Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

TÍN DỤNG TRUNG dài hạn đối với DOANH NGHIỆP NHÀ nước tại NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH THỤC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.63 KB, 75 trang )

K-HOA MỠÂM -HÀAia TAJ C-HấM-H- Đ-HKTQD
LUM VM TOT NGHIỆP
Urưởnạ

(/Tiụuụễn

Qũuủn

LỜIKINH
MỞ ĐẦU
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

Muốn duy trì hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp cần một lượng vốn vừa
phải từ phía ngân hàng trong một thời gian ngắn. Nhưng để mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh, đầu tư dự án mới thì doanh nghiệp cần một lượng vốn lớn và thời
gian đủ dài theo tiến trình của dự án và thời hạn khấu hao. Đây là một vấn đề vô
cùng quan trọng đối với Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và
đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Điều đó có nghĩa những co
sở hạ tầng mới sẽ được xây dựng, các doanh nghiệp sẽ tích cực mở rộng sản xuất,
mua sắm trang thiết bị máy móc, kéo theo đó là nhu cầu cấp thiết về một lượng vốn
lớn, dài hạn. Trong khi đó, vốn tự có của các doanh nghiệp còn hạn chế, thị trường
vốn chưa phát triển... Lúc này, các doanh nghiệp chỉ còn trông chờ chủ yếu vào các
tổ chức tín dụng (đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại) và Ngân hàng Công
thương Ba đình là một trong số đó.
Kể từ đầu thập kỷ 90 trở lại đây, khi hệ thống ngân hàng thương mại chỉ
ĐỀ TẦh
chuyên vào lĩnh vực kinh doanh thì Ngân hàng công thương Ba đình đã và đang có
những đường lối, chính sách mới trong việc mở rộng tín dụng trung dài hạn đối với
DNNN. Ban lãnh đạo ngân hàng nhận thấy rằng dù đã đạt được một số kết quả khả


quan nhưng tỷ lệ tín dụng trung dài dạn nói chung và đối với DNNN nói riêng còn
thấp, hiệu quả chưa như ý. Để hiểu rõ hơn tình hình thực tế bức xúc này và qua đó
có những giải pháp, kiến nghị cấp trên nhằm hoàn thiện, nâng cao tỷ lệ tín dụng
trung dài hạn đối với
DNNN,
em chọn
tài LÊ
“ Tín
dụng CHÂU
trung dài hạn đôi với
Giáo
viên hướng
dần:đề
THS.
PHONG
Doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng công thương Ba đình. Thực trạng và giải
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
pháp”.
Lớp
: NGÂN HÀNG 40B
Trong luận văn, ngoài phần lý luận liên quan trực tiếp đến đề tài, em đi sâu
vào tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong vài năm trở lại
đây. Qua đó, đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho phương hướng hoạt động sắp tới
của ngân hàng mà em cho là tốt nhất.HÀ NÔI 6.2002

♦2♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP


(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ
Luận văn được chia làm 3 phần chính:

CHƯƠNG I: TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN Đối VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG n: THỰC TRẠNG HƠẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI
HẠN
Đối
VỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI NHCT BA ĐÌNH
CHƯƠNG ni: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHAM THÚC ĐAY HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TRƯNG DÀI HẠN Đối VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI
NHCT
BA
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Th.Sỹ LÊ PHONG CHÂU; Các
cán bộ tín dụng phòng tín dụng công nghiệp ngân hàng Ba đình đã quan tâm giúp
đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn này.

*3*


K-HOA MỠÂM -HÀAia TAJ C-HấM-H- Đ-HKTQD
LUM VM TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn Qũuủn Urưởnạ

CHƯƠNG I: TÍN DỤNG TRUNG- DÀI HẠN Đối VỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TÍN DUNG NGÂN HẢNG


1. Khái quát tín dung ngân hàng

1.1 Khái niêm:
Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả
vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định giữa Ngân hàng và các cá nhân, tổ chức vay
vốn. Như vậy, tín dụng Ngân hàng là phạm trù của nền kinh tế hàng hoá. Quan hệ
của nó dựa trên sự tin cậy lẫn nhau trong đi vay và cho vay hoặc đầu tư giữa Ngân
hàng với các doanh nghiệp và cá nhân khác.
Trong hình thức tín dụng Ngân hàng thì các ngân hàng đóng vai trò là đơn vị
chuyển giá trị cho các đối tượng khác bằng tiền.
1.2 Vai trò của tín dung ngân hàng:

1.2.1) Đối với Nsân hàng:
Bản chất của ngân hàng cũng tương tự như các doanh nghiệp khác trong nền
kinh tế, đó là thực hiện hoạt động kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Trong đó chỉ
có một ít khác biệt giữa chúng là các ngân hàng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ nên “sản phẩm” của họ trực tiếp là các đồng tiền có giá trị đối với nền kinh
tế và quan hệ trao đổi. Trong hoạt động kinh doanh của mình sau khi thực hiện các
biện pháp nghiệp vụ huy động vốn thì các ngân hàng thực hiện kế tiếp (hoặc song
song) các nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh. Chính các hoạt động cho vay sẽ đem lại
phần lớn lợi nhuận cho các Ngân hàng. Nó giúp các ngân hàng có thể trang trải cho
*4*


K-HOA MỠÂM -HÀAia TAJ C-HấM-H- Đ-HKTQD
LUM VM TOT NGHIỆP
Urưởnạ

(/Tiụuụễn


Qũuủn

1.2.2)
Đối với khách hàng:
Hoạt động tín dụng ngân hàng không những đem lại nguồn lợi cho ngân hàng
mà còn tạo điều kiện thuận lợi đem lại lợi ích cho các khách hàng của ngân hàng.
Thật vậy, khi một khách hàng có phương án đầu tư khả thi (có hiệu quả) nhung lại
thiếu vốn ( một lượng vốn đủ lớn) thì nơi tài trợ quan trọng mà họ thường nghĩ đến
là các NHTM. Chính các Ngân hàng sẽ cung ứng vốn cho các khách hàng của mình
nếu họ xét thấy phương án đó đem lại lợi ích cho nhiều bên tham gia (trên quan
điểm, nhận định của các nhà ngân hàng), đồng thời sự hoạt động và sản phẩm của
phương án đó không nằm trong những điều mà pháp luật cấm.
Mặt khác, tín dụng Ngân hàng cũng là nơi đáp ứng tốt các chi phí phát sinh
ngoài dự kiến của các khách hàng khi khách hàng vận hành dự án. Một điều nữa
cũng cần phải để cho khách hàng của ngân hàng rõ là khi sử dụng tín dụng ngân
hàng, các khách hàng chịu sự giám sát và “giúp đỡ” của ngân hàng nhằm hoàn
thành tốt mục tiêu đề ra khi thực hiện ký hợp đồng vay vốn.
Tóm lại, chính tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho những “ý tưởng” có khả
năng sinh lời của các khách hàng trở thành hiện thực. Hiện thực này đem lại lợi ích
cho cả hai phía: Ngân hàng và người vay vốn.

