Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Nghiên cứu xác lập cơ sở địa lí học cho sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trưởng tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.23 MB, 219 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
……..….***…………

Phạm Hương Giang

NGHIÊN CỨU XÁC LẬP CƠ SỞ ĐỊA LÍ HỌC
CHO SỬ DỤNG HỢP LÍ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TỈNH BẮC KẠN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÝ

Hà Nội - 2015


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
……..….***…………

Phạm Hương Giang

NGHIÊN CỨU XÁC LẬP CƠ SỞ ĐỊA LÍ HỌC
CHO SỬ DỤNG HỢP LÍ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TỈNH BẮC KẠN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÝ
Chuyên ngành : Địa lý Tự nhiên
Mã số

: 62 44 02 17


Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Nguyễn Cao Huần
2. PGS.TS. Nguyễn Cẩm Vân

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận án

PHẠM HƯƠNG GIANG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Những điểm mới của đề tài
5. Luận điểm bảo vệ
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7. Cơ sở tài liệu thực hiện đề tài
8. Cấu trúc luận án
Chương 1: Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. Các công trình khoa học về cơ sở địa lí theo tiếp cận cảnh quan
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về sử dụng hợp lí tài nguyên và
bảo vệ môi trường
1.1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến Bắc Kạn
1.2. Một số vấn đề lí luận nghiên cứu cảnh quan miền núi
1.2.1. Bản chất của cơ sở địa lí học theo tiếp cận cảnh quan
1.2.2. Cảnh quan miền núi và một số vấn đề ứng dụng có liên quan
1.3. Quan điểm, phương pháp và quy trình nghiên cứu

1
1
2
3
3
3
3
3
4
5
5
5
14
22
26
26
28

c. Khí hậu

32

32
34
38
39
40
40
40
41
41
43
45

d. Thủy văn
e. Thổ nhưỡng
f. Thảm thực vật
g. Các quá trình tự nhiên và tai biến thiên nhiên
2.1.3. Nhân tố dân cư và kinh tế - xã hội

48
50
52
54
57

1.3.1. Quan điểm nghiên cứu và cách tiếp cận
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu
1.3.3. Quy trình nghiên cứu
Tiểu kết chương 1

Chương 2: Đặc điểm cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

2.1. Đặc điểm và vai trò của các nhân tố thành tạo cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.1.1. Nhân tố vị trí địa lí
2.1.2. Nhân tố tự nhiên
a. Địa chất
b. Địa hình


2.2. Đặc điểm cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.2.1. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.2.2. Đặc điểm cấu trúc, động lực mùa và chức năng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.2.3. Trạng thái biến đổi cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.2.4. Tính đặc thù trong sự phân hóa, khai thác cảnh quan tỉnh Bắc Kạn và ý
nghĩa đối với vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường của tỉnh
2.3. Phân vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.3.1. Mục đích, nguyên tắc và phương pháp phân vùng cảnh quan
2.3.2. Hệ thống và chỉ tiêu phân vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
2.3.3. Đặc điểm các tiểu vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Tiểu kết chương 2
Chương 3: Đánh giá cảnh quan cho sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ
môi trường trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn
3.1. Mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy trình đánh giá thích nghi
sinh thái cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
3.1.1. Mục tiêu, nội dung đánh giá cảnh quan
3.1.2. Phương pháp và quy trình đánh giá cảnh quan
3.2. Đánh giá cảnh quan cho phát triển nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn
3.2.1. Đánh giá cảnh quan cho phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Kạn
3.2.2. Đánh giá cảnh quan cho phát triển lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn
3.2.3. Tổng hợp kết quả đánh giá cảnh quan cho phát triển nông lâm nghiệp
tỉnh Bắc Kạn
3.3. Đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

3.3.1. Lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững chống
xói mòn của cảnh quan
3.3.2. Kết quả đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn của cảnh quan
3.4. Định hướng không gian sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi
trường tỉnh Bắc Kạn trong phát triển nông lâm nghiệp
3.4.1. Cơ sở đề xuất định hướng
3.5.2. Đề xuất định hướng không gian sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ
môi trường tỉnh Bắc Kạn
3.5. Đề xuất một số mô hình hệ kinh tế sinh thái bền vững cho các tiểu
vùng cảnh quan núi thấp và đồi cao của tỉnh Bắc Kạn
3.5.1. Hiện trạng phát triển các mô hình hệ kinh tế sinh thái của tỉnh Bắc Kạn
3.5.2. Lựa chọn đề xuất một số mô hình hệ kinh tế sinh thái bền vững cho các
tiểu vùng cảnh quan núi thấp và đồi cao của tỉnh Bắc Kạn
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

61
61
63
76
78
83
83
86
86
91
92
92
92

93
95
95
99
103
105
105
107
111
111
124
134
134
138
148
149
151


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CQ
CQH

: Cảnh quan
: Cảnh quan học

BVMT

: Bảo vệ môi trường


DTTN

: Diện tích tự nhiên

ĐDSH

: Đa dạng sinh học

ĐKTN

: Điều kiện tự nhiên

KBTTN

: Khu bảo tồn thiên nhiên

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

KTST

: Kinh tế sinh thái

ÔNMT

: Ô nhiễm môi trường

PTBV


: Phát triển bền vững

NLKH

: Nông lâm kết hợp

NLN

: Nông lâm nghiệp

SDHL

: Sử dụng hợp lí

TBTN

: Tai biến thiên nhiên

TNTN

: Tài nguyên thiên nhiên

TVCQ

: Tiểu vùng cảnh quan

VQG

: Vườn quốc gia


XM

: Xói mòn

XMTN

: Xói mòn tiềm năng

XMTT

: Xói mòn thực tế


DANH MỤC BẢNG
STT
1
2
3
4

Tên bảng
Bảng 2.1. Nhiệt độ các tháng trong năm ở một số địa điểm của tỉnh Bắc
Kạn
Bảng 2.2. Lượng mưa các tháng trong năm ở một số địa điểm của tỉnh Bắc
Kạn

Bảng 2.3. Dân số, mật độ dân số của tỉnh Bắc Kạn năm 2014
Bảng 2.4. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

Trang

46
46
57
62

5

Bảng 2.5. Khái quát đặc điểm tự nhiên các phụ lớp cảnh quan tỉnh Bắc
Kạn

67

6
7

Bảng 2.6. Đặc điểm các nhóm loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

70
71

8

Bảng 2.8. Chỉ số khô hạn theo mùa tại tỉnh Bắc Kạn
Bảng 2.9. Lịch thời vụ gieo trồng một số loại cây trồng nông

9
10
11
12


Bảng 2.7. Phân cấp chỉ tiêu khô hạn

nghiệp tỉnh Bắc Kạn
Bảng 2.10. Đặc điểm và chức năng của các phụ lớp cảnh quan tỉnh
Bắc Kạn
Bảng 2.11. Mức độ biến đổi của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 2.12. Đặc điểm cư trú và hình thức canh tác phân bố theo đai

72
73
75
76
83

cao địa lí của các dân tộc tỉnh Bắc Kạn
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Bảng 2.13. Hệ thống các đơn vị và chỉ tiêu phân vùng cảnh quan tỉnh
Bắc Kạn
Bảng 2.14. Đặc điểm các tiểu vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

Bảng 3.1. Bảng cơ sở đánh giá thành phần

Bảng 3.2. Ví dụ về phương pháp xác định trọng số bằng ma trận
tam giác
Bảng 3.3. Phân cấp các chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho phát triển
cây hàng năm của tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.4. Kết quả về mức độ thích hợp của các loại cảnh quan đối
với phát triển cây hàng năm của tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.5. Phân cấp các chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho phát triển
cây lâu năm của tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.6. Kết quả về mức độ thích nghi của các loại cảnh quan đối
với phát triển cây lâu năm của tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.7. Phân cấp chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho phát triển rừng
phòng hộ tỉnh Bắc Kạn

86
87
93
94
96
96
98
98
100


Bảng 3.8. Kết quả về mức độ ưu tiên của các loại cảnh quan đối với
phát triển rừng phòng hộ tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.9. Phân cấp chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho phát triển rừng sản
xuất tỉnh Bắc Kạn

100


102

25

Bảng 3.10. Kết quả về mức độ thích hợp của các loại cảnh quan
đối với phát triển rừng sản xuất tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.11. Tổng hợp kết quả đánh giá cảnh quan cho phát triển

26

nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn phân theo loại cảnh quan
Bảng 3.12. Tổng hợp kết quả đánh giá cảnh quan cho phát triển

104

27

nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn phân theo tiểu vùng cảnh quan
Bảng 3.13. Phân cấp các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững chống

106

22
23
24

101

103


xói mòn tiềm năng của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
28

Bảng 3.14. Phân cấp các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững chống xói
mòn thực tế của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn

