Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.89 KB, 36 trang )

NhómNhóm
3 - Liên
3 - Liên
kết FDI
kết với
FDIcác
vớidoanh
các doanh
nghiệp
nghiệp
nội địa
nội địa

BỐ CỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
1. Lý thuyết về các hình thức liên kết FDI với doanh nghiệp nội địa
BÀI TẬP NHÓM
2. Thực trạng liên kết FDI với doanh
nội địa
ĐÀUnghiệp
Tư QUÓC
TẾViệt Nam. Đánh giá và nhận xét
ĐÈ TÀI

LIÊN KẾT FDI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỘI ĐỊA

3. Một số vấn đề đặt ra
Phần 1: LÝ THUYẾT VÈ CÁC HÌNH THỨC LIÊN KÉT FDI VỚI DOANH
NGHIỆP NỘI ĐỊA
1. Liên doanh



Doanh nghiệp liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, ở bất
kỳ các quốc gia nào, doanh nghiệp liên doanh cũng là một tổ chức kinh doanh quốc tế
của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng
Nhóm 3
quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động kinh
doanh theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp
1. Nguyễn Thị Bích Ngọc
phù hợp với luật pháp của nước sở tại.
Khái2.niệm
doanhThị
nghiệp
Hên
doanh
Nguyễn
Hồng
Vân
3. nghiệp
Nguyễnliên
Phuong
Anh
Doanh
doanh
là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở
hợp đồng4. liên
doanhThu
ký Huong
giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với các Bên nước ngoài để
Nguyễn
đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà.

5. Nguyễn Thị May
Các đặc trưng
-

Được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp

luật của nước chủ nhà.
-

HÀ NỘI, THÁNG 10/2011
Mỗi bên liên doanh chịu trác nhiệm với bên kia, với doanh nghiêp liên doanh

Đầu tư
Đầu
quốc
tư quốc
tế 2011
tế 2011

2

1


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

- Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn
khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp
hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp
thuận.

-

Tỷ lệ góp vốn của bên hoặc các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh

thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên
doanh.
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và
các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét
cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20%
vốn pháp định.
- Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn đầu
tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam. Tỷ lệ
góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ lợi
nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
2. BOTvàBTO

BOT: Hình thức đầu tư BOT hay còn gọi là “xây dựng - chuyển giao- kinh
doanh” là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm
quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết
cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý), sau đó
chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
BTO là hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh được hình thành tương tự
như BOT nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài giao lại cho
nước chủ nhà, Chính phủ nước chủ nàh dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình
đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.

Đầu tư quốc tế 2011

3



Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Đặc trưng:
-

Chủ thể: cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà đầu tư ( một hoặc nhiều nhà đầu
tư).

-

Cơ sở pháp lý: hợp đồng

-

Vốn đầu tư của nước ngoài

-

Hoạt động dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài

-

Chuyển giao không bồi hoàn cho nước chủ nhà

-

Đới tượng của hợp đồng: các công trình cơ sở hạ tầng

-


Nội dung hợp đồng: các quyền và nghĩa vụ liên quan đến 3 hành vi chính: xây
dựng, kinh doanh, chuyển giao.

3. Liên kết thông qua các ngành công nghiệp phụ trọ’
Khái niệm về công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ (Supporting Industries) bao gồm những hoạt động sản xuất ra
những sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối
cùng.
Vai trò, đặc điếm
- Trong hoạch định chiến lược và chính sách công nghiệp của một quốc gia, quan hệ
giữa một ngành sản xuất công nghiệp với các ngành phụ trợ của nó là vấn đề quan trọng.
Phát triển hợp lý công nghiệp phụ trợ sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển công
nghiệp và kinh tế của quốc gia.
-

Sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ hạn chế nhập siêu do cung cấp

Đầu tư quốc tế 2011

4


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Đặc điểm
Khi nguồn FDI được đầu tư vào Việt nam, Việc thiếu hụt nghiêm trọng các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ làm các doanh nghiệp phải nhập khẩu gần như
toàn bộ linh kiện, bộ phận, nguyên nhiên liệu đầu vào. Do đó đẩy giá thành sản phẩm lên
cao, dẫn tới giảm khả năng cạnh tranh.

Đe khắc phục nhược điểm này, Các MNC đã kéo theo các doanh nghiệp Vệ tinh vào
Việt Nam, góp phần phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ của việt Nam
Có rất ít doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào ngành này, chủ yếu là các doanh
nghiệp nước ngoài "đi theo" các MNC vào Việt Nam
* Tác động của FDI tói nền kinh tế nưóc chủ nhà
FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau. Theo cách
tiếp cận hẹp, tác động đối với tăng trưởng của FDI thường được thông qua kênh đầu tư và
gián tiếp thông qua các tác động tràn. Theo cách tiếp cận rộng, FDI gây áp lực buộc nước
sở tại phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà trước hết là cải thiện môi trường
đầu tư, qua đó làm giảm chi phí giao dịch cho các nhà đầu tư nước ngoài, tăng hiệu suất
của vốn và rốt cuộc là tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Một số ý kiến còn cho
rằng FDI có thể làm tăng đầu tư trong nước thông qua tăng đầu tư của các doanh nghiệp
trong nước, đặc biệt là những doanh nghiệp trong nước cung cấp nguyên liệu cho doanh
nghiệp FDI họăc tiêu thụ sản phẩm từ các doanh nghiệp FDI. Đồng thời, các chính sách
cải thiện cơ sở hạ tầng của chính phủ nhằm thu hút nhiều vốn FDI hơn cũng thúc đây các
doanh nghiệp trong nước hình thành và phát triến.
Trái lại cũng có một số ý kiến lo ngại về tác động tiêu cực của FDI tới tăng trưởng
kinh tế, cho rằng sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh tranh khốc
liệt với các doanh nghiệp trong nước mà phần thua thiệt thường là các doanh nghiệp
trong nước. Các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường, mất lao động có kỹ năng và
vì vậy có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra, vốn FDI có thể làm cho đầu tư trong nước bị thu

Đầu tư quốc tế 2011

5


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ hội đầu tư họăc đầu tư không hiệu quả do trình độ

công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều này xảy ra khi xuất hiện tác động lấn át đầu tư của
doanh nghiệp FDI.
Hoạt động liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa còn tác động đến các doanh
nghiệp trong nước như tăng áp lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp trong nước phải
tăng hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình phổ biến và chuyển giao công nghệ... Các
tác động này được gọi là tác động tràn của FDI. Việc xuất hiện tác động tràn có thể lý
giải qua sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh
nghiệp trong nước và vì vậy ưu thế thuộc về các công ty đa quốc gia - là các công ty có
thế mạnh về vốn và công nghệ. Nhờ đó các công ty con hoặc liên doanh do các công ty
đa quốc gia thành lập thường có lợi thế về cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong
nước, đặc biệt là các nước kém phát triển. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp nước ngoài
trước hết làm mất cân bằng trên thị trường và buộc các doanh nghiệp trong nước phải
điều chỉnh hành vi của mình nhằm duy trì thị phần và lợi nhuận. Vì vậy, tác động tràn có
thể được coi là kết quả của hoạt động của các công ty nước ngoài diễn ra đồng thời với
quá trình điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp trong nước.
Có thể phân ra bốn loại tác động tràn: (1) tác động liên quan tới cơ cấu đầu ra-đầu vào
của doanh nghiệp, (2) tác động liên quan đến phổ biến và chuyển giao công nghệ, (3) tác
động liên quan đến thị phần trong nước hay tác động cạnh tranh và (4) tác động liên quan
đến trình độ lao động (hay vốn con người).
Tác động tràn loại thứ nhất xuất hiện khi có sự trao đổi/hoặc mua bán nguyên vật
liệu hoặc hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong
nước. Loại tác động này có thể sinh ra theo hai chiều: tác động xuôi chiều (forward
effect) xuất hiện nếu doanh nghiệp trong nước sử dụng hàng hoá trung gian của doanh
nghiệp FDI và ngược lại tác động ngược chiều (backward effect) có thể xuất hiện khi các
doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa trung gian do các doanh nghiệp trong nước sản xuất.
Việc các doanh nghiệp trong nước cung cấp hàng hoá trung gian cho doanh nghiệp FDI