1.2.3)
Đôi với nền kinh tẻ xã hôi.
Rõ ràng khi một họp đồng tín dụng tốt được thực hiện thì cả ngân hàng lẫn
khách hàng đều được lợi và điều đó hẳn nhiên làm tăng lợi ích cho nền kinh tế nói

*5*


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV

LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Tín dụng ngân hàng sẽ giúp các ngành nghề chủ đạo của nhà nước có vốn để
hoạt động kinh doanh và mở rộng sản xuất, qua đó nhà nước sẽ thể hiện rõ hơn vai
trò định hướng phát triển kinh tế của mình trong tình hình mới, giai đoạn mới.
1.3.

Phân loai tín dung.

1.3.1)

Căn cứ vào muc đích sử dung tiên vay phán ra:

*) Tín dụng tiêu dùng: đây là loại tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng của người vay tiền. Ớ đó, khoản tín dụng này được đảm bảo bằng các thu nhập
khác của người vay( ví dụ các khoản tín dụng bán hàng trả góp được đảm bảo bằng
lương tháng của bên sử dụng sản phẩm).
*) Tín dụng kinh doanh: là loại tín dụng mà chủ thể kinh tế sử dụng tiền vay vào
hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Tín dụng kinh doanh gồm 2 mảng:
+ Thực hiện kinh doanh thương mại: hưởng lợi từ việc thực hiện phân phối
sản phẩm.
+ Thực hiện sản xuất kinh doanh: trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư của sản
phẩm.

1.3.2)
Căn cứ vào thời han vay:
*) Tín dụng có thời hạn: là những khoản tín dụng mà thời hạn sử dụng tiền
vay và hoàn trả được xác định ngay từ khi ký hợp đồng tín dụng. Tín dụng có thời

hạn bao gồm 3 loại đó là: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
*) Tín dụng không thời hạn: là những khoản tín dụng có thời gian sử dụng
tiền vay và hoàn trả không được ấn định vào thời điểm ký họp đồng tín dụng mà
thay vào đó là những điều kiện về việc thu hồi tiền cho vay của ngân hàng và hoàn

*6*


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

1.3.3)
Căn cứ vào điều kiên đảm bảo khoản vay.
*) Tín dụng có đảm bảo: là loại hình tín dụng mà ở đó ngân hàng sẽ nắm giữ
tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi tiền cho vay (có thể
là toàn bộ khoản vay hoặc chỉ là một phần của khoản vay đó) khi người đi vay vi
phạm hợp đồng tín dụng.
*) Tín dụng không đảm bảo: là loại hình tín dụng mà ngân hàng sẽ không
nắm giữ tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ mà thay vào đó là những điều
kiện ràng buộc khác (ví dụ khách hàng không được giao dịch với ngân hàng khác)
để ngân hàng có cơ hội quản lý tài chính của các khách hàng qua nhu cầu vốn của
khách hàng tại ngân hàng mình. Khách hàng và ngân hàng có thể cùng sở hữu vốn.

1.3.4)
Căn cứ vào vhươns thức thưc hiên tín dung
*) Tín dụng trực tiếp: ngân hàng trực tiếp thực hiện việc cấp tiền vay cho các
khách hàng
*) Tín dụng gián tiếp: việc cung ứng tín dụng được thực hiện thông qua các

tổ chức trung gian tài chính khác.

2. Tín dung trung- dài han.
2.1 Khái niêm:
Tín dụng trung dài hạn trước hết cũng là một phạm trù kinh tế thuộc phạm vi
của tín dụng ngân hàng, do đó nó cũng có quan hệ tương tự các hình thức tín dụng
ngân hàng khác đã trình bày ở phần trên. Ớ đây, chí có hai điểm khác biệt đó là thời
hạn cho vay và mục đích cho vay.

*7*


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

2.2 Đăc điểm cơ bán của tín dung trung dài han

2.2.1)
Đăc điểm về pháp lý.
Vốn tín dụng thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, nhưng ngân hàng không có
đầy đủ quyền sở hữu một cách trọn vẹn, thể hiện là quyền sử dụng vốn thuộc Doanh
nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp vay vốn có đủ quyền định đoạt, sử dụng số vốn trên.
Mặt khác, vốn vay trỏ thành nguồn hình thành nên tài sản của Doanh nghiệp và
Doanh nghiệp có đầy đủ các quyền năng như: sở hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài
sản này.

2.2.2)
Đăc điếm vê đối tươĩig tài sản đầu tư.

Nếu như tín dụng ngắn hạn tài trợ chủ yếu cho tài sản lưu động của Doanh
nghiệp và được hoàn trả bởi kết quả của các khoản tiền thu về dự kiến trong tương
lai gần, thì tín dụng trung dài hạn tài trợ chủ yếu về nhà xưởng, máy móc thiết bị,
công cụ lao động của doanh nghiệp. Nguồn trả nợ tín dụng trung dài hạn chí có thể
được thực hiện cơ bản bởi khấu hao và lợi nhuận.
Với đặc điểm này, có thể thấy tín dụng trung dài hạn chịu tác động mạnh
của sự biến động thị trường lãi suất. Nó thường được điều chỉnh định kỳ để phù hợp
với tình hình mới.

2.2.3)

Đăc điếm vê nguồn hình thành tín dung.

2.3.