107

29

Bảng 3.15. Tổng hợp kết quả đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn
tiềm năng của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.16. Tổng hợp kết quả đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn
thực tế của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.17. Trích lục so sánh kết quả đánh giá mức độ bền vững chống xói
mòn tiềm năng và thực tế của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.18. Tổng hợp kết quả đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn
của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn phân theo tiểu vùng cảnh quan
Bảng 3.19. So sánh kết quả đánh giá cảnh quan với hiện trạng sử dụng
đất nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn năm 2014
Bảng 3.20. So sánh kết quả đánh giá cảnh quan với quy hoạch sử dụng
đất nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020
Bảng 3.21. Trích lục đề xuất định hướng sử dụng hợp lí hợp lí tài nguyên
và bảo vệ môi trường trong phát triển nông lâm nghiệp theo các loại cảnh
quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.22. Tổng hợp định hướng sử dụng các loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.23. So sánh định hướng sử dụng cảnh quan của đề tài với quy
hoạch sử dụng đất cho phát triển nông lâm nghiệp của tỉnh Bắc Kạn
năm 2020

Bảng 3.24. Tổng hợp đề xuất định hướng không gian phát triển nông
lâm nghiệp theo tiểu vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.25. Thống kê các không gian ưu tiên sử dụng hợp lí hợp lí tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong phát triển nông lâm
nghiệp tỉnh Bắc Kạn theo các tiểu vùng cảnh quan

107

30
31
32
33
34
35

36
37

38
39

108
109
110
120
123
128

129
130


132
133


40
41
42

43
44

Bảng 3.26. Điều tra hiện trạng các mô hình kinh tế sinh thái nông hộ
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
Bảng 3.27. Thống kê mức độ xuất hiện nhiều nhất các mô hình kinh tế
sinh thái theo các tiểu vùng cảnh quan
Bảng 3.28. Thu nhập của mô hình KTST trang trại chuyên canh cây ăn
quả kết hợp với trồng rừng ở tiểu vùng núi thấp xen đồi cao tỉnh Bắc
Kạn trong một năm
Bảng 3.29. Thu nhập của mô hình KTST nông hộ RVC ở tiểu vùng núi
thấp xen đồi cao tỉnh Bắc Kạn trong một năm
Bảng 3.30. Thu nhập của mô hình KTST nông hộ VAC ở tiểu vùng núi
thấp xen đồi cao tỉnh Bắc Kạn trong một năm

137
137
141

144
146



DANH MỤC HÌNH
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

Tên bảng
Hình 1.1. Quy trình nghiên cứu đề tài
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.2. Bản đồ địa chất tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.3. Bản đồ các kiểu địa hình tỉnh Bắc Kạn

Hình 2.4. Bản đồ sinh khí hậu tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.5. Bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.6. Bản đồ thảm thực vật tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.7. Bản đồ cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.8. Lát cắt cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.9. Sơ đồ hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.10. Nhịp điệu mùa cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 2.11. Bản đồ phân vùng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.1. Quy trình đánh giá cảnh quan
Hình 3.2. Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển cây hàng
năm của tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.3. Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển cây lâu năm
của tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.4. Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng
phòng hộ của tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.5. Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng sản
xuất của tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.6. Bản đồ đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn tiểm năng
của cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.7. Bản đồ đánh giá mức độ bền vững chống xói mòn thực tế của
cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hình 3.8. Bản đồ định hướng không gian sử dụng hợp lí tài nguyên

Trang
38
40
41
44
47
50

53
63
63
64
71
86
93
97
97
102
102
108
108
127

thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh
Bắc Kạn
21

Hình 3.9. Bản đồ định vị các mô hình hệ kinh tế sinh thái tỉnh Bắc Kạn

140


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững (PTBV) là một trong những nhiệm vụ quan trọng mang tính
cấp thiết đối với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Ở Việt Nam, PTBV miền núi gặp
nhiều trở ngại do điều kiện kinh tế - xã hội (KT - XH) còn nhiều khó khăn và trình độ
của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như người dân còn nhiều hạn chế, mặc dù đây là khu

vực có quỹ sinh thái lãnh thổ hết sức đa dạng và có nhiều tiềm năng để phát triển các
ngành kinh tế. Đồng thời, vấn đề sử dụng tài nguyên thiên nhiên (TNTN) cho sản xuất
ở nhiều nơi của miền núi do chưa hợp lí và đúng với quy luật tự nhiên đã làm các
nguồn tài nguyên đang dần bị suy thoái và cạn kiệt, môi trường và các hệ sinh thái
ngày càng bị mất cân bằng và ô nhiễm nặng, trong khi đó hiệu quả kinh tế đạt được
vẫn rất thấp và đời sống người dân vẫn nghèo nàn.
Đứng trước những thách thức nêu trên của miền núi, cần có các nghiên cứu mà
cách tiếp cận của nó phải mang tính tổng hợp, thể hiện rõ các đặc tính không gian và
thời gian của lãnh thổ, để có thể giải quyết đồng thời các nhiệm vụ cấp bách mà thực
tiễn đặt ra đó là mối quan hệ hài hòa giữa phát triển và môi trường, giữa nâng cao hiệu
quả sản xuất với vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT) các
lãnh thổ. Trong các hướng nghiên cứu của khoa học địa lí hiện nay, đáp ứng tốt nhất
cho mục tiêu PTBV miền núi chỉ có thể là tiếp cận cảnh quan (CQ). Bởi thông qua
nghiên cứu CQ sẽ xác định đúng được các đặc điểm cơ bản về cả tự nhiên, KT - XH,
cùng với các quy luật phân hóa đặc thù của thiên nhiên bất cứ lãnh thổ nào. Mặt khác,
mỗi đơn vị CQ được phân chia ra theo kiểu loại và theo vùng CQ đều chứa đựng các
đặc trưng riêng về quỹ sinh thái và tài nguyên không gian. Làm rõ được các nội dung
khoa học này chính là một trong những căn cứ quan trọng để tiến hành định hướng các
không gian khai thác, sử dụng tài nguyên phù hợp nhất với yều cầu phát triển của các
ngành sản xuất, các địa phương mà không làm tổn hại đến môi trường. Nói theo một
cách khác, đây chính là nghiên cứu xác lập cơ sở địa lí học theo hướng tiếp cận CQ
cho sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT các vùng lãnh thổ. [29,48]
Tỉnh Bắc Kạn là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa của vùng Đông Bắc song có
một vị trí quan trọng về mặt kinh tế và an ninh quốc phòng. Quốc lộ 3 chạy dọc theo
chiều dài lãnh thổ của tỉnh giúp Bắc Kạn có thể dễ dàng giao lưu với các tỉnh trong và
ngoài vùng (gồm Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, xa hơn là Hà Nội
và Vân Nam của Trung Quốc). Không chỉ có vị trí địa lý và địa chính trị quan trọng,
Bắc Kạn còn là tỉnh có nhiều điều kiện tự nhiên (ĐKTN) và TNTN thuận lợi để phát
triển một nền kinh tế toàn diện như là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, tài
nguyên nước và tài nguyên rừng. Tuy nhiên, cho đến nay Bắc Kạn vẫn là một tỉnh

nghèo của cả nước thể hiện ở tổng GDP thấp (6.881 tỉ đồng), tốc độ tăng trưởng kinh
tế chậm (5 - 6%), cơ cấu ngành kinh tế nặng về nông lâm nghiệp (NLN) (35,6% GDP)
song giá trị sản xuất thấp; đời sống nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số
nghèo nàn và lạc hậu (có 14,2% hộ nghèo, thu nhập GDP/người ở nông thôn 14,4 triệu

1


đồng/năm, thấp hơn mức bình quân của cả nước). Bên cạnh đó, trước những sức ép
của sự gia tăng dân số và quá trình khai thác TNTN cho mục tiêu phát triển KT - XH
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh đang làm cho các loại tài
nguyên bị suy kiệt (tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng), môi trường bị ô nhiễm
(ô nhiễm đất, nước và không khí), tai biến thiên nhiên (TBTN) xuất hiện nhiều hơn và
gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn (xói mòn, trượt lở đất đá, lũ ống - lũ quét).
Đứng trước thực trạng không tốt đó, Bắc Kạn cần phải có những định hướng và giải
pháp tổ chức không gian lãnh thổ thực sự phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của tỉnh, nhằm thúc đẩy nền KT - XH phát triển tương xứng với tiềm năng, đồng thời
sử dụng hợp lí các nguồn TNTN, BVMT và hướng tới sự PTBV. [15,94]
Trong những năm gần đây, mặc dù tỉnh Bắc Kạn đã thu hút được khá nhiều các
đề tài, dự án nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, góp phần quan trọng cho việc
định hướng phát triển KT - XH và BVMT cho tỉnh. Tuy nhiên trên thực tế các công
trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số huyện thị hoặc chỉ phục vụ cho các mục
tiêu, yêu cầu phát triển của từng ngành, từng địa phương nên thiếu tính đồng bộ và
thống nhất. Muốn có một căn cứ khoa học vững chắc cho việc bố trí hiệu quả các
không gian phát triển kinh tế gắn liền với việc sử dụng hợp lí TNTN và BVMT cho
toàn tỉnh, không có cách giải quyết nào tốt hơn việc nghiên cứu đánh giá tổng hợp các
điều kiện địa lí (bao gồm tự nhiên, KT - XH và môi trường), trong đó lấy CQ là đối
tượng nghiên cứu chính, làm cơ sở bố trí hợp lí không gian các ngành sản xuất, nhất là
nông lâm nghiệp - ngành kinh tế chủ đạo hiện nay của tỉnh Bắc Kạn, có mối quan hệ
trực tiếp và chặt chẽ với điều kiện sinh thái của CQ.