Đầu tư quốc tế 2011

6



Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất và giảm chi phí trên 1 đon vị
sản phẩm.
Đồng thời để duy trì mối quan hệ bạn hàng lâu dài, các doanh nghiệp trong nước phải đáp
ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI, nhất là về chất lượng sản phẩm nên có xu hướng
áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng mới trong sản xuất. Chính hành vi này giúp doanh
nghiệp trong nước tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường sản phẩm trong trung và dài
hạn. Nhiều nghiên cứu thực tiễn cho rằng hầu hết các doanh nghiệp trong nước khó trở
thành nhà cung cấp nguyên liệu/hàng hoá trung gian đầu vào cho doanh nghiệp FDI do
không đáp ứng được yêu cầu do phía cầu đưa ra. Tuy nhiên, nếu tác động ngược chiều
xảy ra thì các doanh nghiệp trong nước có khả năng bứt lên và tiến hành xuất khẩu hoặc
chiếm lĩnh dần thị phần sản phẩm mà trước đây do các doanh nghiệp FDI thống lĩnh. Vì
vậy, tác động ngược chiều này là mong muốn và rất có ý nghĩa đối với các nước chậm
phát triển

Biểu hiện của tác động tràn :
Kênh di chuyến lao động: Lao động có kỳ năng chuyển từ doanh nghiệp FDI tới
doanh nghiệp trong nước được coi là một kênh quan trọng có thể tạo ra tác động tràn tích
cực. Tác động tràn xảy ra nếu như số lao động này sử dụng kiến thức đã học được trong
thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI vào công việc trong doanh nghiệp trong
nước.
Kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác
động tràn tích cực của FDI. Nhiều nghiên cứu cho rằng công nghệ mới chủ yếu do các
công ty mẹ tạo ra, trong khi các công ty con ở các nước đang phát triển hầu như chỉ tập
trung vào khâu sản xuất chiếm lĩnh thị trường dựa trên các lợi thế về công nghệ do công
ty mẹ cung cấp. Vì vậy, khả năng tiếp cận công nghệ mới của các công ty con hoạt động
ở nước nhận đầu tư càng cao, càng có lợi cho quá trình sinh ra tác động tràn tích cực qua

rò rỉ công nghệ. Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh là tác động tràn còn phụ thuộc vào khả
năng hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp trong nước và mức chênh lệch về công nghệ
giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

Đầu tư quốc tế 2011

7


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Kênh liên kết sản xuất: Như đã phân tích, liên kết sản xuất là một kênh quan
trọng tạo ra tác động tràn . Tác động “ngược chiều” có thể xuất hiện nếu các doanh
nghiệp trong nước cung cấp nguyên liệu hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp
nước ngoài. Mức độ của tác động càng cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc
nguyên liệu cung cấp càng nhiều, tức là quan hệ tỷ lệ thuận.
Kênh cạnh tranh: Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo áp lực cạnh
tranh lớn cho các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đối với doanh nghiệp trong cùng
nhóm ngành. Để thu được biểu hiện của kênh tác động này, Bảng hỏi đã thu thập thông
tin về sức ép cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự đánh giá.
Ket quả cho thấy, trong khi khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất
giữa các doanh nghiệp này với nhau, thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ
đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ doanh nghiệp FDI và chính các doanh
nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về sản phẩm
(chủng loại, mẫu mã mới), thì doanh nghiệp trong nghiệp trong nước lại đánh giá cao

Đầu tư quốc tế 2011

8



Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Phần 2: THựC TRẠNG LIÊN KÉT FDI VÓI DOANH NGHIỆP NỘI ĐỊA VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT

1. Thực trạng hình thức liên doanh

Nhờ có hình thức liên doanh mà rất nhiều các dự án lớn đã được thực hiện. Tiêu biểu:
Dự án thép của Lỉon và Vinashỉn: 9,8 tỷ USD
Dự án lớn nhất năm được cấp phép vào tháng 9, cho liên doanh giữa Tập đoàn Lion
của Malaysia và Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) với tổng vốn đầu
tư 9,79 tỷ USD, trong đó Việt Nam góp 26% vốn. Khu liên hợp có tên Cà Ná, đặt tại
Cụm công nghiệp Dốc Hầm, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận, gồm nhà máy sản xuất
thép nóng, thép nguội, nhà máy oxy, cảng biển và nhà máy nhiệt điện.
Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn: 6,2 tỷ USD
Đây là nhà máy lọc dầu thứ hai của Việt Nam, sau Dung Quất, do liên doanh của Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Dầu khí quốc tế Kuwait (KPI), công ty
Idemitsu Kosan (IKC) và công ty Hóa chất Mitsui (MCI) của Nhật thực hiện.
Nhà máy này đặt tại khu kinh tế Nghi Sơn, Thanh Hóa và khi hoàn thành vào năm
2013, sẽ có công suất 200.000 thùng dầu mỗi ngày, tương đương 10 triệu tấn mỗi năm.
Phía Việt Nam sẽ góp 25,1% vốn trong dự án, KPI và IKC cùng góp 35,1%, và MCI
4,7%. Phía Kuwait cung cấp toàn bộ nhu cầu dầu thô của nhà máy, vào khoảng 10 triệu
tấn mỗi năm cho giai đoạn đầu và tăng lên 20 triệu tấn khi mở rộng dự án.
Việc PVN tham gia liên doanh với các doanh nghiệp FDI tại nhà máy lọc hóa dầu
Nghi Sơn nằm trong chiến lược phát triển khâu sau dầu khí của tập đoàn này, nhằm đảm
bảo an ninh năng lượng và phát triển công nghiệp hóa dầu cũng như công nghiệp phụ trợ.
Đầu tư quốc tế 2011


