đối
thủ cạnh tranh lớn nhất đối với sản phẩm tôm xuất khẩu của Việt Nam là Thái
Lan (chủ yếu về hàm lượng chế biến), Trung Quốc(chủ yếu về giá), và ẤnĐộ
(về kích cỡ và giá thành).
-Về nguồn cung ứng: Vấn đề đảm bảo nguồn nguyên liệu tôm ổn định
cho chế biến, xuất khẩu thì Việt Nam còn hạn chế so với các nước xuất khẩu
tôm hàng đầu vào EU. Những nhân tố đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định
như công tác quy hoạch vùng nuôi tôm, giống tôm nuôi trồng ở nhiều địa
phương còn mang tính tự phát, chưa đồng bộ và thể hiện tính chuyên môn hóa
cao. Nguồn cung trong nước đang bị khan hiếm, do ảnh hưởng bởi các cơn
bão liên tiếp, một phần khác là tôm bị mắc bệnh...Thêm vào đó do điều kiện
tự nhiên và tính mùa vụ rõ rệt trong khai thác, nuôi trồng dẫn tới tình trạng
thiếu hụt nguyên liệu cho các nhà máy chế biến tôm xuất khẩu thường xuyên,
gây ảnh hưởng không nhỏ đến quy mô sản xuất, thực hiện kế hoạch xuất
khẩu.
-Về thói quen xuất khẩu: Các doanh nghiệp Việt Nam thường quen với
xuất khẩu hàng hóa theo kiểu nhỏ lẻ, làm từng đơn hàng với số lượng hàng
hạn chế, khi kết thúc hợp đồng sẽ chuyển sang tìm đơn hàng khác...Thói quen
này chỉ thích hợp với các thị trường nhỏ, nhu cầu tiêu dùng thấp và không đa
dạng. Trong khi đó EU là thị trường lớn và nhu cầu đa dạng.Sau khi thiết lập
mối quan hệ kinh doanh thì họ thường đặt hàng với số lượng lớn, thời gian
cung cấp kéo dài. Khi nhận được những đơn hàng này các doanh nghiệp Việt
Nam thường không có khả năng cung cấp đủ và đúng hẹn hoặc nếu có thì chất


18


lượng sản phẩm lại không đồng đều. Điều này hạn chế khả năng thiết lập và
duy trì mối quan hệ kinh doanh lâu dài của Việt Nam với nhà nhập khẩu EU.
2.2.2. Những thuận lợi cho thúc đẩy xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU
Về chính sách, quy định pháp luật: Chính phủ vừa ban hành Nghị định
số 89/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
67/2014/NĐ-CP ngày 7-7-2014 của Chính phủ về một số chính sách phát
triển thủy sản.
Theo đó, đối với trường hợp gia cố bọc vỏ thép; bọc vỏ vật liệu mới;
mua ngư lưới cụ, trang thiết bị hàng hải, trang thiết bị khai thác, máy móc
trang thiết bị bảo quản sản phẩm, trang thiết bị bốc xếp hàng hóa, chủ tàu
được vay vốn ngân hàng thương mại tối đa 70% tổng giá trị nâng cấp với lãi
suất 7%/năm, trong đó chủ tàu trả 3%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù
4%/năm. Nghị định cũng bổ sung quy định tàu cá đóng mới phải sử dụng máy
thủy mới; trường hợp nâng cấp máy tàu có thể sử dụng máy thủy mới hoặc
máy thủy đã qua sử dụng theo quy định. Thời hạn cho vay hỗ trợ lãi suất 11
năm đối với trường hợp đóng mới tàu vỏ gỗ hoặc nâng cấp tàu; 16 năm đối
với đóng mới tàu vỏ thép hoặc vỏ vật liệu mới.
Quy định này được áp dụng cả với những Hợp đồng vay vốn ngân hàng
thương mại để đóng mới tàu cá vỏ thép, vỏ vật liệu mới theo quy định tại
Nghị định số 67/2014/NĐ-CP đã ký kết trước ngày Nghị định này có hiệu lực
thi hành từ ngày 25-11-2015.
Ngành thủy sản Việt Nam nỗ lực đổi mới, nâng cao khả năng đáp ứng
yêu cầu của thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy xuất khẩu thủy sản.
Thực hiện chủ trương đổi mới và mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà
nước, ngành thủy sản thời gian qua luôn quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ doanh
nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh đầu tư, cải tiến công nghệ, tăng năng suất

khai thác nuôi trồng thủy sản và mở rộng thị trường xuất khẩu.