Xuất phát từ những lí do nêu trên, cùng với mong muốn được góp phần xây dựng
địa phương phát triển bền vững, nghiên cứu sinh (NCS) đã lựa chọn đề tài: “Nghiên
cứu xác lập cơ sở địa lý học cho sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường tỉnh Bắc Kạn” để thực hiện.
2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu:
Xác lập cơ sở địa lí dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá cảnh quan cho định
hướng không gian sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong
phát triển nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục tiêu trên, luận án thực hiện các nội dung chính sau đây:
- Xác lập cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu, đánh giá cảnh quan cho định
hướng không gian sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong
phát triển nông lâm nghiệp miền núi tỉnh Bắc Kạn;
- Phân tích đặc điểm cấu trúc, động lực mùa và chức năng của cảnh quan tỉnh
Bắc Kạn;
- Đánh giá cảnh quan cho phát triển nông lâm nghiệp và giảm thiểu nguy cơ xói
mòn đất tỉnh Bắc Kạn;

2


- Đề xuất không gian phát triển nông lâm nghiệp và bảo vệ môi trường tỉnh
Bắc Kạn;
- Đề xuất một số mô hình hệ kinh tế sinh thái (KTST) cho các tiểu vùng cảnh
quan (TVCQ) núi thấp và đồi cao của tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá
cảnh quan.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Phạm vi không gian:
Được giới hạn trong lãnh thổ tỉnh Bắc Kạn, nằm ở tọa độ 21o48’B đến 22o44’B

và 105o26’Đ đến 106o15’Đ, bao gồm thị xã Bắc Kạn và 7 huyện trực thuộc: Chợ Mới,
Na Rì, Chợ Đồn, Bạch Thông, Ba Bể, Ngân Sơn, Pác Nặm.
* Phạm vi khoa học:
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá CQ (đánh giá thích nghi sinh thái, đánh giá
mức độ bền vững chống xói mòn) và đề xuất các không gian phát triển nông lâm
nghiệp trên địa bàn tỉnh, đề xuất một số mô hình hệ KTST bền vững.
4. Những điểm mới của đề tài
- Đã làm rõ được đặc điểm và tính đặc thù trong cấu trúc và sự phân hóa CQ
miền núi tỉnh Bắc Kạn ở tỉ lệ 1/100.000 thông qua hệ thống phân loại và phân vùng
CQ của lãnh thổ.
- Đã hoạch định các không gian sử dụng hợp lí TNTN và BVMT trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn. Đồng thời đề xuất được một số mô hình hệ KTST bền
vững cho các TVCQ núi thấp và đồi cao.
5. Các luận điểm bảo vệ
* Luận điểm 1: Cảnh quan tỉnh Bắc Kạn đa dạng, phức tạp với tính đặc thù
trong cấu trúc và sự phân hóa CQ theo hướng vòng cung của yếu tố kiến tạo địa mạo
và quy luật đai cao với dấu ấn sâu sắc của tác động nhân sinh. Loại và vùng CQ là
những đơn vị cơ sở đảm bảo tính khoa học cho đánh giá và định hướng không gian sử
dụng trong phát triển NLN của tỉnh ở tỉ lệ 1/100.000.
* Luận điểm 2: Tích hợp các kết quả nghiên cứu đặc điểm, đánh giá CQ, cùng
với phân tích hiện trạng, quy hoạch sử dụng đất và kinh nghiệm canh tác đất dốc của
các dân tộc trong tỉnh tạo nên căn cứ khoa học đáng tin cậy cho việc đề xuất không
gian sử dụng hợp lý TNTN và BVMT trong phát triển NLN của tỉnh Bắc Kạn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học: kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm sáng tỏ tính đặc thù
và sự phân hoá CQ lãnh thổ Bắc Kạn; góp phần hoàn thiện hơn về phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu CQ miền núi cho sử dụng hợp lý TNTN và BVMT theo
hướng tiếp cận địa lí tự nhiên tổng hợp.
* Ý nghĩa thực tiễn: những kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài sẽ là tài liệu
tham khảo có giá trị khoa học giúp các nhà quản lí và quy hoạch địa phương trong

hoạch định không gian phát triển sản xuất nông lâm nghiệp cho phù hợp, nâng cao
hiệu quả kinh tế, sử dụng hợp lí các nguồn TNTN và BVMT.

3


7. Cơ sở tài liệu của đề tài
Các tài liệu được sử dụng cho luận án bao gồm:
- Tài liệu bản đồ: Bản đồ địa hình tỉnh Bắc Kạn tỉ lệ 1/100.000, các bản đồ hợp
phần tự nhiên bao gồm: địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng, sinh khí hậu, thảm thực vật,
bản đồ hiện trạng và quy hoạch đất, bản đồ TBTN ở cùng tỉ lệ.
- Tài liệu lưu trữ: các báo cáo về hiện trạng và quy hoạch các ngành sản xuất, về
tổng thể phát triển KT - XH, Niên giám thống kê của tỉnh, kết quả nghiên cứu của các
đề tài, dự án có liên quan trực tiếp đến tỉnh từ khi tách tỉnh đến nay.
- Tài liệu từ kết quả khảo sát, điều tra thực địa: thu thập các số liệu về ĐKTN,
KT - XH của địa phương giai đoạn 2000 - 2014, làm cơ sở phân tích, đánh giá CQ,
thành lập lát cắt CQ, định hướng sử dụng lãnh thổ và xây dựng mô hình hệ KTST.
8. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Đặc điểm cảnh quan tỉnh Bắc Kạn.
Chương 3: Đánh giá cảnh quan cho sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi
trường trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh Bắc Kạn.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Với mục đích xác định cơ sở lí luận, nội dung phương pháp nghiên cứu của luận
án cho lãnh thổ miền núi, các công trình đã công bố được phân tích theo các nhóm vấn
đề chính sau:
- Các công trình nghiên cứu về cơ sở địa lí theo tiếp cận CQ.
- Các công trình về sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT theo tiếp cận CQ.
- Các công trình nghiên cứu về Bắc Kạn liên quan đến luận án.
1.1.1. Tổng quan các công trình khoa học về cơ sở địa lí học theo tiếp cận
cảnh quan
a) Nhận thức về cơ sở địa lí học theo tiếp cận cảnh quan
Địa lí học theo truyền thống (Từ điển Bách khoa địa lí, 1988) bao gồm 3 nhóm
ngành chính: Địa lí tự nhiên, Địa lí KT - XH và Bản đồ học. Khoa học địa lí tự nhiên
nghiên cứu các ĐKTN, TNTN như nguồn lực tự nhiên. Địa lí KT - XH nghiên cứu các
điều kiện KT - XH và nhân văn như nguồn lực con người cho tổ chức không gian phát
triển kinh tế. Bản đồ học là khoa học thể hiện một cách trực quan sự phân hóa các đối
tượng địa lí trong không gian, mối quan hệ và sự biến đổi của chúng bằng hệ thống các
kí hiệu thích hợp.
Cơ sở địa lý học có nội hàm rất rộng, được hiểu là những kết quả nghiên cứu về
địa lí tự nhiên, KT - XH, chính trị và nhân văn làm căn cứ khoa học cho việc giải
quyết các mục tiêu đã hoạch định. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu của chuyên
ngành địa lý nào đó, có thể cụ thể hóa nội hàm của “cơ sở địa lý học”. Đối với mục
tiêu và nội dung của luận án này, chỉ dừng lại ở nghiên cứu cơ sở địa lí học theo tiếp
cận CQ - một nội dung nghiên cứu hẹp của cơ sở địa lí học.
Cảnh quan học là một lĩnh vực khoa học mang tính tổng hợp cao nhất trong
nhóm khoa học Địa lí tự nhiên. Đối tượng nghiên cứu CQ là các tổng hợp thể địa lí
hay đúng hơn là các địa hệ (theo A.G. Ixatsenko, 1991), với phân vùng địa lí tự nhiên
tổng hợp có vai trò quan trọng trong định hướng không gian sử dụng tài nguyên, cải
tạo thiên nhiên, BVMT, phục vụ phát triển kinh tế của lãnh thổ (Ixatsenko, 1991).
b) Các công trình khoa học về quan niệm cảnh quan
Quan niệm đúng về CQ là cơ sở để xây dựng phương pháp luận cho nghiên cứu
địa lí tự nhiên tổng hợp trong sử dụng hợp lí tài nguyên và BVMT, vì vậy việc xem xét