9


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Tổ hợp hóa dầu Long Sơn: 3,7 tỷ USD
PVN, Tổng công ty Hóa chất (Vinachem) và 2 doanh nghiệp Thái Lan đã thành lập
liên doanh để xây dựng tổ hợp hóa dầu thứ ba tại Việt Nam, sau các nhà máy Dung Quất
và Nghi Son, với tổng vốn trên 3,77 tỷ USD. Dự án này đuợc cấp phép vào tháng 7, thực
hiện tại Khu công nghiệp dầu khí Long Sơn, TP Vũng Tàu.
Tổ hợp sẽ sản suất và tiêu thụ các hóa chất cơ bản, khí công nghiệp, nguyên liệu
nhựa, các sản phẩm từ dầu khí và các sản phẩm hóa dầu khác. Dự án cũng bao gồm cảng,
cầu cảng chuyên dùng và các kho bãi phục vụ tổ hợp. PVN và Vinachem lần luợt góp
18% và 11% trong vốn điều lệ của dự án. Hai doanh nghiệp Thái Lan là Công ty TNHH
Vina SCG và Công ty TNHH nhựa và hóa chất Thái Lan góp 53% và 18%. Dự án thực
hiện từ quý III năm nay, đến cuối năm 2016 sẽ hoàn tất, trong đó dự kiến hạ tầng cơ sở
chung hoàn thành vào năm 2011.
Liên doanh Gtel Mobile: 1,8 tỷ USD
Công ty Viễn thông di động toàn cầu Gtel Mobile là liên doanh giữa Tổng công ty
Viễn thông toàn cầu GTel (Bộ Công an) và tập đoàn Vimpel - Com của Nga, với tổng
vốn 1,8 tỷ USD. Trong đó, GTel nắm giữ 60% cổ phần, Vimpel - Com 40%. Đối tác của
Gtel, Vimpel - Com là tập đoàn dịch vụ di động lớn thứ hai của Nga, chuyên đầu tu và
khai thác dịch vụ viễn thông tại nuớc này và nhiều quốc gia SNG.
Bên cạnh những lợi ích thì hình thức liên doanh cũng mang lại khá nhiều phiền phức
cho các doanh nghiệp Việt Nam, có trường hợp dẫn đến trắng tay:
- Tổng công ty Xây dựng Hà Nội có 25% (gần 62 tỷ đồng) vốn góp trong Công ty
Quốc tế Hồ Tây, là liên doanh với tập đoàn PID (Singapore). Sau 4 năm kinh doanh ế ẩm,
liên doanh này bị lỗ 545,4 tỷ đồng. Neu đối chiếu theo tỷ lệ góp vốn thì phía Việt Nam
phải gánh số lỗ 136,4 tỷ đồng, “thừa sức” mất bay vị trí trong liên doanh. Tổng công ty


Đầu tư quốc tế 2011

10


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

xây dựng Hà Nội chỉ là 1 trong số 31 doanh nghiệp trong ngành xây dựng đang hoạt động
với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD; vốn pháp định 455 triệu USD, đang phải chịu những
khoản lỗ quá sức.
-

Công ty khách sạn Vườn Bắc Thủ đô có vốn đầu tư 4,14 triệu USD, vốn pháp định

2,74 triệu USD, trong đó đối tác Việt Nam là Công ty Xây dựng bảo tàng Hồ Chí Minh
góp 30% (111,9 tỷ đồng). Thế nhưng số lỗ trong giai đoạn 1997-2000 đã lên đến 34,7 tỷ
đồng. Neu chia tỷ lệ lỗ tưong ứng cho phía Việt Nam thì Công ty Xây dựng bảo tàng Hồ
Chí Minh sẽ phải chịu khoản “âm” 10,4 tỷ đồng, gần hết vốn góp trong liên doanh.
Nguyên nhân lỗ chủ yếu của liên doanh đưa ra là do tình trạng “đóng băng” kinh doanh
dịch vụ du lịch trong thời gian qua.
-

Công ty Liên doanh Ket cấu thép POS-Lilama (vốn đầu tư hơn 20 triệu USD), vốn

pháp định 8,4 triệu USD, phía Việt Nam là Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama)
góp vốn 30%, tương đương 36,3 tỷ đồng, nhưng số lỗ luỹ kế lên tới gần 129 tỷ đồng.
Theo đó, Lilama chẳng những sẽ mất hết phần vốn góp trong liên doanh mà còn bị âm
thêm gần 2,4 tỷ đồng nữa.
Ngoài ra còn một loạt liên doanh trong ngành xây dựng khác bị lỗ lớn. Công ty Xi
măng Sao Mai (Hà Tiên) bị lỗ 124 tỷ đồng, nguyên nhân chính là do đã vay tới vài trăm

triệu USD của Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) với lãi suất 14%/năm để đầu tư xây dựng
cơ bản. Công ty Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hoá) bị lỗ 207 tỷ đồng.
Nguy cơ bị hất văng ra khỏi liên doanh của những doanh nghiệp nhà nước ngành xây
dựng là nhãn tiền, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn phải bù lỗ cho liên doanh.
■=> Đánh giá và Nhận xét:
Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, để khắc phục những rủi ro có thể
gặp phải, họ chọn hình thức liên doanh. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được
lợi rất nhiều từ việc liên kết với doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì vậy trong thời gian

Đầu tư quốc tế 2011

11


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

đầu, khi đang xây dựng thương hiệu thì mức độ liên kết của các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp Việt Nam là rất chặt chẽ. Sau một khoảng thời gian nhất định, khi các
doanh nghiệp nước ngoài đã vượt qua được những hàng rào về môi trường, pháp lý... và
khi đó thương hiệu cũng đã được khẳng định thì họ lại không muốn liên doanh nữa. Vì
lợi nhuận phải chia sẻ, và một số lí do khác về công nghệ. Chính lúc này, mức độ liên kết
trở nên lỏng lẻo vì mong muốn của hai bên đã không còn chung nhất. Trong nhiều trường
hợp doanh nghiệp Việt Nam bị đẩy ra khỏi liên doanh. Bản thân doanh nghiệp Việt Nam
cũng luôn là bên góp ít vốn hơn so với doanh nghiệp nước ngoài, trình độ chuyên môn kĩ
thuật cũng không bằng. Do đó trở nên yếu thế hơn so với doanh nghiệp nước ngoài trong
tập đoàn
Nguyên nhân
- Các cơ quan quản lý chưa có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, tháo gỡ những khó
khăn về tài chính của các liên doanh, đặc biệt là sau khi cấp phép, các liên doanh bước
vào sản xuất kinh doanh. Nhiều liên doanh chưa xây dựng cơ chế quản lý, điều hành

thích hợp. Một số đối tác Việt Nam chưa tạo được thế đứng vừng mạnh trong liên doanh,
thậm chí phó mặc cho phía nước ngoài giải quyết khó khăn nên đã dẫn đến thua lỗ kéo
dài.
- Một số cán bộ phía Việt Nam được cử vào bộ máy quản lý, điều hành liên doanh
chưa làm tròn trách nhiệm trong việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi, không thông tin kịp thời
cho các đối tác Việt Nam và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, có không ít đối
tác Việt Nam chưa có biện pháp xử lý kiên quyết khi liên doanh thua lỗ.
- Một số đối tác Việt Nam chưa tạo được thế đứng vừng mạnh trong liên doanh,
thậm chí phó mặc cho phía nước ngoài giải quyết khó khăn nên đã dẫn đến thua lỗ kéo
dài.
- Vai trò của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh còn bị hạn chế. Năng
lực, trình độ của bên Việt Nam quyết định vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp
liên doanh. Một khi bên Việt Nam có năng lực và trình độ thực sự, bên nước ngoài luôn