Vai trò của tín dung trung dài

han


K-HOA MỠÂM -HÀAia TAJ C-HấM-H- Đ-HKTQD
LUM VM TOT NGHIỆP
Urưởnạ

2.3.1)

(/Tiụuụễn

Qũuủn


Tăm cườns cơ sở vát chất kỹ thuàt cho nền kinh tế, đảm bảo

tính đôc lâp tư chủ của mỗi guốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn tìm cách đa dạng hoá
sản phẩm, mở rộng sản xuất để chiếm lĩnh thị trường. Các doanh nghiệp quan tâm
đến việc đổi mới trang thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành sản phẩm nhằm làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường và thu được lợi nhuận
ngày càng cao. Đặc biệt đối với VIỆT NAM, tín dụng trung dài hạn còn là công cụ
hỗ trợ quan trọng cho sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(chiếm trên 80% ).
Nước ta bước từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ
giữ vai trò vô cùng quan trọng. So với các doanh nghiệp lớn thì các doanh nghiệp
vừa và nhỏ có ưu thế là năng động, dễ hoà nhập với sự thay đổi của cơ chế thị
trường, có khả năng chuyển hướng sản xuất nhanh hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp
vừa và nhỏ có nhiều hạn chế như: nguồn tài chính hạn hẹp, cơ sở trang thiết bị lạc
hậu, thô sơ, trình độ công nghệ thấp, hạn chế trong cạnh tranh... song nhờ có vốn
tín dụng trung dài hạn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện đổi mới trang
thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ... làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

2.3.2)

Thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tê theo hướng côns nshiêp hoá-

*9*


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP


(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Thực hiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn sẽ góp
phần làm tăng thêm khả năng cho vay của tín dụng ngắn hạn. Thật vậy, Các doanh
nghiệp muốn phát triển thì phải chủ động cải tiến quy trình công nghệ, hợp lý hoá
sản xuất, hạ giá thành sản phẩm... và để thực hiện được việc này, đòi hỏi phải có
một khối lượng vốn nhất định, nhất là vốn cho vay trung dài hạn.
Khi lượng vốn trung dài hạn được các tổ chức tín dụng cung ứng cho các
doanh nghiệp nhằm kích thích, mở rộng sản xuất thì khi sản xuất phát triển, vốn lưu
động trở lên cần thiết và thị trường vốn lưu động (thị trường vốn ngắn hạn) sẽ được
mở rộng theo tốc độ phát triển của sản xuất. Lúc đó, Ngân hàng sẽ có thêm được
các hoạt động trong lĩnh vực cho vay ngắn hạn.
2.4 Nguồn vốn tín dung trung dài han.
Đầu tư vốn tín dụng trung dài hạn là yêu cầu mang tính khách quan của nền
kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở nước ta, các ngành kinh tế
quốc dân đều có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư trung dài hạn để tạo lập cơ sở vật
chất ban đầu, đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Hiện
nay, vốn để các ngân hàng thương mại cho vay trung dài hạn hình thành từ một số
nguồn chủ yếu sau:
+ Vốn tự có của các ngân hàng thương mại.
+ Vốn huy động từ các thành phần kinh tế.
+ Vốn nước ngoài.

2.4.1)
Đối với nguồn vốn tư có của ngán hàng thương mai.
Vốn tự có là một trong những nguồn hình thành để các ngân hàng thương
mại cho vay trung dài hạn. Đây là nguồn vốn ổn định và an toàn nhất nhưng lại quá
nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của toàn bộ nền kinh tế (thường chỉ chiếm khoảng
1%). Chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại hầu như không sử dụng nguồn vốn
tự có vào các hoạt động kinh doanh như: cho vay, đầu tư chứng khoán... họ sử dụng

vốn tự có chủ yếu với mục đích làm “ đệm an toàn” cho các rủi ro trong hoạt động
* 10 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

khá nhiều khó khăn trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của các ngân hàng
thương mại.

2.4.2
Về nguồn vốn huy đông.
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, nhất là hoạt động
tín dụng thì vốn huy động là nguồn chủ yếu. Nhưng cần thấy rằng, về nguyên tắc để
cho vay trung dài hạn, các ngân hàng thương mại chủ yếu phải sử dụng nguồn vốn
trung dài hạn. Việc sử dụng vốn huy động đúng chức năng, mục đích sẽ đảm bảo an
toàn cho Ngân hàng trong thanh toán. Nhung điều đáng quan tâm là tỷ trọng vốn
huy động trung dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động được của các Ngân hàng là
rất thấp, thường chỉ khoảng 10% tổng vốn huy động. Vì vậy, để đáp ứng việc tăng
cường nguồn vốn trung dài hạn thì theo chỉ thị số 12/CT/NHNN của Thống đốc
ngân hàng nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương mại được sử dụng 20% vốn
huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Nguồn này nếu ổn định sẽ giúp ngân
hàng giảm bớt chi phí cho vay trung dài hạn do lãi suất huy động thấp hơn so với
huy động trung dài hạn.
Ngoài ra, vốn trung dài hạn có thể huy động từ dân cư dưới hình thức phát
hành trái phiếu, kỳ phiếu dài hạn. Nguồn này hiện nay rất hạn chế do lãi suất huy
động giữa ngắn và trung dài hạn không chênh lệch nhau nhiều nên người dân sợ rủi
ro. Theo Luật các tổ chức tín dụng thì các tổ chức tín dụng còn được phép vay vốn

của nhau nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, trong đó có vay dài
hạn.

2.4.3)

Vốn nước ngoài.

Vốn nước ngoài trở thành nguồn để các ngân hàng thương mại cho vay trung
dài hạn bằng hai con đường:


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

bộ tài chính sẽ đại diện chính phủ ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng nhà nước
hoặc là ngân hàng thương mại được nước tài trợ chỉ đích danh làm ngân hàng đại lý.
Thường vốn tài trợ gồm 3 khoản: một khoản tài trợ không hoàn lại, một
khoản cho vay với lãi suất thấp (dưới 2%/năm) và một khoản cho vay có thời gian
ân hạn. Ngân hàng đại lý sẽ trộn 3 khoản trên để có một lãi suất trung bình cộng với
phí của ngân hàng để cho các doanh nghiệp vay lại.
b) Vốn vay ở nước ngoài.
Ngoài vốn tài trợ phát triển, các ngân hàng thương mại còn vay vốn trung dài
hạn ở ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Theo tinh thần nghị định
90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì không những chỉ có ngân hàng mà các doanh
nghiệp Việt Nam đều có quyền trực tiếp vay vốn nước ngoài. Các ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các ngân
hàng thế giới nên nghiệp vụ này cũng tiến hành thuận lợi.
*Tóm lại ở trên là 3 loại nguồn vốn phổ biến mà các Ngân hàng thương mại