và lựa chọn quan niệm về CQ là hết sức cần thiết. Hiện tại trên thế giới có 2 nhóm các
nhà khoa học xem xét CQ theo hai cách nhìn dưới góc độ chuyên môn của mình: các
nhà kiến trúc, du lịch... sử dụng kiến thức của địa lí xem “cảnh quan” như “phong
cảnh”, còn các nhà địa lí xem “cảnh quan” như một địa hệ thống. Các địa hệ thống này
bao gồm bộ phận có thể nhìn thấy và cảm nhận được (đơn vị nhìn thấy - visual unit) và
bộ phận không nhìn thấy (đơn vị tư duy - mental unit hoặc landscape of mind).

5


- Các công trình khoa học về quan niệm CQ như “phong cảnh”: Cảnh quan là
phần không gian xung quanh có thể quan sát và cảm nhận được (Grano, 1928). Đó là
sự kết hợp giữa đường nét sơn văn của địa hình với lớp phủ trên đó. Quan niệm này
được thể hiện rõ trong công trình “Phong cảnh tự nhiên toàn cầu” của G. Bertrand
(1968) khi ông coi phong cảnh là một bộ phận sinh thái có thể nhận thấy của CQ. Vì
thế, thuật ngữ “phong cảnh” (paysage) được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “cảnh
quan”, đồng thời quan niệm này hiện đang được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực
quy hoạch kiến trúc đô thị và du lịch. Ở Việt Nam, quan niệm này cũng được sử dụng
trong tác phẩm về “Kiến trúc cảnh quan” của Hàn Tất Ngạn (2012). Ông quan niệm
CQ là những thiên nhiên và nhân tạo hiện ra trước mắt, mang đến cho con người
những cảm xúc và tâm trạng khác nhau.
- Các công trình khoa học về quan niệm CQ như một địa hệ thống (Ixatsenko A.
G., 1991) hay tổng hợp thể - holistic unit (Marc Antrop, 1981): Đây là quan điểm mang
tính khoa học phát triển mạnh ở Nga và một số nước châu Âu như Tiệp, Ba Lan, Bỉ,
Đức. Dưới góc độ địa lí học của trường phái Xô Viết, “cảnh quan” được hiểu theo 3
quan niệm khác nhau:
i) Quan niệm xem CQ là khái niệm chung: Cảnh quan biểu thị tổng hợp thể lãnh
thổ tự nhiên của một cấp bất kỳ. Tổng hợp thể tự nhiên (hay địa tổng thể tự nhiên)
được coi là một hệ thống không gian và thời gian của các hợp phần địa lí có quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân bố và phát triển như một thể thống nhất (A.G.

Ixatsenko,1991). Những người đi theo quan điểm này có F.N. Minkov D.L. Armand,
P.X. Kuzonhexov, V.P. Prokaev,… [2,65,83]
ii) Quan niệm xem CQ là đơn vị mang tính kiểu loại: Cảnh quan không phải là
một lãnh thổ riêng biệt, mà là tập hợp một số tính chất chung của CQ điển hình cho
khu vực này hay khác, không phụ thuộc vào đặc điểm phân bố của chúng. Trong thực
tế chính là các lớp, phụ lớp, kiểu và loại CQ. Nhờ vào việc nghiên cứu các tính chất
chung nào đó, người ta có thể phát hiện các thể tổng hợp tự nhiên bằng cách phân loại
CQ theo các cấp phân loại. Quan điểm này được thấy trong các công trình của B.B.
Polunov, Markov, N.A. Gvozdexky,… Ở Việt Nam, hầu hết các công trình nghiên cứu
về CQ theo quan niệm CQ là đơn vị mang tính kiểu loại, có thể tìm thấy trong các
công trình của Viện Địa lí thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, ĐH
KHTN thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Phạm Hoàng Hải và nnk 1997; Trương Quang
Hải, 1991; Nguyễn Cao Huần, 1992, 2002; Nguyễn Thành Long, 1993;...).
[29,34,46,72]
iii) Quan niệm xem “cảnh quan” là những cá thể địa lí không lặp lại trong không
gian, là đơn vị cơ bản của phân vùng địa lí tự nhiên, thể hiện sự tác động tương hỗ
giữa các hợp phần tự nhiên trong lãnh thổ xác định. Theo quan niệm này, “Cảnh quan
địa lý là một bộ phận được tách ra trong quá trình phát sinh của một miền, một đới địa
lý và nói chung là của bất kỳ một đơn vị lãnh thổ nào lớn hơn, có đặc điểm là đồng
nhất cả về mặt địa đới và phi địa đới và có một cấu trúc riêng, một cấu tạo hình thái

6


riêng” (A.G. Ixatsenko, 1965, 1991) và được L.S. Berg, A.A. Grigoriev, N.A. Xonlxev
ủng hộ. Ở Việt Nam, quan niệm CQ là đơn vị cá thể được hiện thực hóa trong tác
phẩm “Cảnh quan địa lí miền Bắc Việt Nam” của tác giả Vũ Tự Lập năm 1976. Trong
các công trình khác, quan niệm cá thể về CQ được vận dụng cho các đơn vị phân vùng
lãnh thổ. [64,65,70]
iv) Quan niệm CQ là đơn vị tổng thể (holistic unit), gồm 2 bộ phận: bộ phận nhìn

thấy (visual unit) đồng nghĩa với “phong cảnh” và bộ phận không nhìn thấy gọi là đơn
vị tư duy (metal unit hay landscape of mind) (M. Antrop, 1981, 1997). [144]
c) Các công trình khoa học về động lực mùa và chức năng cảnh quan
- Động lực mùa của CQ: đa số các nhà địa lí Nga đều cho rằng động lực mùa của
CQ là một nội dung không thể thiếu trong nghiên cứu đặc điểm CQ của một lãnh thổ.
Vì thế, S.V. Kalesnik (1959) đã xếp động lực mùa của CQ vào các đặc điểm cấu trúc
của CQ và ông gọi đó là cấu trúc thời gian, để chỉ sự biến đổi trạng thái của CQ theo
thời gian trong năm mà không liên quan đến sự biến đổi về cấu trúc không gian của nó
(bao gồm cấu trúc đứng và cấu trúc ngang). Theo ông vật hậu học là một bộ môn khoa
học địa lí có nhiệm vụ nghiên cứu về động lực mùa của CQ. Còn với A.I. Peralman
(1960, 1973), động lực mùa của CQ là một trong những chỉ tiêu quan trọng để phân
loại CQ, nhất là các cấp lớn như cấp hệ, phụ hệ và kiểu. Song để có những chỉ tiêu rõ
ràng và mang tính định lượng trong khi phân loại và phân tích cấu trúc CQ. A.G.
Ixatsenko (1953, 1991) cho rằng cần phải có những số liệu đo đạc cụ thể và liên tục
trong nhiều năm về sự thay đổi nhiệt - ẩm của CQ theo mùa. Vì vậy, ông đã tiến hành
đo đạc và tính toán về sự thay đổi nhiệt - ẩm tại 33 địa điểm thuộc các đới khác nhau
của đồng bằng Nga khi nghiên cứu về động lực mùa của CQ khu vực này. Và cho đến
nay, các quan điểm nêu trên vẫn luôn có ý nghĩa và được vận dụng khi nghiên cứu đặc
điểm CQ của các vùng lãnh thổ ở các nước trên thế giới. [65]
- Chức năng CQ: Forman và Godron (1986) đã định nghĩa chức năng CQ như là
“mối tương tác giữa các yếu tố không gian, dòng chảy vật chất và năng lượng cùng
sinh vật trong tự nhiên”. Khoa học ở Trung Âu lại cho rằng chức năng CQ chính là xác
định quá trình sinh địa hóa trong CQ. De Groot (1992) coi các chức năng CQ như là
“khả năng của các quá trình vật chất và năng lượng trong tự nhiên cùng các thành phần
của chúng có thể cung cấp các hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của con người”.
Theo đó, có thể chia chức năng của một đơn vị CQ ra 3 nhóm chức năng chính là:
Chức năng tự nhiên, chức năng sản xuất và chức năng xã hội (De Groot, 1992, 2006;
Bastian và Roder, 2002). Quan điểm này được nhiều nhà nghiên cứu CQ tiếp nhận,
trong đó nhấn mạnh chức năng theo nghĩa “tiềm năng.” [132,134,136]
Như vậy, dưới góc nhìn hệ thống, CQ được xem xét đồng thời ở cả 3 khía cạnh:

chung, kiểu loại và cá thể. Mặc dù, còn tồn tại nhiều quan niệm CQ khác nhau nhưng
đều thống nhất coi “cảnh quan” là một thực thể tự nhiên, là các “tổng hợp thể tự
nhiên” ở các cấp khác nhau. Cảnh quan bất kì nào cũng gồm hai bộ phận: bộ phận nhìn
thấy (đơn vị phong cảnh) và bộ phận không nhìn thấy (đơn vị tư duy). Cảnh quan được