Đầu tư quốc tế 2011

12


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

luôn coi trọng bên Việt Nam, họ rất tôn trọng quyết định của bên Việt Nam trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Thực tế hiện nay, một phần do
năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý của bên Việt Nam có hạn mà vai trò của bên Việt
Nam ở doanh nghiệp liên doanh chua đuợc phát huy tới mức cần thiết. Mặt khác, nhân tố
bên nuớc ngoài cũng tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên
doanh. Neu bên nuớc ngoài thực sự coi trọng pháp luật Việt Nam thì họ rất tôn trọng bên
Việt Nam, do đó vai trò của bên Việt Nam cũng đuợc nâng cao, còn nguợc lại thì vai trò
của bên Việt Nam không đuợc phát huy. Tuy nhiên sở dĩ có hiện tuợng bên nuớc ngoài
thiếu tôn trọng bên Việt Nam cũng là do mối quan hệ của hai bên trong hoạt động sản

xuất kinh doanh không tốt, nhiều bất đồng nảy sinh.
Ngoài ra, chính những quy định trong hợp đồng lao động, điều lệ liên doanh, các
quyết định của Hội đồng quản trị cũng tác động tới vai trò của bên Việt Nam trong doanh
nghiệp liên doanh. Điều cần thiết ở đây là đòi hỏi bên Việt Nam luôn luôn phải tỉnh táo,
song phải có tinh thần hợp tác, có nhu vậy thì việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở
doanh nghiệp liên doanh mới đuợc thể hiện và phát huy. Chúng ta đi xem xét nhu doanh
nghiệp liên doanh Cocacola, do vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp quá yếu, vì
vậy bên Việt Nam không thể quyết định đuợc hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó
đặc biệt là hoạt động Marketing do đó dẫn tới chi phí cho những việc này quá lớn, gây
thua lỗ kéo dài ở doanh nghiệp, và do vậy bên Việt Nam phải bán cổ phần cho bên nuớc
ngoài, biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nuớc ngoài. Như vậy,
chúng ta có thể thấy vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh là rất quan
trọng, do đó đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hơn nữa vai trò của bên Việt Nam trong
doanh nghiệp liên doanh.
Sở dĩ chúng ta phải nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở bộ máy quản lý của doanh
nghiệp liên doanh là do rất nhiều nguyên nhân.

Đầu tư quốc tế 2011

13


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Trước tiên, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong bộ máy quản lý của doanh
nghiệp liên doanh là góp phần bảo vệ lợi ích của các bên tham gia doanh nghiệp, trong đó
có lợi ích của bên Việt Nam.
Bên Việt Nam trong hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc của doanh nghiệp liên
doanh cùng với bên nước ngoài tham gia điều hành doanh nghiệp, họ cũng ra quyết định
trong mọi vấn đề của doanh nghiệp liên doanh. Do đó bên Việt Nam đóng một vai trò

không nhỏ trong việc ra quyết định đó, nhờ vậy mà bên Việt Nam đã bảo vệ lợi ích của
chính mình trong doanh nghiệp liên doanh. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
liên doanh, không phải bất kỳ một quyết định nào cũng có lợi cho bên Việt Nam, do vậy
đòi hỏi vị thế của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh phải có đủ uy tín, đủ độ
kiên quyết, có như vậy thì bên Việt Nam mới không bị thua thiệt trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp chính là nguyên nhân nâng cao
vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh, ở đây, lợi ích của doanh nghiệp
chính là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố phúc lợi xã hội,...Hoạt động
của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh phải luôn có hiệu quả, luôn luôn tạo ra
lợi nhuận như HĐQT đã đề ra,..., có như vậy thì doanh nghiệp liên doanh mới có thể tồn
tại và phát triển. Bên Việt Nam là một phần của doanh nghiệp liên doanh, việc nâng cao
vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh là rất cần thiết và chính nhờ đó mà
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh mới được trôi chảy.
Song song với việc đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, việc nâng cao vai trò của bên
Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh cũng đã bảo đảm được lợi ích của người lao động
nói riêng và tập thể người lao động nói chung. Một trong những vai trò của bên Việt Nam
trong doanh nghiệp liên doanh là phải đảm bảo được lợi ích của người lao động. Cùng
với bên nước ngoài, bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh luôn luôn phải tham
gia vào các hoạt động về quản trị nhân lực trong doanh nghiệp, có như vậy thì mới có thể
đảm bảo được lợi ích của người lao động. Việc vai trò của bên Việt Nam được nâng cao

Đầu tư quốc tế 2011

14


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

hom cũng không nằm ngoài mục đích là đảm bảo cho người lao động về tiền lương, tiền

thưởng, điều kiện lao động, an toàn lao động...Một thực tế hiện nay ở các doanh nghiệp
liên doanh Việt Nam là hiện tưọng bên nước ngoài ngược đãi lao động Việt Nam, sở dĩ
có điều này cũng là do bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh chưa có uy tín, không
được coi trọng, do vậy việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam ở doanh nghiệp liên
doanh là rất cần thiết.
Cuối cùng, một trong những nguyên nhân mà phải nâng cao vai trò của bên Việt
Nam là bên Việt Nam luôn luôn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Lợi ích của Nhà
nước ở đây được hiểu là pháp luật Việt Nam, các chính sách về doanh nghiệp liên doanh
của Việt Nam, hiệu quả kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, và đặc biệt là đúng chủ
trương đường lối của Đảng. Bên Việt Nam cùng với Bên Nước ngoài trong doanh nghiệp
liên doanh luôn luôn phải đảm bảo mọi hoạt động của doanh nghiệp liên doanh luôn phải
đi đúng hướng, tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam.. .Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng,
việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh là một trong các
biện pháp chính để đảm bảo lợi ích Nhà nước Việt Nam, chủ quyền Quốc gia, qua đó ta
thấy được sự cần thiết trong việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp
liên doanh.
Nói tóm lại, việc nâng cao vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh là
thực sự cần thiết, một mặt nó bảo đảm được lợi ích của doanh nghiệp, mặt khác nó đảm
bảo được lợi ích của chính bên Việt Nam, của người lao động và lợi ích Nhà nước Việt
Nam. Đe có thể thấy rõ hơn về vai trò của bên Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh,
dưới đây chúng ta đi xem xét các nhân tố tác động tới bên Việt Nam hay doanh nghiệp
liên doanh.

Đầu tư quốc tế 2011

15


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa


2. Thực trạng đầu tư theo phưong thức BOT ỏ’ Việt Nam
a. Lĩnh vực đầu tư
Đe đạt được mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020
thì vấn đề quan trọng hàng đầu, theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Ke hoạch và Đầu
tư,là việc huy động nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Nguồn vốn này có vai trò rất quyết
định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Nhận thấy các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT là những hình thức thu hút vốn hữu
hiệu ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã liên tục ban hành các văn bản để sửa đổicác
hình thức đầu tư này cho phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam. Quy chế đầu tư BOT
(xây dựng- kinh doanh- chuyển giao) được Chính phủ ban hành theo Nghị định 87/CP
ngày 23- 11- 1993 nhằm áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sauđó gần
4 năm, Nghị định 77/CP lại bổ sung thêm Quy chế đầu tư BOT dành cho các doanh
nghiệp trong nước cùng tham gia. Tiếp đó Nghị định 62 về quy chế đầu tư theo hợp đồng
BOT, BTO, BT cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được ban hành vào ngày
15/8/1998. Ngày 27/01/1999, Nghị định 02 về sửa đổi, bổ sung, một số điều quychế đầu
tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng được
ban hành. Hiện tại các dự án BOT mới chỉ xuất hiện trong ba lĩnh vực: điện, nước và giao
thông vận tải. Trong đó các dự án này tỏ ra đặc biệt hiệu quả trong ngành điện. Các dự án
BOT trong ngành điện đang tiến triển một cách tốt đẹp và sẽ đưa vào khai thác
kinhdoanh trong những năm tới.
Theo số liệu của ngành điện, nhu cầu tiêu thụ điện hàng năm tăng khoảng 14%-15%
và muốn đáp ứng được mức tăng này cũng phải bỏ ra mỗi năm khoảng 1 tỉ USD tiền vốn
đầu tư. Trong khi đó khả năng tự đầu tư của ngành điện chỉ đáp ứng được từ 250-300triệu
USD từ các khoản khấu hao cơ bản, tăng giá và phụ thu, lợi nhuận sau thuế... Tổng
nguồn vốn đầu tư để có thể đáp ứng được nhu cầu về điện và năng lượng chiếm tới
12%giá trị GDP. Chính phủ chỉ có thể cung cấp 25% số vốn cần thiết, trong khi nguồn
vốn ODA chỉ có thể tài trợ được khoảng 17%. Như vậy rõ ràng là nguồn vốn đầu tư của