thường dùng để tạo tiền đề thực hiện tín dụng trung dài hạn. Nhưng có một thực tế
là không có tiêu chí cố định về việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn để cho vay
ngắn hạn, cũng không phải là không huy động vốn dài hạn thì không có nguồn để
cho vay dài hạn. Huy động vốn trung dài hạn giữ vai trò làm tăng tính vững chắc
của số dư vốn huy động. Trong phạm vi từng ngân hàng thương mại, nếu tỷ trọng
vốn trung dài hạn cao thì có thể chủ động hơn về các kỳ hạn cho vay (và chủ động
chi trả tiền gửi cho khách hàng) chứ không hoàn toàn giữ vai trò chủ yếu trong việc
tạo nguồn cho vay trung dài hạn, cũng không thể nói huy động ngắn hạn giữ vai trò
thứ yếu.
Hiện nay, do chất lượng phục vụ chưa cao, nên hầu hết các ngân hàng thương
mại lấy các thể lệ huy động có định kỳ dài hơn thì có lãi suất cao hơn làm công cụ
chính để tạo vốn. Việc các loại tiền này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
chính là một bất lợi trong kinh doanh, gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách
hàng vay. Như vậy, việc huy nhiều quá nhiều tiền gửi định kỳ có lãi suất cao không
phải là cách của các Ngân hàng tiên tiến.

♦ 12 ♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

2.5) Quản lý tín dung trung dài han.
2.5.1)

Quàn lý khối lương tiễn cổ thể cho vay:

Khối lượng này phải luôn đảm bảo về sự phù hợp với khả năng huy động vốn

và điều chuyển từ các nguồn khác khi có biến cố tại từng đơn vị ngân hàng. Vốn tín
dụng trung dài hạn thường không có tính “cơ động” cao nhưng lại có ưu điểm là có
mức lãi cao và cố định, nên có thể lập kế hoách hoá cho các hoạt động trong tương
lai.
2.5.2)
Quán lý ky han:
Tín dụng trung dài hạn có thời hạn dài, thường trên 1 năm. Do vậy, việc
quản lý và xắp xếp nó một cách hợp lý sẽ làm tăng khả năng mở rộng tín dụng
tại các ngân hàng vì vào mỗi thời điểm cố định trong tương lai ngân hàng lại có
một khoản thu từ lãi cho vay (có khi bao gồm cả gốc) từ những khoản tín dụng
trung dài hạn này.
2.5.3)

Quản lỵ vé lãi suất:

Tín dụng trung dài hạn thường có rủi ro cao về lãi suất theo hướng hoặc có
lợi cho ngân hàng hoặc có lợi cho khách hàng khi nó có sự biến động giảm, tăng.
Vì vậy, để tránh sự rủi ro này thì ngân hàng phải theo sát diễn biến lãi suất để có
giải pháp chỉnh sửa kịp thời trong kế hoạch. Ngân hàng cũng có thể cùng khách
hàng đặt ra một khoảng thời gian định kỳ trong thời kỳ tín dụng để hai bên đàm
phán điều chỉnh lại mức lãi suất.

* 13 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP
II.

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ


TÍN DUNG TRUNG DẢI HAN Đổi VỚI DOANH NGHIẺP NHẢ NƯỚC
(DNNN).

1. Khái niêm DNNN:
Tại điều 1, luật DNNN ghi rõ: DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách
pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,
kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Luật cũng nêu rõ: DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên
lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, từ khái niệm có thể thấy được rằng DNNN có 2 loại
chính, một loại chuyên hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lời là chủ
yếu và một loại chuyên hoạt động công ích với mục tiêu xã hội là chính yếu.
Với DNNN thuần tuý kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu sản xuất kinh
doanh thì mọi hoạt động của họ đều phải có sự hạch toán chi tiết lỗ lãi. Đồng thời
các DNNN này phải thực hiện sự cạnh tranh trên thị trường và lấy hiệu suất sinh lợi
trên vốn để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh có thể là các doanh nghiệp độc lập tự hạch toán kinh tế hoặc là
các doanh nghiệp thuộc tổng công ty nhà nước có sự độc lập tương đối khi hoạt
động của chúng có sự gắn bó và liên hệ với nhau về lợi ích, ngành nghề kinh doanh,
công nghệ, thông tin, đào tạo nghiên cứu.
Với DNNN hoạt động công ích thì cần hướng vào việc làm tốt dịch vụ công
cộng và lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh
giá hiệu quả hoạt động. Tuy vậy, để DNNN công cộng thực sự hoạt động có hiệu
quả tốt thì nhà nước phải để các doanh nghiệp này một phần áp dụng cơ chế thị
trường nhằm làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và cải thiện mức sống
cho nhân viên hoạt động công ích. Đặc biệt đối với doanh nghiệp sản xuất hàng
quốc phòng an ninh thì cần phải tìm cách sản xuất hiệu quả, phấn đấu giảm giá
thành, tránh tình trạng lãng phí, vô ích.

Trong bối cảnh nền kinh tế mở hiện nay ở Việt Nam và yêu cầu quản lý sát
sao, hiệu quả các DNNN, nhà nước ta đã và đang tiến hành sắp xếp, cải tổ lại hệ
thống DNNN. Các DNNN sẽ không chí đơn thuần do nhà nước sở hữu duy nhất mà
* 14 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ không dưới 50%
vốn.
DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của nhà nước ít nhất
gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất trong doanh nghiệp.
DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước sở hữu cổ phần đặc biệt
để nắm giữ quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả
thuận được ghi trong điều lệ của doanh nghiệp.

2. Đăc điểm và vai trò của DNNN.
2.1 Đăc điểm của DNNN.
DNNN là đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Đây là khu
vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất bởi các chính sách phát triển của mỗi quốc gia và nó
là khu vực có tính định hướng. Chính vì vậy nó có một số đặc điểm cơ bản khá
riêng biệt sau:
- Vốn hoạt động của DNNN được cấp một phần lớn hoặc toàn bộ từ ngân
sách nhà nước. Điều này đã thể hiện tính sở hữu và quyền quyết định tối cao của
nhà nước đối với các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp này phải chịu trách
nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
- Có một bộ phận DNNN hoạt động không vì mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận

mà mục tiêu của họ là hiệu quả xã hội, đó chính là các doanh nghiệp công ích.
- Chỉ DNNN mới được phép độc quyền hoạt động trong một số lĩnh vực
tầu như: điện lực, thép, dầu khí... chính việc hoạt động ở những ngành, lĩnh
quan trọng, then chốt như vậy sẽ có tác dụng định hướng và tạo điều kiện cho
thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền
nền kinh tế, hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

đầu
vực
các
của

Ngoài những đặc điểm khá riêng biệt trên thì các đặc điểm còn lại của
DNNN cũng tương tự như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Họ tự
tổ chức quản lý, tự do lựa chọn thị trường, tự quyết định việc đổi mới trang thiết bị
công nghệ và phải nộp một khoản tiền sử dụng vốn cho nhà nước.
* 15 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Mỗi một loại hình doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế quốc dân đều có vai
trò, ý nghĩa nhất định đối với chính doanh nghiệp đó và toàn thể xã hội, cộng đồng
nói chung. Riêng đối với loại hình DNNN thì vai trò của nó đặc biệt lớn và quan
trọng so với các thành phần kinh tế khác cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện
xã hội. DNNN có 3 vai trò chính như sau:


2.2.1)

Thưc hiên vai trò chủ đao trong nền kinh tế.