7


nghiên cứu không chỉ theo đặc điểm hình thái mà theo cả cấu trúc (cấu trúc không
gian, cấu trúc thời gian), chức năng (chức năng tự nhiên, chức năng KT - XH) và động
lực CQ. Nhận thức đúng và đầy đủ về CQ sẽ cơ sở lí luận để lựa chọn và sử dụng các
phương pháp nghiên cứu hợp lí cho một lãnh thổ cụ thể.
d) Các công trình khoa học về cảnh quan như một dạng tài nguyên không
gian, là đối tượng lao động
- Cảnh quan là một dạng tài nguyên không gian, chứa đựng quỹ sinh thái riêng:
quan niệm này xuất phát từ việc coi CQ là một địa hệ thống, chiếm lĩnh một không
gian xác định với đặc trưng về các ĐKTN, TNTN và hoạt động của con người. Theo
đó, các ĐKTN và TNTN trong CQ tương tác với nhau để tạo thành nguồn lực tự nhiên
cho phát triển kinh tế được gọi là “quỹ sinh thái” của CQ (Phạm Quang Anh, 2002;
Đào Đình Bắc, 2005), còn nơi sinh ra và chứa đựng các dạng tài nguyên, đồng thời là
nơi diễn ra các hoạt động của con người được gọi là “tài nguyên không gian” của CQ
(Lê Đức An, 2013). [1,5,9,]
- Cảnh quan là đối tượng lao động: bản thân CQ chính là đối tượng lao động của
xã hội loài người, trong đó con người là chủ thể, là đối tượng chịu sự tác động của con
người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần. Trong quá trình hoạt động sống và
sản xuất, con người đã liên tục tác động và làm biến đổi (một phần hay hoàn toàn) các
CQ tự nhiên, tạo nên các CQ nhân sinh, trong đó có CQ văn hóa (Nguyễn Cao Huần,
Trần Anh Tuấn, 2002; Nguyễn Đăng Hội, 2004; Nguyễn Ngọc Khánh; Phạm Hoàng
Hải;...). [29,43,53]
Tóm lại, cho dù CQ được quan niệm theo ý nghĩa nào đi chăng nữa nhưng nhìn

chung các nhà khoa học CQ nước ta đều cho rằng CQ là một địa tổng thể, là đơn vị tự
nhiên thể hiện đặc điểm và sự phân hóa lãnh thổ, đồng thời là đối tượng lao động, là
không gian diễn ra các hoạt động sản xuất của con người. Khi nghiên cứu CQ của một
lãnh thổ, nhất thiết phải nghiên cứu cấu trúc, chức năng và động lực CQ, bởi nó là nền
tảng lí luận của CQ học ứng dụng.
e) Các công trình khoa học về các hướng tiếp cận trong nghiên cứu bản chất
của cảnh quan
Nghiên cứu bản chất của mối tác động giữa các yếu tố thành tạo CQ và giữa các
đơn vị CQ chính là xem xét đặc tính các dòng di chuyển vật chất và năng lượng trong
CQ, nghiên cứu sự biến đổi CQ do tác động của con người, nhất là trong giai đoạn
phát triển kinh tế vừa theo chiều rộng ở các nước đang phát triển và vừa theo chiều sâu
ở các nước phát triển.
Các công trình nghiên cứu di chuyển vật chất theo trọng lực, theo con đường di
chuyển hóa học các nguyên tố được nghiên cứu theo tiếp cận địa hóa trong tác phẩm tiêu
biểu về “Địa hóa cảnh quan” của Perelman (1974). Ở Việt Nam, chỉ có một công trình
duy nhất nghiên cứu theo hướng này dưới một dự án được thực hiện vào những năm 1980
của thế kỉ XX bởi Trung tâm Địa lí và Tài nguyên (nay là Viện Địa lí - Viện Hàn lâm
KH&CN Việt Nam. Từ đó đến nay, hầu như không có các công trình nào đề cấp đến.

8


Các công trình nghiên cứu về trao đổi nền nhiệt ẩm trong CQ theo tiếp cận “Địa
vật lí cảnh quan” (Armand, 1983). Cách tiếp cận này đã được áp dụng ở Việt Nam khi
nghiên cứu hệ sinh thái cà phê Đắc Lắc vào thời gian 1982 - 1984 (Phạm Quang Anh
chủ biên, 1985). [2,3]
Hướng tiếp cận sinh thái CQ được xem xét trong chính bản thân CQ chứa đựng
các yếu tố sinh thái, trong mối quan hệ với sinh vật (Mikhailov, Trupakin, Luxenko,...).
Sinh thái CQ có nhiệm vụ quan trọng nghiên cứu mối quan hệ giữa các quần xã sinh vật
trong phạm vi của CQ ở các quy mô khác nhau (Carl Troll, 1939). [145]

Ở các nước châu Âu như Đức, Hà Lan, Áo, Tiệp, hướng nghiên cứu sinh thái CQ
phát triển mạnh, tập trung vào các lĩnh vực định hướng quy hoạch, sử dụng lãnh thổ,
quy hoạch đất đai. Ở Nga và các nước trong Liên Xô cũ đã nhấn mạnh hướng tiếp cận
này với khẩu hiệu “Sinh thái hóa địa lí”. Rất gần với sinh thái CQ là hướng nghiên cứu
“Địa sinh thái”.
Ở Việt Nam, nghiên cứu CQ theo hướng sinh thái được quan tâm ngay từ những
năm thập niên 90 của thế kỉ trước, phản ánh trong tác phẩm “Nghiên cứu cảnh quan
sinh thái Việt Nam cho mục đích sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường”
(1993) của Trung tâm Địa lí tài nguyên và môi trường, “Các vùng địa lí sinh thái Việt
Nam” của Phạm Hoàng Hải (1992). Đặc biệt, hướng tiếp cận sinh thái CQ được áp
dụng ngày càng nhiều trong nghiên cứu địa lí phục vụ thực tiễn. Ở một số công trình
của Phạm Quang Anh (1985, 1996) đã chú ý kết hợp hệ thống phân vị “Địa thực vật”,
“Cảnh quan học” và “Sinh địa quần lạc” trong quy hoạch cây trồng cà phê (1985) và
cho phát triển du lịch (1996). Còn trong các công trình của Nguyễn An Thịnh, tác giả
đã tiến hành định lượng các mối quan hệ giữa các yếu tố sinh thái của CQ và thể hiện
chúng dưới dạng các mô hình cấu trúc, mô hình biến đổi CQ nhờ vào các ứng dụng
của công nghệ thông tin và viễn thám để giải quyết các vấn đề thực tiễn ở các vùng
lãnh thổ khác nhau như nghiên cứu CQ huyện miền núi Sa Pa (tỉnh Lào Cai) cho phát
triển nông lâm nghiệp và du lịch (2007), nghiên cứu CQ thị trấn Cái Rồng, tỉnh Quảng
Ninh (2008) và CQ ngoại thành Hà Nội (2011) cho quy hoạch mở rộng và phát triển
bền vững các đô thị, nghiên cứu CQ ven biển và đảo Hải Phòng cho bảo tồn đa dạng
sinh học (ĐDSH) và phát triển du lịch sinh thái (2008 - 2010). [3,4,112,113]
Tiếp cận nhân sinh áp dụng trong nghiên cứu CQ thể hiện rõ trong các công trình
về CQ nhân sinh (Minkov, 1973), về biến đổi CQ (Ixatsenko, 1965, 1991), về hệ số biến
đổi nhân sinh của CQ (Shishenko, 1985). Ở Việt Nam, tiếp cận nhân sinh được quan
tâm rất nhiều, nhất là nghiên cứu CQ hiện tại, trong đó có CQ nhân sinh. Vào đầu những
năm 2000, các công trình khoa hoc về CQ nhân sinh mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu về
cơ sở lí luận bởi Nguyễn Cao Huần, Trần Anh Tuấn (2002); Nguyễn Đăng Hội (2004).
Các tác giả đều thống nhất con người với hoạt động sử dụng tài nguyên là yếu tố chính
trong biến đổi và thành tạo CQ hiện đại. Không lâu sau đó, các kết quả nghiên cứu cơ

bản đã được vận dụng nhiều hơn cho các mục đích phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh
quốc phòng (Nguyễn Đăng Hội và Nguyễn Cao Huần, 2010, 2014). [48,49,50,53]