Đầu tư quốc tế 2011


16


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

khu vực tư nhân sẽ là nguồn vốn chủ đạo, chiếm 58% còn lại. Vì lý do này mà hiện nay
tất cảc ác dự án phát triển điện đều được Chính phủ cam kết bao tiêu toàn bộ sản lượng
điện sản xuất ra thông qua các hợp đồng mua bán điện với ngành điện trong nhiều năm.
Đây chính là cơ hội khá thuận lợi cho các dự án đầu tư BOT và rất “hấp dẫn” các đối tác
đầu tư có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Hiện nay, Bộ Công Thương đang triển khai đàm phán và chuẩn bị hồ sơ mời thầu để
phát triển 11 dự án nguồn điện theo hình thức BOT với tổng công suất trên 13.000MW,
trong đó 8 dự án đã có chủ đầu tư, 3 dự án còn lại đang triển khai đấu thầu chọn chủ đầu
tư. Một số dự án đã ký được hợp đồng BOT để khởi công trong năm nay và đưavào vận
hành năm 2014. Dự án nhà máy nhiệt điện than BOT Hải Dương công suất khoảng 1.200
MW đã được ký tắt hợp đồng BOT vào cuối năm 2010 và hiện đang được Bộ Ke hoạch
và Đầu tư thẩm định để cấp giấy chứng nhận đầu tư. Bên cạnh đó, 6 dự án khác cũng
đang được triển khai và đàm phán rất khẩn trương để sớm khởi công. Bộ Công Thương
cũng đang chuẩn bị hồ sơ mời thầu quốc tế, dự kiến phát hành trong năm 2012,để lựa
chọn chủ đầu tư phát triển dự án BOT nhiệt điện khí Ô Môn 2 có công suất750MW tại
Cần Thơ và dự án BOT nhiên điện than Vũng Áng 2 có công suất 1.300 MWtại Hà Tĩnh.
Ngành nưóc cũng đã có ba dự án xây dựng nhà máy xử lý nước tập trung ở khu vực
miền Nam để đáp ứng nhu cầu về nước sạch ngày càng tăng trong sinh hoạt cũng như sản
xuất của thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực lân cận. Đe có thể đáp ứng nhu cầu
nước sạch đã qua xử lý cho người dân thành phố thì số tiền đầu tư cho hệ thống cấp nước
lên tới 1.600 tỷ đồng. Tuy nhiên hệ thống đường ống cung cấp nước của thành phố hiện
nay đang xuống cấp trầm trọng, 33% lượng nước bị mất do đường ống dò rỉ và trang thiết
bị lọc, bơm nước quá hạn sử dụng làm tăng giá điện và gây ra tình trạng thiếu hụt nước
thường xuyên trong khu vực dân cư đông đúc này. Những nhà máy hiện thời chỉ có khả
năng cung cấp được 800.000m3 một ngày trong khi nhu cầu tiêu dùng cao hơn lượng

cung cấp này là hơn 1 triệum3. Như vậy để bù lại khoảng cách về cung cầu này thì sự cần
thiết của các nhà máy nước mới với công suất cao là tất yếu.

Đầu tư quốc tế 2011

17


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Riêng đối với ngành giao thông vận tải, so với trước những năm 1990 thì nguồn vốn
đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đã tăng lên đáng kể. Ngoài nguồn vốn từngân
sách nhà nước còn có thêm các nguồn vốn khác từ bên ngoài như ODA, FDI dưới mọi
hình thức khác nhau như liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, nguồn đóng
góp của nhân dân. Ket quả là đã ngăn chặn được tình trạng xuống cấp của các côngtrình
giao thông đồng thời cải thiện đáng kể hệ thống đường sá, cầu cống. Hiện nay, các dự án
BOT trong ngành giao thông vận tải đều do các chủ đầu tư trong nước tiến hành.Thực
chất, các dự án này được các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn hoặc sử dụng nguồnvốn vay
để xây dựng công trình và vận hành khai thác kinh doanh thu phí để hoàn vốn.Các nhà
đầu tư thường là các tổng công ty lớn của Nhà nước như Tổng công ty công trình giao
thông 1, Tổng công ty xây dựng Sông Đà. Các công trình xây dựng sẽ do các công ty này
quản lý mà không có giai đoạn chuyển giao cho Nhà nước. Các dự án này được gọi là dự
án BOT trong nước. Tuy nhiên, có thể nói đây là một hình thức trá hình của phương thức
BOT, vì hình thức này khác với định nghĩa về phương thức BOT: là hình thức nhà đầu tư
bỏ vốn ra xây dựng công trình, được quyền tiến hành kinh doanhtrong một thời gian hợp
lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn cho Chính phủ, các dự án BOT trong nước không
hề có giai đoạn chuyển giao.
b. Một số dự án BOT ở Việt Nam.
Ngành cấp thoát nước - Công ty nước Bình An
Công ty nước Bình An- một công ty BOT 100% vốn sở hữu nước ngoài đã được cấp

Giấy phép đầu tư số 1170/GP ngày 15/3/1996. Mục tiêu của công ty BOT là xây dựngvận hành- chuyển giao nhà máy nước công suất 100.000m3/ngày theo hình thức BOT tại
đồi Bình An, tỉnh Bình Dương nhằm cung cấp nước sạch cho TP Hồ Chí Minhvà vùng
lân cận. Chủ đầu tư sẽ triển khai dự án theo hợp đồng BOT trong vòng 20 năm được ký
kết giữa Chính phủ Việt Nam và hai tập đoàn của Malaysia là: EMASUTILITLES
CORPORATION (đóng góp 90% vốn); SADEC MALAYSIAN COSORTIUM (đóng
góp 10% số vốn còn lại). Quy mô của dự án này không lớn, tổng vốn đầu tư chỉ có 35,8