DNNN là thành phần kinh tế chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nền kinh tế quốc
dân, nắm giữ những ngành then chốt và độc quyền ở một số ngành. Ó Việt Nam
hiện nay đang thực hiện việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Các thành phần kinh
tế được khuyên khích phát triển, bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh doanh và
trước pháp luật. Sự bình đẳng này không có nghĩa là chúng có cùng vị trí như nhau
trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá, lĩnh vực hoạt động có thể bị thu hẹp
lại nhưng DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo, có tính định hướng phát triển cho nền
kinh tế. DNNN vẫn sẽ tồn tại và phát triển ở những ngành, lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế.
Để thực hiện chiến lược tăng tốc, rút ngắn khoảng cách so với các nước khác,
nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp phát triển DNNN. Phát triển DNNN có hai
ưu thế. Thứ nhất là khả năng huy động vốn và khả năng cạnh tranh để tham gia vào
thị trường thế giới vì các DNNN chủ yếu là các doanh nghiệp lớn. Thứ hai, tăng khả
năng tập trung quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại.

2.2.2)
Bảo đảm hiêu quả kinh tế xã hôi.
Do tiến hành thực hiện nền kinh tế thị trường chưa lâu (hơn 15 năm) nên hệ
thống doanh nghiệp ở Việt Nam còn chưa phát triển, đặc biệt là khu vực doanh

* 16 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP


(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Cấp những hàng hoá dịch vụ công cộng có ý nghĩa với sinh hoạt chung của xã hội
mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tu.
Phát triển DNNN để tạo kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, góp phần nâng cao
hiệu quả xã hội và phát triển bền vững, lâu dài nền kinh tế. DNNN hướng các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác như khu vực doanh nghiệp tư nhân đi vào khu
vực kinh tế mới. Thực hiện chuyển giao cho khu vực tư nhân công nghệ hiện đại
giúp họ phát triển. DNNN đầu tư vào những vùng sâu, vùng xa nhằm nâng cao đời
sống của dân cư, cải thiện môi trường kinh tế.

2.2.3)
Công cu điều tiết vĩ mô của nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy nền kinh
tế bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. Phương pháp gián tiếp là phương pháp
dựa vào các công cụ kinh tế vĩ mô và chính sách. Phương pháp trực tiếp là việc nhà
nước với tư cách là một thành phần kinh tế trực tiếp đầu tư thực hiện quá trình kinh
doanh. Việc nhà nước tiến hành hoạt động kinh doanh là để khắc phục tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo, khắc phục những tác động hướng ngoại, giải quyết
công bằng xã hội. Sự phát triển của DNNN đem lại đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ, trực
tiếp cho bước chuyển nền kinh tế từ chậm phát triển lên phát triển hiện đại.
Nền kinh tế thị trường có nhiều khuyết tật như: cạnh tranh khốc liệt, phân
hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường... vì vậy, nhà nước cần sử dụng DNNN như
một công cụ để làm giảm những những khuyết tật của nền kinh tế.

3. Vai trò của tín dung trung dài han đối vởi DNNN.

3.1 Tao điểu kiên cho các DNNN mở rông sản xuất kinh doanh.
Việc đổi mới trang thiết bị sản xuất nhằm đáp úng nhu cầu của thị trường và

cơ hội mở rộng kinh doanh là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. DNNN có
* 17 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Đây là một con số không nhỏ nếu đem so với tổng thu của ngân sách nhà nước.,
mặt khác, với chỉ một tỷ đồng thì các DNNN không biết đầu tư vào đâu cho hiệu
quả. Bởi số tiền đó là quá ít ỏi, nó thường phục vụ cho các khoản lưu động hơn là để
đầu tư vào máy móc thiết bị mới.
Từ những nhận định trên thì có thể thấy ngay được rằng nguồn vốn từ ngân
hàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng (đặc biệt là vốn cho vay trung dài hạn). Đặc
điểm của quá trình đầu tư vào trang thiết bị là cần một lượng vốn lớn và thời gian
tương đối dài, bắt đầu từ khâu tìm nguồn, tiến hành mua sắm trang thiết bị, đến lắp
đặt, vận hành thử rồi mới chính thức đưa vào hoạt động và khấu hao dần. Việc này
chỉ có nguồn vốn trung dài hạn mới đáp ứng được.
Chính hệ thống ngân hàng với một mạng lưới rộng khắp trong cả nước và có
thể huy động vốn từ bên ngoài sẽ có đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu rất lớn trên
của DNNN. Khi có nguồn tín dụng này, các doanh nghiệp có thể đưa dự án vào hoạt
động, nhập khẩu các thiết bị máy móc. Từ đó mở rộng sản xuất, tăng cao năng lực
sản xuất kinh doanh. Với quy mô sản xuất lớn hơn, cơ sở vật chất kỹ thuật được
trang bị đầy đủ hơn, hiện đại hơn, doanh nghiệp sẽ sản xuất ra được những sản
phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường tốt hơn. Cả khối lượng sản phẩm và chất
lượng sản phẩm đều tăng. Dẫn tới mọi mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất ra không
chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài.

3.2 Các DNNN có thể lưa chon môt cơ cấu vốn hơp lý.

Trong nền kinh tế thị trường, hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự
có để hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp mà còn làm tăng giá vốn hàng bán của doanh
nghiệp khi công nghệ sản xuất thiếu và yếu. Hiện nay, để thực hiện các quyết định
đầu tư, một doanh nghiệp có thể sử dụng hai loại nguồn vốn. Đó là vốn tự có (hoặc
vốn cổ phần nếu là doanh nghiệp cổ phần) và vốn đi vay. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết
hợp hợp lý nhất các nguồn vốn tài trợ kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP
3.2.1)

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Đối với DNNN chưa cổ phần hoá.