19


Để giải quyết vấn đề đầu ra cho hàng thủy sản cũng như thâm nhập
thành công các thị trường thủy sản lớn trong đó có thị trường EU, ngành thủy
sản đã nỗ lực rất lớn trong việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn thực phẩm tương đương của các nước nhập khẩu...Nhờ những hoạt
động này tôm Việt Nam ngày càng củng cố vị trí trên thị trường EU.
-Về nguyên liệu tôm xuất khẩu
Với vị trí địa lý, khí hậu thuận lợi, nguồn tài nguyên biển đa dạng, nguồn
lao động dồi dào, Việt Nam có tiềm năng trong nuôi trồng và khai thác tôm
phục vụ cho xuất khẩu. Tôm dành cho xuất khẩu chủ yếu là tôm nuôi vì kích
cỡ to, đồng đều.Tôm khai thác thường nhỏ, cỡ không đều, đa phần được chế
biến làm tôm khô và các sản phẩm gia tăng khác.Nắm bắt được nhu cầu về
mặt hàng tôm trên thế giới, ở Việt Nam nuôi tôm đã trở thành nguồn chính
cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu.Việt Nam trở thành một nước nuôi trồng,
xuất khẩu tôm sú với khối lượng thuộc vào loại lớn nhất thế giới.
- Về chất lượng tôm
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm vẫn
chú trọng đầu tư, nâng cao năng lực công nghệ, mở rộng việc áp dụng các tiêu
chuẩn mới để tạo niềm tin cho đối tác và thu được nhiều kết quả.

20


3CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU TÔM
CỦA VIỆT NAM VÀO EU


3.1. Giải pháp từ phía nhà nước
3.1.1. Đảm bảo nguồn nguồn liệu tôm cho xuất khẩu
Để khắc phục tình trạng nguồn cung ứng tôm xuất khẩu đang bị khan
hiếm như hiện nay, nhà nước cần đưa ra chính sách phát triển nuôi tôm hợp lí
thông qua qui hoạch phát triển cùng nuôi tôm,tổ chức lại các vùng nuôi tôm
tập trung theo hướng liên kết sản xuất với các nhà khoa học,nhà quản lí,tạo ra
sản lượng lớn và kiểm soát được chất lượng,đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh.
Tổ chức quản lí nhà nước đối với ngành thủy sản nói chung và nuôi tôm
nói riêng theo cả hai chiều là: chiều dọc, theo hệ thống các cơ quan chuyên
ngành và chiều ngang,theo hệ thống bộ máy nhà nước các cấp.Theo chiều
dọc,Điều 52 luật Thủy sản(2003)qui định,’’Bộ thủy sản chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thủy sản trong
phạm vi cả nước”.
Ngoài ra, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các Bộ, cơ quan ngang
Bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Bộ
Thủy sản thực hiện quản lí nhà nước về thủy sản. Theo chiều ngang, Ủy ban
nhân dân các cấp chịu trách nhiệm quản lí nhà nước về thủy sản tại địa
phương theo qui định của luật thủy sản và các qui định khác của pháp luật có
liên quan.
Như vậy là Bộ Thủy sản chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lí nhà
nước hoạt động nuôi tôm trên phạm vi cả nước và Ủy ban nhân dân các cấp
21


chịu trách nhiệm quản lí hoạt động nuôi tôm tại địa phương. Ngoài Bộ Thủy
sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quản lí hoạt động nuôi tôm.

Trong khai thác tôm,tổ chức lại sản xuất trên biển theo tổ đội, hợp tác,
gắn với sử dụng tàu hậu cần dịch vụ,nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng
sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm khai thác đưa vào chế biến xuất khẩu. Bên
cạnh đó, nhà nước hỗ trợ, hoàn thiện chương trình giống theo hướng phải giải
quyết đủ giống để phục vụ nuôi tập trung đúng vụ, nuôi thâm canh và bán
thâm canh.
3.1.2. Nhà nước khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực thủy sản,có chính
sáchhỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu tôm về vốn
Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều
khókhăn về vốn, thiếu vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Hơn thế
nữa ngành tôm Việt Nam đang thiếu các nguồn đảm bảo đầu tư vì đây là một
ngành kinh tế có nhiều rủi ro do thị trường đầu ra có biến động phức tạp. Do
vậy, nhà nước cần chú trọng thực hiện một số biện pháp nhằm đầu tư cũng
như thu hút đầu tư vào lĩnh vực thủy sản nói chung và góp phần nâng cao
năng lực sản xuất cho ngành tôm nói riêng.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và huy động các thành phần kinh
tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tập trung vốn đầu tư xây dựng
hình thành các trung tâm sản xuất lớn, trong đó có các trung tâm chế biến
thủy sản ở các tỉnh trọng điểm, đẩu tư hệ thống chợ thủy sản tại các vùng và
địa phương trọng điểm. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các nguồn lực
đầu tư vào sản xuất nguyên liệu, chế biến thủy sản nói chung và sản xuất
nguyên liệu, chế biến tôm nói riêng.
Ưu tiên thực hiện một số biện pháp như: Ban hành các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, có chính sách

22


riêng với hoạt động xuất khẩu tôm, chính sách tạo vốn giảm thuế... cho các
doanh nghiệp sản xuất chế biến, xuất khẩu tôm.