Đầu tư quốc tế 2011

18


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

triệu đô la và vốn pháp định là 10, 8 triệu đô la, số vốn đầu tư còn lại được huy động từ
các cổ đông.Đây là dự án BOT đầu tiên tại Việt Nam nên hợp đồng BOT được ký kết
trên cơ sở thương lượng với ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với nhà đầu tư,
không đấuthầu cạnh tranh. Nước đã xử lý được bán trên cơ sở bán buôn cho Công ty cấp
nước thành phố Hồ Chí Minh với giá bán là 20 xu Mỹ/m3. Nhà máy cung cấp nước Bình
An được tập đoàn Sadec Maylaysian Cosortium tiến hành thương lượng từ đầu năm
1994. Dự án đã được phê duyệt và cấp Giấy phép đầu tưvào 15/3/1995. Công ty BOT
được thành lập và dự kiến sẽ xây dựng nhà máy trong vòng 24 tháng.Công ty đã hoàn
thành việc xây dựng trong thời gian 33 tháng kể từ ngày được cấp đất và đã vận hành nhà
máy, cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh kể từ ngày 1 tháng 8 năml999. Công suất cấp
nước hiện nay là 100.000 m3/ngày
Ngành điện - Công ty Năng lượng Mê Kông (Phủ Mỹ 2.2)
Dự án điện Phú Mỹ 2.2 được cấp Giấy phép đầu tư số 2226/GP ngày 18/9/2001 sẽ
được công ty Năng lượng Mê Kông (MECO) xây dựng quản lý và vận hành theo phương
thức BOT, nhà máy điện xây mới có công suất 715 MW theo hình thức BOT tại thị trấn
Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Dự án BOT có quy mô lớn nhất Việt

Nam từ trước đến nay (vốn đầu tư: 480 triệu đô la trong đó vốn pháp định là 140 triệu
đôla) do tập đoàn Pháp góp 56,25%, Nhật Bản góp 28,125% và Hà Lan góp 15,625%.
Công ty BOT sẽ hoạt động trong 20 năm.Cho đến nay, công ty đã hoàn thành việc sửa
đổi, bổ sung Hợp đồng BOT và ký Hợp đồng vay vốn. Dự án được xây dựng và đưa vào
sử dụng từ tháng 12 năm 2004. xếp theo thứ tự thời gian, đây là dự án BOT thứ 3 sẽ đi
vào vận hành thành công.
Các dự án ngành giao thông vận tải
Có thể điểm qua một số dự án tiêu biểu như: cầu cỏ May (trên QL51), QL13(thuộc
địa phận Bình Dương), đoạn An Sương - An Lạc thuộc QL1A trên địa bàn TP HồChí
Minh, cầu Yên Lệnh (Hưng Yên), cầu Ông Thìn, cầu Bình Triệu (khu vực TP Hồ

Đầu tư quốc tế 2011

19


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

ChíMinh), đường tỉnh lộ 16 - tỉnh Đồng Nai, cầu Rạch Miễu, QL2 đoạn Nội Bài - Vĩnh
Yên,đường tránh TP Vinh, Thanh Hóa, Đồng Hới, Hà Tĩnh trên QL1,...
■=> Đánh giá và Nhận xét
> Tác động đối với nước chủ nhà
❖ Ưu điểm
Đặc điểm cơ bản của các dự án BOT là qui mô lớn và lượng vốn lớn do vậy góp
phần cho sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia nước chủ nhà. Đây là một trong các hình
thức huy động vốn bằng ngoại tệ, ho trợ nước chủ nhà rút ngan thời gian tích ỉũy ban
đầu cho công nghiệp hóa, tiết kiệm được nguồn von khan hiếm của Chính phủ, bù đắp
thiếu hụt về ngoại tệ, tạo nguồn thu ngân sách từ việc thu một phần lợi nhuận của công ty
BOT và thu hút ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ có liên quan, tạo ra nhiều công ăn việc
làm và thu nhập cho nhiều người lao động.

Ưu điểm nổi bật của phương thức này là có thể tiến hành tiếp nhận đầu tư mà
không làm tăng thêm nợ hiện tại của nước chủ nhà, do ở giai đoạn chuyến giao Nhà nước
không phải trả một khoản chi phí nào vì nguyên tắc cơ bản của phương thức này
làchuyển giao không bồi hoàn. Một lợi ích khác là Nhà nước có thể tiết kiệm được tiền lãi
đế trả cho các khoản vay nếu thay vì đầu tư bằng phương thức BOT thì Nhà nước lại đầu
tư vào các cóng trình này bằng các nguồn von cho vay.
Các dự án BOT còn có tác dụng giảm bớt vai trò độc quyền của Nhà nước trong
một số lĩnh vực không cần thiết giữ độc quyền, đồng thời huy động tính hiệu quả của các
thành phần kinh tế khác. Khai thác mọi tiềm năng kinh tể phục vụ xây dựng và phát trỉến
cơ sở hạ tầng, nhất là thành phần kinh tế tư nhân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn
diện. Riêng với các nước đang phát triển thì giải quyết được những eo hẹp về nguồn
vốn,kinh nghiệm và nguồn nhân lực dồi dào.
Khai thác được luồng đầu tư của khu vực tư nhân vào phát triến cơ sở hạ tầng.
Các nguồn vốn này cho phép nước chủ nhà thúc đấy nhanh việc xây dựng các dự án quan

Đầu tư quốc tế 2011

20


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

trọng mà không phải chờ đợi các nguồn vốn hạn chế từ Chính phủ. Đồng thời giảm chi
phí xây dựng, vận hành do có sự tham gia của khu vực tư nhân với mục đích tìm kiếm
lợinhuận từ các công trình này. Cam kết bằng nguồn von chủ sở hữu và nguồn thu từ
chính sản phấm từ vốn đầu tư tạo cho các nhà đầu tư tư nhân những động lực khuyến
khích nhằm phát trỉến, thiết kế, xây dựng và vận hành dự án một cách hiệu quả nhất.
Neu như trước đây Nhà nước độc quyền trong các dự án co sở hạ tầng thì đồng
nghĩa với việc gánh chịu mọi rủi ro và chi phí, với sự tham gia của khu vực tư nhân thì
rủi ro sẽ được phân bổ cho cả khu vực tư nhân và Nhà nước. Một ưu việt hơn của phương

thức đầu tư này là khác với hình thức tư nhân hóa, Nhà nước mất quyền kiểm soát với
các dự án thì trong các dự án BOTNhà nước vẫn có quyền kiếm soát tiến trình hoạt động
của dự án ở một mức độ nhất định. Hơn nữa khi công trình chuyển giao cho Nhà nước thì
vẫn có một thời hạn bảo lãnh của nhà đầu tư đối với lợi ích thu được từ dự án.
Các dự án đầu tư dưới dạng BOT thường là các dự án có kỹ thuật cao, công nghệ
tiên tiến do đó tạo cơ hội học hỏi về kỹ thuật, bí quyết, trình độ quản lý cho các cán
bộ,chuyên gia cũng như người lao động của nước nhận đầu tư. Ngoài ra nước nhận đầu
tưcòn được chuyển giao công nghệ mà không mất thêm chi phí chuyển giao, đây là
mộttrong các lợi ích thiết thực nhất của các dự án BOT.
♦♦♦ Nhược điểm
Tất nhiên phương thức BOT không phải là phương thức chữa bách bệnh, bên cạnh các
điểm ưu việt, phương thức này cũng còn nhiều hạn chế. Các dự án BOT là vô cùng phức
tạp về cả phương diện pháp lý cũng như tài chính. Các dự án này cần thời gian dài để đàm
phán và phát triển. Sự tham gia của Chính phủ,môi trường và tính ổn định của nền kinh
tế, pháp lý và nhiều yếu tố khác đều có ảnh hưởng lớn đến dự án BOT.
Sự phức tạp của dự án này còn thể hiện ở chỗ có nhiều bên tham gia: Chính phủ,các
nhà đầu tư, ngân hàng, các nhà cung cấp, các nhà thầu, các nhà cho vay và sự phụ thuộc
giữa các bên càng làm tăng tính phức tạp của dự án. Quy trình phức tạp, nhiều bên tham