Nguồn vốn chủ yếu là do ngân sách nhà nước cấp và nguồn vốn tự bổ xung (
từ lợi nhuận giữ lại) của doanh nghiệp. Khi sử dụng vốn ngân sách cấp, doanh
nghiệp phải trả một tỷ lệ nhất định ( gọi là khoản thu sử dụng vốn của nhà nước) tuỳ
theo lượng vốn mà doanh nghiệp nhận được. Trên cơ sở tính toán chi phí vốn bỏ ra
từ nguồn vốn của doanh nghiệp và nguồn vốn vay, doanh nghiệp sẽ thực hiện mức
vay bao nhiêu trong tổng số tiền đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
3.2.2)

Đối với DNNN đã cổ phán hoá.

Có công thức tính sau:
P0=PE.VE +Pd(l-T).Vd
Trong đó:

P0: là giá vốn bình quân của doanh nghiệp.
PE: là giá vốn cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở hữu cổ phần được
hưởng với tư cách người góp vốn.
VE: tỷ lệ sử dụng vốn cổ phần.
Pd: giá vốn vay (lãi suất trung bình của các khoản tiền vay)
Vd: tỷ lệ sử dụng vốn vay
T: tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Từ công thức trên có thể thấy rằng, càng sử dụng nhiều vốn vay, doanh nghiệp
càng lợi dụng được nguồn vốn đang rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế ( Pd (1 T) thay cho Pd) . Mặc dù giá vốn cổ phần có thể tăng lên để bù đắp sự tăng lên của
rủi ro tài chính nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn mức giảm đi của giá vốn vay vì trong
con mắt của các cổ đông, mức rủi ro này được bù đắp bởi các lợi thế về thuế. Để thấy
rõ hơn quan hệ giữa tỷ lệ vốn vay và giá vốn bình quân có thể sử dụng công thức sau:
P0=PEU(1-Vd.T)
ớ đó PEU là giá vốn nếu doanh nghiệp đầu tư bằng toàn bộ vốn cổ phần. Bộ
phận Vd tăng lên khi tỷ trọng vốn vay tăng lên và do đó P0 giảm đi trong khi PEU
không đổi.

* 19 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

từng điều kiện cụ thể của mình mà các doanh nghiệp sẽ xây dựng cơ cấu vốn tối ưu
dựa trên tỷ lệ giữa vốn cổ phần và vốn vay.
Tóm lại, qua nhận định sơ bộ với hai thể loại DNNN, cho ta thấy rằng vốn
vay của Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp có một cơ cấu vốn hợp lý. Vốn vay
của ngân hàng gồm hai loại: vay ngắn hạn và vay trung dài hạn. Các khoản cho vay

trung dài hạn dù chiếm một tỷ trọng như thế nào trong tổng vốn vay của Ngân hàng
thì nó cũng góp phần tạo sự tối ưu hoá cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, các DNNN có thể vay vốn một cách tương đối dễ dàng và với
quy định việc cho vay đối với khách hàng không căn cứ vào giới hạn tỷ lệ vốn vay
trên tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp Việt Nam càng có
điều kiện giảm mức chi phí vốn xuống thấp hơn nữa.

3.3 Thúc đẩy các DNNN tổ chức sản xuất kỉnh doanh hiêu quả hơn.
Vốn vay của DNNN về bản chất không phải chỉ đơn thuần là việc cấp phát
mà là nguồn vốn phải hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng thời hạn quy định. Vì vậy,
không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các doanh nghiệp còn phải tìm ra nhiều biện pháp
sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận
của doanh nghiệp lớn hơn lãi suất ngân hàng.
Trong hai hình thức cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn, vốn vay
trung dài hạn có lãi suất cao hơn, nên doanh nghiệp càng phải sử dụng vốn thật hợp
lý, có hiệu quả trong đầu tư dài hạn nhằm hoàn trả đầy đủ cả vốn và lãi cho ngân
hàng. Thông thường các Ngân hàng chỉ cho doanh nghiệp vay một lượng vốn lớn
khi họ xét thấy doanh nghiệp đó có dự án kinh doanh hiệu quả và không nằm trong
điều cấm của phấp luật. Chính vì vậy, doanh nghiệp muốn có được vốn của ngân
hàng thì phải tự mình tìm lấy các dự án đầu tư có hiệu quả cao, thâm nhập vào
những thị trường mới có nhiều tiềm năng, kinh doanh có hiệu quả để tự khẳng định
mình.
Khi ngân hàng thực hiện cho vay, họ cũng thực hiện quy trình kiểm soát
trước, trong và sau khi cho vay. Giám sát chặt chẽ tiến độ sử dụng vốn và mục đích
♦ 20 ♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP


(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Hoạt động cho vay của Ngân hàng góp phần buộc các doanh nghiệp phải làm
ăn đúng đắn qua việc kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính, thúc đẩy hạch toán
kinh doanh trong doanh nghiệp. Vì việc tạo ra lợi nhuận của ngân hàng có liên quan
đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên để đảm bảo có lợi cho
mình cũng như của doanh nghiệp, ngân hàng luôn sẵn sàng cùng khách hàng tháo
gỡ khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho khách hàng những điều cần thiết
để họ hoạt động có hiệu quả hơn.

3.4 Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN.
Đảng và nhà nước ta đã nhận định: để nền kinh tế thị trường thực sự năng
động thì cần phải giảm sự cồng kềnh của hệ thống DNNN. Giảm việc chỉ có sản
xuất theo chỉ tiêu mà không quan tâm đến đầu ra của sản phẩm và hiệu quả sản xuất
của một bộ phận DNNN.
Chính việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN này sẽ có tác dụng nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng ở giai đoạn đầu chỉ các DNNN làm
ăn tương đối hiệu quả sẽ được cổ phần hoá bởi phương thức của cổ phần hoá là phát
hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp đó ra công chúng. Quá trình phát hành
này muốn thực hiện được thì cần phải có người mua. Đây là việc làm mới mẻ nhưng
mang tính cấp bách, do vậy cần sự giúp đỡ của các Ngân hàng từ khâu chuẩn bị tính
toán số lượng phát hành, đấu thầu, cho đến khi thu hồi được vốn về cho các DNNN
để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp bán trực
tiếp các cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường thứ cấp và trong trường hợp khách hàng
cần vốn, xét thấy đủ an toàn và có lợi nhuận, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay có
giá trị tương đương giá trị các cổ phiếu phát hành và coi cổ phiếu là vật đảm bảo.
Với hình thức tín dụng này, DNNN có thể yên tâm phần nào trong quá trình cổ
phần hoá. Họ được giảm thiểu phần thời gian “đợi vốn” cổ phần.
Tín dụng Ngân hàng còn góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp ở chỗ, không chỉ giúp các doanh nghiệp trong quá trình phát hành cổ phiếu,