Với chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ vốn đầu tư... cho ngành nuôi
tôm này, các đơn vị nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu tôm sẽ có điều kiện tốt
hơn để nâng cao số lượng và chất lượng tôm cung ứng cũng như khả năng
cạnh trạnh của ngành hàng này vớicác đối thủ khác trên thị trường.
Thông qua ngân sách nhà nước hàng năm hỗ trợ kinh phí để thực hiện
các công việc liên quan đến kiểm soát vệ sinh an toàn thủy sản vì mục tiêu
sức khỏe người tiêu dùng, các hoạt động xúc tiến thương mại chung cho sản
phẩm thủy sản Việt Nam, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức xúc
tiến đầu mối tại các thi trường trọng điểm. Mặt khác, nhà nước cần nghiên
cứu khả năng cho các doanh nghiệp vay ưu đãi từ quỹ phát triển xuất khẩu
hoặc quỹ hỗ trợ doanh nghiệp tiền đặt cọc.
3.1.3. Nhà nước hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành tôm
Điều này có ý nghĩa quan trọng, là nhân tố quyết định đến thành công
đối với ngành. Việc hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho ngành thực hiện
thông qua hỗ trợ nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề cho ngư dân, đào tạo
mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật, cán bộ thị trường
để có đủ năng lực thích ứng với yêu cầu của kinh tế thị trường, đẩy mạnh đào
tạo cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề cho các doanh nghiệp thủy
sản. Nhà nước cần đa dạng hóa các loại hình thức đào tạo tại chức, tập trung,
phi tập trung...Những người làm việc trong khâu nuôi trồng, chế biến cần
được đào tạo huấn luyện qua các lớp để có được những hiểu biết chung nhất
về kỹ thuật nuôi, chăm sóc và thu hoạch tôm, cách thức chế biến bảo quản
tôm hợp lý đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

23


3.1.4. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tôm tìm hiểu hệ thống
pháp luật thương mại EU
Hệ thống pháp luật của EU rất phức tạp. Để có thể thâm nhập sâu vào

thịtrường EU, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam cần phải có hiểu
biết sâu sắc về luật, qui định về thương mại của Anh. Luật và các qui định về
thuế và hải quan của Anh như danh bạ thuế, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập,
cơ sở tính thuế hải quan hay những qui định về dán mác, xuất xứ hàng hóa...
có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất
khẩu tôm sang EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ không thể
thành công trên thị trường EU mà không nghiên cứu thủ tục nhập khẩu,hàng
rào phi thuế quan với những qui định chi tiết về danh mục hàng hóa hạn chế
nhập khẩu, cấm nhập khẩu, những qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối
với hàng nhập khẩu, luật thuế chống bán phá giá...Để hỗ trợ doanh nghiệp
trong lĩnh vực này, nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn hay hội
thảo, hội nghị về hệ thống pháp luật của các nước EU nhằm nâng cao hiểu
biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với EU.
Đồng thời, nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, Bộ, ngành liên quan xuất
bản và lưu hành những ấn phẩm về vấn đề này dưới dạng sách, những bài
báo, tạp chí... nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các
doanh nghiệp tham khảo.
3.1.5. Nhà nước giúp doanh nghiệp hạn chế các tranh chấp thương
mại,khắc phục rào cản thương mại mà EU áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu từ Việt Nam
Nhà nước Việt Nam cần tăng cường đàm phán cấp chính phủ với EU
nhằm từng bước tạo lập quan hệ hợp tác thương mại ổn định, lâu dài, đôi bên
cùng có lợi. Hiệp định thương mại Việt Nam-EU được kí kết đã mở ra mối
quan hệ thương mại hai bên ngày một phát triển. Tuy nhiên, hàng hóa

24


ViệtNam khi xuất khẩu vào các nước phát triển còn gặp nhiều khó khăn. Mặc
dù Việt Nam đã gia nhập WTO nhưng vẫn bị các nước này xem là nền kinh tế

phi thị trường.Họ cho rằng mặc dù Việt Nam đã có những bước mở cửa thị
trường đáng kể và cho phép có giới hạn quy luật cung cầu tác động tới sự phát
triển kinh tế, song mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế vẫn còn ở
mức làm cho giá cả và chi phí sản xuất không phải là thước đo thực sự của giá
trị.
3.2. Giải pháp từ phía hiệp hội và nội bộ ngành
3.2.1. Tăng cường vai trò của Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu Thủy sản
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam- VASEP là tổ chức
tự nguyện của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực chế biến,
xuất nhập khẩu thương mại thủy sản. Hiệp hội được thành lập nhằm mục đích
phối hợp, liên kết hoạt động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
không phân biệt qui mô sản xuất kinh doanh, giúp nhau nâng cao giá trị, chất
lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam. Các doanh
nghiệp là hội viên chính thức của VASEP hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ. Hiệp hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam và điều lệ
Hiệp hội, được sự bảo trợ của Bộ Thủy sản và các cơ quan nhà nước hữu
quan. Với 185 Hội viên, tổng doanh số các Hội viên VASEP chiếm gần 90%
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
Trong thời gian tới, để thúc đẩy xuất khẩu tôm sang thị trường EU, Hiệp
hội chế biến và Xuất khẩu Thủy sản cần tiếp tục tăng cường vai trò đầu tàu
đối với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tôm sang EU: xác định phương
hướng liên kết và hợp tác sản xuất, chế biến, xuất khẩu tôm sang EU trên cơ
sở tự nguyện của các thành viên, đứng ra bảo vệ quyền lợi của các hội viên
trong các tranh chấp thương mại.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×