9


f) Các công trình khoa học về phân loại và phân vùng cảnh quan
* Hệ thống phân vị phân loại cảnh quan
Tùy thuộc vào lãnh thổ nghiên cứu và quan niệm của từng tác giả mà hệ thống
phân loại CQ được hình thành với số lượng và thứ tự các cấp bậc phân vị khác nhau
như: Hệ thống phân loại của A.G. Ixatsenko (1961, 1991) với 8 cấp đơn vị phân loại
(nhóm kiểu, kiểu, phụ kiểu, lớp, phụ lớp, loại, phụ loại và thể loại); hệ thống phân loại
của N.A. Gvozdexki (1961) gồm 5 cấp đơn vị phân loại (lớp, kiểu, phụ kiểu, nhóm,
loại); hệ thống phân loại của Nhicolaev (1973, 1996) gồm 11 đơn vị phân loại (thống,
hệ, phụ hệ, lớp, phụ lớp, nhóm kiểu, kiểu, phụ kiểu, hạng, phụ hạng, loại), có thể phân
loại cho các vùng lãnh thổ lớn nhỏ khác nhau. Ngoài ra, còn có rất nhiều hệ thống
phân loại khác như: hệ thống phân loại CQ của Minkov, B.B. Polunov, P.W. Mitchell
và I.A. Howard,… [27,34,46,64]
Ở các nước châu Âu hiện nay có các công trình đề cập đến phân loại CQ theo
tiếp cận tổng hợp (holistic appoach) nhưng được đơn giản hóa để có thể dùng phương
pháp Cluster bằng GIS như Blankson E. J., Green B. H. (1991), Bastian Olaf (2000),
Neerle Van Eetvelde, Marc Antrop (2004, 2007). [131,146,147]
Sự khác biệt cơ bản giữa các hệ thống CQ của các tác giả là số lượng, vị trí cấp
phân vị và dấu hiệu phân loại. Tuy các nhóm có sự khác nhau nhưng đều có quan niệm
gần giống nhau về một số cấp phân vị và các dấu hiệu nhận biết, cụ thể là: lớp, phụ
lớp, loại CQ, dưới loại CQ là các đơn vị hình thái (dạng và diện CQ).
Ở Việt Nam, trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu ở ngoài nước, nhiều hệ
thống phân loại CQ được xây dựng cho phù hợp với mục tiêu và lãnh thổ nghiên cứu.
Tiêu biểu có Vũ Tự Lập (1976) đã đưa ra hệ thống phân loại CQ địa lí miền Bắc Việt
Nam gồm 8 cấp (hệ, kiểu, phụ kiểu, lớp, phụ lớp, nhóm, loại, thứ) với các chỉ tiêu kèm

theo; hệ thống phân loại CQ lãnh thổ Việt Nam của tập thể tác giả Phòng ĐLTN thuộc
Trung tâm Địa lí Tài nguyên (1992) gồm 10 cấp: hệ, phụ hệ, lớp, phụ lớp, kiểu, phụ
kiểu, hạng, loại, dạng, diện. Các cấp phân loại này được các tác giả khác lựa chọn và
ứng dụng để nghiên cứu thành lập bản đồ CQ Việt Nam tỷ lệ 1:1000.000; một số vùng
như dải ven biển Việt Nam (1:250.000), Tây Nguyên (1:250.000), tỉnh Hà Tây
(1:100.000), vùng ven Hồ Hòa Bình (1:50.000); hệ thống phân loại của Phạm Hoàng
Hải và nnk (1997) sử dụng 7 cấp: hệ, phụ hệ, lớp, phụ lớp, kiểu, phụ kiểu, loại; hệ
thống phân loại của Hoàng Đức Triêm và cộng sự để ứng dụng xây dựng bản đồ CQ
tỉnh Quảng Trị (1:200.000) gồm 6 cấp: hệ - phụ hệ - lớp - phụ lớp - kiểu - loại. Trong
nghiên cứu vùng sinh thái đặc thù Quảng Bình - Quảng Trị trong Chương trình 08,
Nguyễn Cao Huần và cộng sự (2003) đã sử dụng hệ thống phân loại gồm 6 cấp: hệ,
phụ hệ, lớp, kiểu, hạng và loại CQ;... [29,59,70]
Một vấn đề đáng quan tâm trong hệ thống đơn vị phân loại CQ Việt Nam liên
quan đến cấp kiểu CQ có 2 nhóm ý kiến trái ngược nhau, đó là cấp lớp trên cấp kiểu
hay cấp kiểu trên cấp lớp. Theo quan niệm của tác giả nên đặt cấp kiểu trên cấp lớp
bởi những lí do sau đây:

10


- Thứ nhất: cấp kiểu CQ phần lớn đều dựa vào tiêu chí sinh khí hậu và thảm thực
vật. Tiêu chí có tính khoa học, tuy nhiên không thể thực hiện khi nghiên cứu cấu trúc
lãnh thổ cụ thể vì không có đủ nguồn tư liệu. Chính vì vậy, kết quả phân loại CQ
không còn tính logic, cấp đơn vị kiểu CQ (là cấp nhỏ hơn) lại có số lượng ít hơn phụ
lớp CQ (là cấp lớn hơn).
- Thứ hai: kiểu CQ là đơn vị cấp lớn hơn lớp CQ ít được các nhà địa lí sử dụng
(trừ Vũ Tự Lập, 1976), tuy nhiên có vẻ phù hợp hơn trong điều kiện Việt Nam và vì
vậy đã có một số công trình khoa học gần đây ủng hộ và tiến hành phân loại CQ cho
lãnh thổ cụ thể (Nguyễn Cao Huần, Trần Anh Tuấn, 2013; Nguyễn Cao Huần, Trần
Thị Tuyết, 2014). Theo quan điểm này, kiểu CQ được phân biệt theo dấu hiệu chỉ số

nhiệt ẩm và đặc trưng riêng về tính nhịp điệu mùa trên nền chung của hệ/phụ hệ CQ
nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á. Vì vậy, các lớp và phụ lớp CQ nằm trong cấp kiểu
CQ, có đặc trưng riêng về thực vật và các quá trình tự nhiên.
Mặc dù số lượng các cấp phân vị trong các hệ thống phân loại nêu trên có sự
khác nhau tùy thuộc vào lãnh thổ và mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các hệ
thống phân loại đều có chỉ tiêu hết sức rõ ràng và khá thống nhất với nhau về tiêu chí
và thứ tự trên dưới của một số cấp phân loại như lớp, phụ lớp, loại.
* Hệ thống phân vị phân vùng cảnh quan
Nguyên tắc của phân vùng CQ chủ yếu dựa trên việc xem xét các nhân tố địa đới
và phi địa đới, song do quan niệm về vai trò của hai quy luật phân hóa tự nhiên (địa
đới và phi địa đới) của các nhà địa lí có sự khác nhau nên xuất hiện nhiều hệ thống
phân vùng CQ. Hiện nay, các hệ thống phân vùng CQ được chia thành 3 nhóm chính
sau: (dẫn theo Vũ Tự Lập, 1976): [70]
- Nhóm chính thứ nhất lại loại bỏ hoàn toàn quy luật địa đới và chỉ coi nhân tố
phi địa đới (địa chất - địa mạo) mới là nhân tố chủ đạo phân hoá các địa tổng thể. Mọi
tính chất khác của địa tổng thể như khí hậu, thuỷ văn, thổ nhưỡng, sinh vật đều chỉ
xem xét trong mối tương quan trực tiếp, trong khung cảnh sẵn có với cơ sở địa chất,
địa mạo. Hệ thống đơn vị này bao gồm : Lục địa - Xứ - Miền - Vùng (Xontxev, 1958,
1960; G.D. Rikhter, 1964).
- Nhóm chính thứ hai coi nhân tố địa đới và phi địa đới có giá trị ngang nhau
trong sự hình thành hệ thống phân vị nhưng có một số khác biệt cơ bản dẫn tới sự hình
thành 3 nhóm phụ:
i) Nhóm phụ thứ nhất coi 2 quy luật địa đới và phi địa đới có sự luân phiên nhịp
nhàng với đại diện là F.N. Minkov (1956, 1959): “Vòng - Xứ - Đới - Khu - Dải Vùng”.
ii) Nhóm phụ thứ hai coi 2 quy luật địa đới và phi địa đới có sự luân phiên không
nhịp nhàng với đại diện A.A. Grigoriev: “Vòng - Ô - Đới - Miền - Khối - Vùng Cảnh”, V.B. Xotsava: “Vòng - Miền - Đới - Khu - Khối - Vùng - Nhóm dạng - Dạng”.
iii) Nhóm phụ thứ ba xem xét đồng thời các nhân tố địa đới và phi địa đới ở tất cả
các cấp phân vị nên không có sự luân phiên. Tuy nhiên trong thực tế, có lúc, có nơi,