trái phiếu mà ngân hàng còn cho các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh làm ăn có hiệu quả. Các DNNN này sẽ được cổ phần hoá nhanh chóng
♦ 21 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Bên cạnh việc cổ phần hoá, ngân hàng cũng là định chế tài chính đáng tin cậy
của nhà nước trong việc giải thể, sáp nhập một số DNNN làm ăn yếu kém. Các
ngân hàng giúp nhà nước đứng ra quản lý tài tản và thực hiện đấu giá tài sản của
những doanh nghiệp bị coi là phá sản.

4. Những yếu tố tác đỏng đến tín dung ngân hàng đỏi với DNNN.
Nói đến sự tác động của các yếu tố đến một vấn đề nào đó thì thường đề cập
đến hai mặt, đó là yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Yếu tố khách quan là yếu
tố bên ngoài, sự tác động của nó hầu như là bất khả kháng mà chủ yếu là vấn đề
nghiên cứu phải sống chung với nó, thích nghi với nó, hành động phù hợp với quy
luật của nó để cho rủi ro ở mức thấp nhất có thể. Yếu tố chủ quan thuộc về chủ thể
của vấn đề, nằm trong phưong hướng hoạt động có định trước do con người thực
hiện. Con người có thể chủ động điều chỉnh chúng.
4.1 Yếu tỏ khách quan.

4.1.1)

Môi trườỉis kinh tế.

Môi trường kinh tế thay đổi sẽ tác động tới hiệu quả tín dụng dù ít hay nhiều.

Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư
vào sản xuất kinh doanh và ngược lại, môi trường kinh tế bất ổn sẽ khiến các doanh
nghiệp hoang mang và không dám đầu tư mạnh. Mặt khác, chính sách kinh tế của
nhà nước ưu tiên hay hạn chế một ngành nào đó để đảm bảo cân đối trong nền kinh
tế cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng.
Chu kỳ kinh tế có tác động mạnh tới vòng quay tín dụng. Trong thời kỳ kinh
tế hưng thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng và khả năng sử dụng vốn có hiệu quả cao.
Trong khi đó, ở vào thời kỳ nền kinh tế bị suy thoái, hoạt động tín dụng bị thu hẹp
và khó hoạt động có hiệu quả.
Sự thay đổi của môi trường kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ỏ sự thay đổi tỷ giá, nhu cầu

♦ 22 ♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

4.1.2)
Môi trườns tư nhiên.
Đây là những biến cố ngẫu nhiên nằm ngoài ý chí, tầm kiểm soát của con
người như: thiên tai, địch họa, dịch bệnh, tai nạn bất ngờ...những biến cố này
gây ra thiệt hại, tổn thất chung cho một bộ phận nào đó hoặc toàn xã hội. Chu kỳ
sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp mang tính mùa vụ. Nếu xẩy ra các
biến cố nói trên sẽ làm cho mọi dự tính của doanh nghiệp bị đổ bể, dẫn tới việc
các doanh nghiệp không trả được nợ đúng hạn là khó tránh khỏi. Có khi Ngân
hàng còn mất cả gốc vì doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả.


4.1.3)
Mỏi trường pháp lý.
Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ nhất định, thời gian
qua chính phủ và các bộ ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản nhằm
đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng. Chính phủ ban hành nghị định 178, quy
định về bảo đảm tiền vay. NHNN ban hành thông tư 06 hướng dẫn nghị định
178, ban hành quy chế 283 ( về nghiệp vụ bảo lãnh), quy chế 284 (về nghiệp vụ
cho vay), công văn 241 quy định lãi suất theo lãi suất cơ bản... nhưng bên cạnh
đó, các chính sách trong quá trình chuyển đổi DNNN còn nhiều bất cập. Các quy
định về vai trò của hội đồng quản trị và của tổng giám đốc còn chồng chéo,
không rõ ràng về nghĩa vụ cũng như quyền hạn. Công tác kiểm tra của cơ quan
quản lý về việc lập và báo cáo tài chính của doanh nghiệp còn dẫm chân nhau.
Có quá nhiều cơ quan quản lý thực hiện kiểm tra. Các chính sách giải quyết các
khoản nợ ngân hàng chưa đầy đủ đã làm cho hoạt động thu hồi nợ của các ngân

♦ 23 ♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

a) Khả năng canh tranh của doanh nghiệp trẽn thi trường: là khả năng chiếm lĩnh,
mở rộng thị trường, đáp ứng tốt nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của người tiêu
dùng
và xã hội. Mỗi doanh nghiệp đều hoạt động kinh doanh trên một lĩnh vực riêng
biệt
và các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực hoạt động cũng có thị phần khác nhau.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng độc quyền (điện, nước) sẽ có lợi thế rất lớn

trong cạnh tranh do không có đối thủ. Những doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh
vực không phải là độc quyền nhà nước đều gặp phải sự cạnh tranh trên thị trường.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Không hẳn
những doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường và
đem lại hiệu quả cao nếu nhìn từ các góc độ khác nhau. Chẳng hạn đối với các
doanh nghiệp nhỏ, họ có lợi thế là dễ thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị
trường, một điều rất hay xẩy ra do sự biến động liên tục của nền kinh tế, chính trị,
xã hội trên thế giới. Nếu doanh nghiệp được tổ chức tốt, sản xuất những mặt hàng
mà thị trường cần, đáp ứng được chất lượng và mẫu mã thì sẽ có khả năng cạnh
tranh cao và khẳng định được vị thế cuả mình trên thị trường.
Việc thể hiện được tính cạnh tranh mạnh trên thị trường chứng tỏ một điều là
doanh nghiệp đang đi đúng hướng và hiệu quả sử dụng vốn vay là tốt. Điều đó góp
phần làm cho doanh nghiệp thực hiện tốt các nghĩa vụ với ngân hàng.
b) Du án sàn xuất kinh doanh của doanh nghiẽp.
Các doanh nghiệp khi đi vay vốn phải trình ra được dự án sản xuất kinh
doanh của mình. Trong dự án này, doanh nghiệp sẽ phải trình bày tính cấp thiết của
dự án, số vốn mà doanh nghiệp cần vay, dự báo hiệu quả hoạt động của dự án, các
nguồn vốn dùng để trả nợ... Nếu dự án được xây dựng một cách cẩn thận, dự đoán
tốt mọi rủi ro có thể xẩy ra, thì khi đưa dự án vào hoạt động sẽ đem lại nhiều lợi ích
cho doanh nghiệp như: lợi nhuận cao, đảm bảo khả năng chi trả các khoản nợ, có
thể tiếp tục mở rộng sản xuất khi thị trường thuận lợi. Các Ngân hàng cho vay cũng
cảm thấy yên tâm hơn khi thực hiện cho vay nếu họ xét thấy dự án đó có tính khả
thi thực sự.