Đầu tư quốc tế 2011

21


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

gia với thời gian dài đã làm cho dự án BOT chứa đựng rất nhiều rủi ro. Các dự án BOT
thường tập trung vào khai thác tối đa những vùng, địa phương và lĩnh vực đầu tư có lợi
thế tốt, tỷ suất lợi nhuận cao nên dễ gây ra tình trạng mất cân đoi về đầu tư và cơ cẩu
kinh tế giữa các vùng, giữa các lĩnh vực kinh tế. Do đặc điểm của dự án là vốn đầu tư lớn,

thời gian dài, lại nhiều rủi ro do vậy Nhà nước cần có nhiều ưu đãi để có thể thu hút được
các nhà đầu tư đầu tư vào các dự án này.Điều này tạo ra một môi trường kinh doanh bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp khác vàdoanh nghiệp BOT, những ưu đãi về thuế khiến
cho Chính phủ nước chủ nhà sẽ mất đimột nguồn thu thuế lớn. Chính phủ nước chủ nhà
có thể gặp khó khăn trong việc vận hành công trình saukhi nhận chuyển giao từ các nhà
đầu tư đầu tư do hạn chế về trình độ quản lý và vận hành của đội ngũ cán bộ trong nước.
Do vậy, sau thời điểm chuyển giao, công trình có thể vẫn phụ thuộc vào các nhà đầu tư.
Một bất cập khác là công trình dự án không còn sinh lợivào thời điểm chuyển giao, thậm
chí có thể để lại gánh nặng nợ nần cho nước chủ nhà.
> Nhận xét
Thực tế triển khai phương thức này ở nước ta trong thời gian qua đã cho thấy đây
không phải là một phương thức dễ dàng áp dụng. Nhiều rủi ro đã xảy ra đối với các dự án
dẫn đến các dự án bị chậm chễ, thậm chí một số dự án đã phải bỏ dở.. Tuy nhiên, khách
quan đánh giá thì các công cụ này chưa phát huy được hiệu quả và cũng chưa đủ để hạn
chế và tối thiểu hóa các rủi ro mà các dự án gặp phải. Điều này dẫn đến nhu cầu cần
thiết phải có những giải pháp tích cực nhằm hạn chế và nâng cao hiệu quả của các dự án.
Nhận xét của Thạc sĩ Phạm Sanh, cho rằng : ”BOT là một hình thức huy động von
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khi nguồn von ngân sách không thế đáp ứng. Tuy nhiên,
không phải dự án đầu tư BOT nào cũng đem lại hiệu quả. Kinh nghiệm cũng cho thấy,
hình thức đầu tư BOT chỉ hiệu quả đối với những dự án đầu tư về điện, nước vì ngay từ
đầu nhà đầu tư có thể tính toán được phương án tài chính thu hồi von tương đoi chính
xác, nhờ những hợp đồng bao tiêu sản phấm đầu ra từ lúc dự án mới hình thành. ”

Đầu tư quốc tế 2011

22


Ngành công nghiệp


Quy mô sản xuất
(nghìn chiếc)

Xe máy (a)
Ti vi (b)
Ôtô (c)

Tỷ lệ nội địa hoá
Nhóm 3 -(%)
Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

1.290 (Thái Lan: 1.740)
Tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp chế tác Việt Nam
Hiện tại, các dự án BOT mới chỉ xuất hiện trong ba lĩnh vực: điện, nước và giao
thông vận tải,nên
có thể
nói6.500)
đây là một hình thức20-40
chưa sâu. Tuy nhiều dự án BOT đă triển
1.600 (Thái
Lan:
khai trong thời gian qua đã thất bại nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc là các dự án
BOT là không có tác dụng ở Việt Nam.
35trạng
(Thái phát
Lan: triển
1.000)công nghiệp phụ trọ*
5-10
3. Thực
tại Việt Nam

Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra toàn diện nào về ngành CNPT
được tiến hành, song để đánh giá thực trạng của ngành, chúng ta có thể dựa trên một số
kết quả khảo sát, điều tra mẫu và nghiên cứu do các co quan khác nhau tiến hành (Tổng
cục Thống kê, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ưong, Tổ chức Xúc tiến Thương
mại Nhật Bản - JETRO và nhất là Diễn đàn Phát triển Việt Nam - VDP 1).
Theo Báo cáo tháng 6/2006 của VDF, các nhà sản xuất Nhật Bản cho rằng CNPT Việt
Ghi chủ: (a) số liệu năm 2003, (b) số liệu năm 2002 và (c) số liệu năm 2005.
Nam còn chậm phát triển. Tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất Nhật Bản tại Việt Nam
mới chỉ đạt 22,6% vào năm 2003, trong khi ở Malaixia và Thái Lan tỷ lệ này là 45% hoặc
Nguồn: Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF).
cao hơn. Còn theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
năng(CDEM),
động và khi
nhạy
bénhiện
trong
tiếpsátcận
hàng,nghiệp
chưa tự
chưa
có có
kháitớiniệm
thực
cuộcviệc
khảo
hơnkhách
80 doanh
FDItintạivàViệt
Nam,
32

“xây
quancho
hệ”rằng
trong
doanh.
Ngoài ra,
phụ trợ
vẫn trợ
chủ
doanhdựng
nghiệp
việckinh
cung
ứng nguyên
vậtcác
liệudoanh
và cácnghiệp
hoạt động
kinhhiện
tế phụ
yếu
cácNam
doanhrấtnghiệp
nhà nước,
xuấtFDI
ra những
sản phối
phẩmhợp
có chất
lượng

giá
của làViệt
kém. Các
doanh sản
nghiệp
rất muốn
với các
nhàkém
cungvàcấp
thành
lạc hậu,
trình nâng
độ quản
đượcnhưng
trong rất
nội
trong cao
nước(dođểcông
giảmnghệ
chi phí
sản xuất,
cao lýsứckém...)
cạnh nên
tranhchỉ
củatiêu
sảnthụ
phẩm,
bộ
nhà cung
nước.cấp

Trên
thực
tế Đôi
luôn khi,
tồn họ
tại phải
một tìm
khoảng
cáchcung
quá cấp
lớn tiềm
giữa
khócác
có doanh
thể tìmnghiệp
được nhà
thích
hợp.
các nhà
yêu
về chất
lượnggiám
sản điện
phẩm,thoại
giá hoặc
bán cũng
nhưcác
thờimối
hạnquan
giaohệhàng

của các
năngcầu
thông
qua niên
dựa vào
cá nhân
của doanh
nhân
nghiệp
nước ngoài
so hàng
với khả
năng
ứng tìm
của được
các doanh
nghiệp
viên, nhưng
tiếp cận
trăm
đơnđáp
vị mới
một nhà
cungViệt
cấp Nam.
đạt yêu cầu.
Thực trạng phát triển CNPT có thể được đánh giá thông qua khả năng cung cấp linh phụ
kiện và tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp chế tác của Việt Nam như sau:
- Ngành ô tô
Theo lộ trình, các nhà sản xuất ôtô trong nước cần phải tăng dần tỷ lệ nội địa hóa

nhằm từng bước phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam. Điều này sẽ góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động và thu hút công nghệ hiện đại vào Việt Nam. Tuy nhiên, cho
Đầu tư quốc tế 2011