11



tính trội vẫn nghiêng về một nhân tố nào đó nên vẫn phải có tính trội trong hệ thống
phân vị (mà thường là phi địa đới) hoặc phải chia nhánh trong phân chia (nhánh núi và
đồng bằng) nhưng không vẽ ra mô hình. Đại diện cho nhóm phụ này là N.I. Mikhailov
(1962), N.A. Gvozdexki (1953, 1957, 1960): “Xứ - Đới (miền ở miền núi) - Khu - Á
đới (Á khu ở miền núi) - Khối - Vùng (Á vùng) - Tiểu vùng”.
- Nhóm chính thứ ba cho rằng không có sự phụ thuộc trực tiếp giữa hai nhân tố
địa đới và phi địa đới, vì chúng xuất phát từ những nguồn gốc phát sinh khác nhau nên
phải tách yếu tố địa đới và phi địa đới thành hai dãy độc lập. Sự gặp gỡ của hai dãy
theo A.G. Ixatsenko là cấp cảnh, theo D.L. Armand và V.I. Prokaev là cấp khối. Vì hệ
thống hai dãy nhập thành một dãy ở các đơn vị cấp thấp phản ánh đúng mối quan hệ
tương hỗ giữa các qui luật phân hoá địa lý, giữ được tính chất toàn vẹn và sự phụ
thuộc trực tiếp của mỗi cấp trong từng dãy, lại cho phép tìm ra những đơn vị liên kết
đồng nhất. Đại diện cho các tác giả này có thể kể đến D.L. Armand (1965), V.I.
Prokaev (1967) và A.G. Ixatsenko (1965).
Tuy có sự khác nhau giữa các cấp phân vị trong phân vùng của các nhóm tác giả
nêu trên nhưng các cấp miền, á miền và vùng, á vùng khá giống nhau về quan niệm và
dấu hiệu xác định. Các cấp đơn vị trên thường áp dụng cho lãnh thổ khá lớn nên khi
nghiên cứu địa lí ứng dụng cho lãnh thổ quy mô nhỏ (ví dụ cấp tỉnh, huyện) mà cần
phải phân vùng thì đơn vị phân vùng CQ cấp nào là phù hợp? Nói một cách khác cần
có hệ thống phân vị cho phân vùng các lãnh thổ nhỏ hơn theo đúng các nguyên tắc đã
được các nhà địa lí thống nhất để có thể áp dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ở Việt Nam, hệ thống phân vị phân vùng đã được nghiên cứu và áp dụng được cho
các lãnh thổ ở quy mô khác nhau. Tiêu biểu có công trình khoa học về “Phân vùng địa lí
tự nhiên lãnh thổ Việt Nam” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn lớn, đã được thực hiện,
hoàn thành và công bố vào năm 1970 bởi Tổ phân vùng địa lí tự nhiên thuộc Ủy ban
KH&KT Nhà nước. Trong công trình, các tác giả đã sử dụng hệ thống phân vị phân vùng
gồm 7 cấp (Á lục địa -> xứ -> đới -> á đới -> miền -> á miền -> vùng) để phân vùng
nước. Hệ thống này so với các hệ thống trước đó khá ngắn gọn, hoàn chỉnh và có chỉ tiêu

tương đối rõ ràng cho từng cấp phân vị . Đến năm 1978, Vũ Tự Lập đưa ra một hệ thống
phân vùng tự nhiên ngắn gọn hơn cho lãnh thổ đất liền Việt Nam, gồm 3 cấp: đới (2) ->
miền (3) - khu (13). Đây là những công trình có ý nghĩa lớn trong công tác điều tra và sử
dụng lãnh thổ của đất nước trong giai đoạn xây dựng XHCN ở miền Bắc. [71,98]
Kế thừa có chọn lọc các kết quả phân vùng địa lí tự nhiên đã thực hiện, Trung
tâm địa lí tài nguyên - Viện KHCN Việt Nam (1992) đã xây dựng hệ thống phân vùng
CQ Việt Nam gồm: Đới (1) - á đới (2) - miền (9) - á miền (2) - vùng (42). Năm 1997,
tác giả Phạm Hoàng Hải cùng với các cộng sự đã “Nghiên cứu các nguyên tắc và hệ
thống phân vị cảnh quan Việt Nam”, để tiến đến “Phân vùng cảnh quan Việt Nam”
thành 2 á đới, 8 miền và 66 vùng CQ trên bản đồ tỉ lệ 1/100.000. Ngoài ra, còn phải kể
đến hệ thống phân vùng CQ của một số nhà địa lí khác như Nguyễn Cao Huần (1992,
2010), Trương Quang Hải (1991)... [29,34,51,59]

12


g) Các công trình khoa học về đánh giá cảnh quan cho các mục đích thực tiễn
Đánh giá các địa tổng thể nói chung và CQ nói riêng nhằm mục đích xác định
mức độ thuận lợi hoặc khó khăn của các mục tiêu thực tiễn cụ thể.
Trên thế giới: các nguyên tắc, phương pháp và quy trình đánh giá tổng hợp thể tự
nhiên phục vụ các mục đích thực tiễn được trình bày một cách khá đầy đủ và logic
trong công trình của L. I. Mukhina (1973). Tiếp đó, một loạt các nghiên cứu đánh giá
tổng hợp cho các vùng lãnh thổ khác nhau như đánh giá KT - XH của Kunhixki
(1973), đánh giá tổng hợp các ĐKTN, TNTN cộng hòa Ucraina của A.M.Marinhic
(1976)… [29,57,87]
Ở Anh, đánh giá CQ được sử dụng như là một cơ sở khoa học quan trọng để tạo
ra tính khách quan trong nghiên cứu tổng hợp các lãnh thổ. Theo Appleton (1975),
đánh giá CQ nên sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, kết hợp với sự đánh giá
của các chuyên gia. Ngoài ra, Ukwin đề xuất và mô tả quy trình đánh giá CQ gồm 3
giai đoạn: xác định CQ, giá trị CQ và đánh giá CQ. Mặc dù, các giai đoạn đánh giá CQ

được ông đưa ra và mô tả rất khái quát nhưng đã góp phần hoàn thiện các vấn đề lí
luận và phương pháp luận đánh giá CQ và có ý nghĩa thực tiễn cao khi nó được phát
triển và ứng dụng để đánh giá CQ ở các khu vực khác nhau (Robison, 1976). [140]
Tiếp nối các phương pháp đánh giá CQ trước đó, nhiều kỹ thuật đánh giá CQ
được đưa ra như: đánh giá hiệu quả kinh tế bằng phương pháp phân tích chi phí - lợi
ích (Alfred Mashall và K.B. Zvoruvkin 1968), đánh giá ảnh hưởng môi trường
(Leopold, 1972; Hudson, 1984; Petermann, 1996;…) hoặc tổ hợp giữa chúng (P.G.
Shishenko, 1988). Nghiên cứu đánh giá một cách tổng hợp và toàn diện hơn từ tự
nhiên đến KT- XH, môi trường được đề cập trong các công trình của FAO về đánh giá
đất đai từ những năm 1980 đến nay (FAO, 1993). Tuy nhiên, các công trình của FAO
mới chỉ đánh giá cho các loại hình sử dụng đất nông nghiệp. [57,87,137]
Bên cạnh các phương pháp đánh giá CQ truyền thống còn có các phương pháp
ứng dụng công nghệ như phương pháp tích hợp đất đai tự động (ALES) và hệ thống
thông tin địa lí (GIS) của David Rositer và nnk, 2000; phương pháp phân tích nhân tố
của Dillon W.R, 1984; Matt R. Raven; Hwagyun Kim, 2001... Ngoài ra, để cho kết
quả đánh giá có tính khách quan và độ chính xác cao hơn, khi lựa chọn các tiêu chí và
xác định trọng số đánh giá các nhà CQ còn kết hợp các phương pháp truyền thống như
phương pháp chuyên gia với phương pháp ma trận tam giác (Leopold), AHP (Vaidya
và Kumar), SWOT (Schlaepfer), DELFI (O.Helmer và D.Gordon)... [57]
Tuy nhiên, phần lớn các công trình về đánh giá CQ mới chỉ đi sâu nghiên cứu
đánh giá thích nghi sinh thái của CQ cho các mục đích cụ thể mà chưa đi sâu vào đánh
giá tính hiệu quả KT - XH, cũng như là mức độ bền vững môi trường của CQ. Đồng
thời, đối tượng đánh giá tập trung chủ yếu là các loại hình sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, du lịch và chưa thể hiện rõ được sự gắn kết chặt chẽ giữa vấn đề quy hoạch
không gian phát triển kinh tế với BVMT.