* 24 *


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP


(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Ban lãnh đạo phải công minh và sáng suốt khi đưa ra
bất cứ một quyết định nào dù là nhỏ nhất. Lãnh đạo có vai trò đầu tầu và với trình
độ cao cộng với sự sáng tạo, nhạy bén với thị trường của mình, họ sẽ đưa doanh
nghiệp đi đúng hướng, sẽ luôn tìm ra những dự án đầu tư có hiệu quả và có tính khả
thi cao.
Khi đã có cơ hội đầu tư tốt và có vốn, thì để đạt được hiệu quả cần có sự đóng
góp của đội ngũ nhân viên. Nhân viên là những người trực tiếp thực hiện công việc,
do đó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu nhân
viên có trình độ thì giám đốc chủ yếu chỉ thực hiện chức năng giám sát, còn công
việc quản lý có thể giao cho trưởng các bộ phận và các vị này sẽ chịu trách nhiệm
trực tiếp trước giám đốc. Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ nhân viên lao động với
hiệu quả cao, nhiệt tình với công việc, ban lãnh đạo còn phải chú trọng tới cơ sở vật
chất của doanh nghiệp. Ta đang sống trong thời kỳ hiện đại, vì vậy sản phẩm sản
xuất ra cũng phải hiện đại và phải dựa trên máy móc. Chính phương tiện máy móc
cũng tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp có trang thiết bị, máy móc hiện đại thì không cần nhiều công nhân mà vẫn
sản xuất ra được những mặt hàng có chất lượng cao, năng suất làm việc lớn trong
khi chi phí cho sản xuất lại giảm vì tiền lương giảm.
d) Đao đức của doanh nghiên.
Nếu khách hàng trung thực, họ sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích. Đồng thời
họ cũng tập trung thực hiện dự án một cách tốt nhất có thể. Nếu điều này được chấp
hành tốt thì xác xuất rủi ro sẽ giảm đi đáng kể và có tác động mạnh tới hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Nhưng việc sử dụng vốn sai mục đích của doanh
nghiệp chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và điều này đã gây nhiều khó khăn cho các
ngân hàng trong việc thu hồi số vốn cho vay.
Việc sử dụng vốn vay sai mục đích là một trong các nguyên nhân quan trọng
gây ra rủi ro tín dụng. Một doanh nghiệp vay vốn cho dự án nhưng lại không thực

hiện dự án mà lại sử dụng vào việc khác như đầu tư chứng khoán thì các ngân hàng
cũng phải chịu sự rủi ro này theo các khách hàng của mình mà không được báo
trước. Khi giá chứng khoán sụt giảm, doanh nghiệp sẽ bị mất vốn và lâm vào tình

♦ 25 ♦


K-HOA MỠÂM -HÀA)Ổ TÀJ C-HấM-H- Đ-HKTQV
LUẠN VAN TOT NGHIỆP

(/Tiụuụễn (Ằjuân Urưởnạ

trạng phá sản không trả được nợ cho ngân hàng, làm tăng các khoản nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng.

4.2.2) Về phía ngán hàng.
a) Chính sách tín dung.
Tuỳ vào đặc điểm từng Ngân hàng và trong từng giai đoạn mà chính sách tín
dụng của mỗi ngân hàng mỗi khác. Chính sách tín dụng là điểm tựa có ý nghĩa
quyết định đến thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách tín dụng của
ngân hàng bao gồm: chính sách hạn mức, chính sách bảo đảm tiền vay, hình thức
tiến hành cho vay, chính sách lãi suất. Chính sách hạn mức quy định việc cho phép
một doanh nghiệp vay tối đa là bao nhiêu trong từng giai đoạn, thời kỳ. Hạn mức
này phụ thuộc vào từng khách hàng và phụ thuộc vào quy định của NHNN. Chính
sách bảo đảm sẽ quy định khi vay vốn khách hàng có cần bảo đảm hay không cần
bảo đảm. Nếu cần bảo đảm thì dùng những hình thức gì trong những hình thức sau:
cầm cố thế chấp bằng tài sản của mình, bảo lãnh của bên thứ ba.
Chính sách lãi suất sẽ quy định những loại lãi suất nào được sử dụng trong
cho vay trung dài hạn: lãi suất cố định, lãi suất thả nổi hay lãi suất hỗn hợp. Đồng
thời quy định mức lãi suất áp dụng trong từng thời kỳ và đối với từng loại khách

hàng. Với khách hàng lớn và khách hàng truyền thống, ngân hàng thường áp dụng
mức lãi suất thấp hơn vì không phải tốn một khoản chi phí để tìm hiểu khách hàng
như các khách hàng mới và khách hàng vãng lai. Việc dùng chính sách lãi suất
cũng thể hiện việc Ngân hàng tập trung vào đối tượng khách hàng nào và muốn mở
rộng hay thu hẹp cho vay trong từng thời kỳ. Ngoài ra để tạo điều kiện cho vốn tín
dụng luân chuyển nhịp nhàng thì Ngân hàng cần có sự “nhạy cảm” và có sự phối
hợp tốt giữa các bước trong quy trình tín dụng, tránh sự xơ cứng không cần thiết.
b) Chất lương nhân su.
Con người luôn là nhân tố trung tâm có tác dụng là đòn bẩy kích thích sự
thành công của sự việc. Nghiệp vụ hoạt động ngân hàng càng phát triển thì đòi hỏi
chất lượng nhân sự ngày càng cao. Để thực hiện hoạt động cho vay trung dài hạn,
♦ 26 ♦


×