23
24


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

đến nay, phần lớn các nhà sản xuất trong nước chưa chú trọng đến việc này mà thường
chỉ nhập linh kiện rồi tiến hành lắp ráp, khiến chi phí sản xuất tăng cao. Sự yếu kém của
CNPT trong ngành sản xuất ô tô đang là trở lực lớn để có thể phát triển ngành công
nghiệp non trẻ này. Hiện Việt Nam có tới 50 doanh nghiệp lắp ráp ôtô, nhưng chỉ có trên
60 doanh nghiệp cung cấp linh kiện, quá thấp so với con số 385 doanh nghiệp ở Malaixia
và 2.500 doanh nghiệp ở Thái Lan.
Theo tính toán, một doanh nghiệp ôtô phải cần tối thiểu 20 nhà cung cấp các loại linh
kiện khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa doanh nghiệp lắp ráp ôtô nào tại Việt Nam có
được 20 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Ngay cả những liên doanh ôtô tên tuôi như
Toyota, Ford... có hệ thống các nhà cung cấp linh kiện lớn cũng chưa lôi kéo được nhiều
doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Trên thực tế, thời gian qua, các doanh nghiệp lắp ráp
ôtô chỉ có 2-3 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Do vậy, nhiều doanh nghiệp phải phụ
thuộc vào nguồn linh kiện nhập khẩu. Ngay như Toyota, năm 2005 nhập khẩu linh kiện
trị giá 460 triệu USD trong khi giá trị linh kiện sản xuất trong nước chỉ đạt 2,3 triệu USD.
- Ngành xe mảy
Việt Nam hiện có trên 230 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp cho
các doanh nghiệp lắp ráp xe máy, trong đó có hơn 80 doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Tỷ lệ
nội địa hóa đối với một số loại xe máy sản xuất tại Việt Nam đạt mức khá cao (từ 4070%) do trong những năm gần đây nhu cầu xe máy tăng đột biến tạo nên thị trường rộng
lớn cho CNPT. Tuy nhiên, các linh phụ kiện sản xuất trong nước chủ yếu do các liên
doanh sản xuất xe máy tự sản xuất hoặc mua từ các công ty có vốn ĐTNN khác, số

doanh nghiệp thuần túy trong nước có đủ năng lực cung cấp linh phụ kiện cho lắp ráp xe
máy rất ít. Đơn cử, trong hàng trăm doanh nghiệp nội địa, hãng Honda đến năm 2003 chỉ
chọn ra được 13 doanh nghiệp có khả năng cung cấp đủ chất lượng (so với con số 5 đơn
vị năm 1997).
- Ngành dệt may

Đầu tư quốc tế 2011

25


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

CNPT cho ngành dệt may còn nhiều bất cập và yếu kém. Năng lực các nhà máy cơ
khí chuyên ngành dệt may hiện tại quá nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triên của
các doanh nghiệp trong ngành. Ngay cả Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex), mặc
dù có tiềm lực lớn trong sản xuất và xuất khẩu, nhưng việc phát triển các doanh nghiệp
phụ trợ trong tổng công ty còn gặp nhiều khó khăn và đây cũng là khó khăn chung của
ngành dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp dệt may vẫn phải nhập 70-80% nguyên phụ
liệu từ nước ngoài. Mặc dù thời gian qua có một số nhà máy như Công ty cổ phần phụ
liệu may Nha Trang, Công ty may Việt Tiến, Công ty dệt vải công nghiệp và các công ty
tư nhân đã sản xuất được nhiều loại phụ liệu như khóa kéo, tấm lót, cúc, chỉ,... nhưng sản
lượng còn rất thấp, chỉ đáp ứng được khoảng 20-25% nhu cầu của ngành.
Ngành điện tử, điện máy
-

Sau 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các
thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác
sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. Trong khi đó,
các doanh nghiệp FDI trong ngành điện tử, điện máy đang đứng trước sức ép phải giảm

chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, do số doanh nghiệp phụ trợ rất ít, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên
phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh
hoặc trực tiếp từ Nhật Bản. Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử
Việt Nam, các doanh nghiệp FDI có "tên tuổi" đều phải nhập khẩu trên 90% linh kiện của
nước ngoài, thậm chí có doanh nghiệp nhập khẩu cả 100% như Công ty Fujitsu Việt
Nam. Điều này vừa gây thiệt thòi cho ngành công nghiệp Việt Nam, khiến chúng ta khó
thoát khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản
xuất, lắp ráp hàng điện tử trong nước. Việc thiếu vắng các nhà cung cấp linh phụ kiện
cũng khiến nhiều nhà ĐTNN trong lĩnh vực này có xu hướng ngại đầu tư vào Việt Nam
và đây là điểm yếu căn bản trong thu hút FDI vào lĩnh vực điện - điện tử.

Đầu tư quốc tế 2011

26


Nhóm 3 - Liên kết FDI với các doanh nghiệp nội địa

Bên cạnh đó, CNPT trong ngành điện tử, điện máy còn phải đối mặt với sự thay đổi
môi trường quốc tế. Trong thời gian tới, do việc thực thi AFTA và các cam kết với WTO,
linh phụ kiện nhập khẩu sẽ có thêm cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam, đặc biệt là
linh phụ kiện từ Trung Quốc, Thái Lan.
■=> Đánh giá và Nhận xét:
Thứ nhất, các ngành phụ trợ này (chủ yếu do doanh nghiệp nhà nước sản xuất) cung
cấp những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao (vì công nghệ lạc hậu, vì quản
lý kém...) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cũng vì
dùng những sản phẩm phụ trợ này mà các sản phẩm lắp ráp, các loại máy móc hoàn thành
tại các công ty nhà nước cũng không có sức cạnh tranh. Đây là một sự liên kết kém hiệu
suất và bó chân lẫn nhau trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Tại các nước ASEAN

khác và tại Trung Quốc, có sự liên kết (linkage) hiệu suất giữa các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sản xuất các sản phẩm phụ trợ với các doanh nghiệp lớn có vốn đầu tư của nước
ngoài, và công nghệ, tri thức quản lý được chuyển giao từ doanh nghiệp lớn đến doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ hai, các ngành phụ trợ quá yếu không hấp dẫn các công ty đa quốc gia đầu tư trực
tiếp sản xuất tại Việt Nam các loại hàng điện tử gia dụng, các sản phẩm của công nghệ
thông tin phần cứng như máy tính cá nhân, điện thoại di động, các loại xe hơi, xe máy,
V.V., nói chung là các loại máy móc, các ngành cơ khí. Các mặt hàng này thường có cả
hàng trăm hoặc hàng ngàn bộ phận, linh kiện ở nhiều tầng lớp, từ những loại thông
thường đơn giản đến những loại có công nghệ rất cao. Đối với các công ty nước ngoài
đầu tư vào các ngành sản xuất các loại máy móc, tỷ lệ nội địa hoá càng cao càng có lợi.
Điểm này khác với nhận thức của nhiều người Việt Nam, kể cả các nhà hoạch định chính
sách. Việt Nam có khuynh hướng cho rằng các công ty đa quốc gia không muốn tăng tỷ
lệ nội địa hoá để đưa các sản phẩm trung gian và bộ phận, linh kiện từ nước mình tới .
Điều tra của JETRO và nhiều cơ quan khác, cũng như các cuộc tiếp xúc giữa tôi với các

Đầu tư quốc tế 2011

27


×