13


Ở Việt Nam: trong nghiên cứu địa lí ứng dụng, trước khi đưa ra các phương án sử

dụng lãnh thổ cần tiến hành đánh giá các điều kiện địa lí nói chung và đánh giá CQ nói
riêng. Về lí luận và thực tiễn của đánh giá CQ được trình bày trong các công trình của
Nguyễn Cao Huần (2005), Phạm Hoàng Hải (1997),... Theo đó, các phương pháp được
ứng dụng trong đánh giá CQ ở nước ta có: phương pháp đánh giá kinh tế sinh thái các
CQ của Nguyễn Cao Huần (2005); phương pháp đánh giá đất đai FAO của Trần An
Phong (1993). Trong việc xác định một cách khách quan đối với các chỉ tiêu đánh giá,
hệ số tầm quan trọng để áp dụng kết hợp một số phương pháp mang tính chất định tính
và bán định lượng như: phân tích mối quan hệ sinh thái giữa điều kiện sinh thái và nhu
cầu sinh thái của đối tượng mục tiêu, phương pháp ma trận tam giác của Nguyễn Cao
Huần (2005), phương pháp phân tích nhân tố của Đặng Mai (1991), Nguyễn Thơ Các
(1999), Nguyễn Viết Thịnh (2002), Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh (2004),
phương pháp đánh giá ALES - GIS của Nguyễn An Thịnh, Nguyễn Cao Huần, Phạm
Quang Tuấn (2004), phương pháp phân tích thứ bậc - AHP của Phạm Hoàng Hải,
Nguyễn Ánh Hoàng (2010),... [44,55,57]
Nhìn chung, các nghiên cứu về phương pháp đánh giá CQ ở nước ta ngày càng
mang tính chất định lượng nhiều hơn, giúp giảm thiểu tính chủ quan trong đánh giá, vì
thế kết quả đánh giá và định hướng không gian sử dụng cho các mục đích, các lãnh thổ
có tính chính xác và hiệu quả hơn.
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về sử dụng hợp lí tài nguyên và
bảo vệ môi trường dựa trên tiếp cận cảnh quan
a) Các công trình về định hướng không gian phát triển sản xuất gắn với sử
dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường
* Trên thế giới
Nghiên cứu lí luận và khoa học đánh giá CQ là cơ sở cho sự phát triển hướng
nghiên cứu CQ học ứng dụng. Các mục đích nghiên cứu CQ ứng dụng thường tập
trung vào các lĩnh vực KT - XH trong khai thác, sử dụng các đến ĐKTN và TNTN cho
phát triển nông lâm nghiệp, du lịch sinh thái, bảo tồn tự nhiên, phân bố dân cư, quy
hoạch đô thị,... Vì vậy, các lĩnh vực vừa nêu đều có liên quan trực tiếp đến vấn đề sử
dụng hợp lí tài nguyên gắn với BVMT các vùng lãnh thổ.
Tại Đức và Liên Xô cũ, nghiên cứu CQ chủ yếu được ứng dụng cho việc phát triển

hợp lí các ngành kinh tế (đặc biệt là nông lâm nghiệp) và quản lí các hệ sinh thái dựa
trên nghiên cứu việc phân tích, đánh giá CQ. Đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu
CQ ứng dụng được thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu phát triển sản xuất, quy
hoạch tổ chức lãnh thổ kinh tế và BVMT. Tiêu biểu gần đây có công trình của I.P.
Geraximov khi ông phân chia CQ Liên bang Nga thành 17 miền khác nhau với mục
đích xây dựng cơ sở khoa học địa lí cho quy hoạch KT - XH đất nước; Marinhic và
Shishenko thực hiện phân vùng CQ sinh thái lãnh thổ Ucraina để hướng tới thiết kế CQ
cho mục đích phát triển kinh tế gắn với BVMT; Bastian Olaf (2000) tiến hành phân loại
CQ bang Saxony của Đức nhằm đưa ra định hướng quy hoạch vùng này... [131]

14


Các nhà CQ học Tây Âu và Bắc Mĩ quan tâm nhiều đến việc ứng dụng nghiên
cứu CQ cho việc bảo vệ và quy hoạch các vườn quốc gia (VQG), các khu bảo tồn
thiên nhiên (KBTTN), quy hoạch du lịch, đô thị và môi trường... Trong đó, các nhà
CQ học Pháp nghiên cứu CQ ứng dụng dựa trên sự phân tích kĩ các quá trình động lực
phát sinh (địa mạo động lực và phát sinh thổ nhưỡng). Hướng nghiên cứu này đã được
G. Cabaussel và G. Bertrand sử dụng để xây dựng phương pháp phân kiểu CQ ở Pháp.
Mỗi kiểu CQ tương ứng với một kiểu thích nghi của thảm thực vật tự nhiên hay nhân
tác và được đúc kết thành một triết lí trong công trình của Tricarst và Kilian (1979):
“Cơ sở cho quy hoạch, giải quyết mối quan hệ giữa địa mạo động lực và phát sinh thổ
nhưỡng”. Ở Mĩ, nghiên cứu CQ ứng dụng lại chú trọng nhiều đến sự thay đổi cấu trúc,
chức năng, động lực của các đơn vị CQ để tìm ra biện pháp sử dụng, bảo vệ chúng đạt
hiệu quả tốt nhất. Tiêu biểu có công trình của Brown W.P và Schulte A.L (2011)
nghiên cứu về sự thay đổi CQ trong nông nghiệp ở ba thị trấn của tiểu bang Iowa - Mĩ;
Jinki Kim, Christopher D. Ellis (2009) nghiên cứu và so sánh sự thay đổi cấu trúc CQ
giữa hai khu vực Woodlands và Bắc Houston để thấy được sự ảnh hưởng của chính
sách phát triển vùng đã làm thay đổi CQ như thế nào, từ đó đề ra biện pháp quy hoạch
không làm ảnh hưởng tới sự bền vững của các hệ sinh thái... [133,137,141]

Ở các nước châu Á, đặc biệt là Đông Á, số lượng các công trình nghiên cứu CQ
ứng dụng cũng tăng nhanh do sự phát triển không ngừng của dân số và nền kinh tế đã
làm thay đổi mạnh mẽ các CQ tự nhiên, gây cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi
trường, đòi hỏi phải có những căn cứ khoa học để đề xuất các định hướng sử dụng và
bảo vệ tài nguyên hợp lí, hướng tới sự phát triển lâu bền. Tiêu biểu là Nhật, họ quan
tâm nhiều đến việc sử dụng hợp lí các lưu vực sông, hồ. Bằng cách tái hiện và so sánh
cấu trúc CQ cũ và mới ở các lưu vực sông, họ cho rằng những thay đổi của CQ có liên
quan chặt chẽ đến những thay đổi các loại hình sử dụng đất, như công trình của
Fujihara M. Và Kikuchi T. (2005) nghiên cứu cấu trúc CQ lưu vực sông Nagara,
Matsushita B. (2006) nghiên cứu cấu trúc hồ Kusumigaura. Ở Trung Quốc, hướng
nghiên cứu ứng dụng tập trung nhiều vào việc đề xuất không gian sử dụng hợp lí tài
nguyên đất ở các khu vực tự nhiên khác nhau, như công trình của Jun-Xi Wu (2006)
nghiên cứu CQ nông nghiệp đồng bằng sông Dương Tử; Zaizhi Zhou (2000) nghiên
cứu CQ nông trường Nam Hoa ở miền nam Trung Quốc; Lubo G. và nnk (2011)
nghiên cứu CQ đồi Gully ở cao nguyên hoàng thổ... [139,142,143,148]
Tóm lại, các công trình nghiên cứu CQ ứng dụng xuất hiện ngày càng nhiều,
không chỉ ở các nước phát triển mà con lan rộng sang các nước đang phát triển. Mặc
dù chúng phục vụ cho các mục đích thực tiễn khác nhau, có nội dung, cách thức tiếp
cận khác nhau song các công trình đều cho thấy nghiên cứu CQ là hướng đi quan trọng
của địa lí tự nhiên hiện đại, là cơ sở khoa học tin cậy để giải quyết vấn đề sử dụng tài
nguyên và BVMT hiện nay ở tất cả các quốc gia.
* Ở Việt Nam

15


×