Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC Ở TRƯỜNG THCS SỐ I BẮC LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.89 KB, 25 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH QUẢNG BÌNH
LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ HỆ TẠI CHỨC-ĐỒNG HỚI


TIỂU LUẬN CUỐI KHOÁ
Đề tài:
QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
CÁC MÔN HỌC Ở TRƯỜNG THCS SỐ I BẮC LÝ

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
Lý do chọn đề tài. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2
NỘI DUNG
4
I/ Những cơ sở khoa học của việc quản lí nội dung
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy các môn học ở trường trung học cơ sở.
4
1/ Lý luận Mác-Lê nin về vị trí giáo dục-Đào tạo.
4
2/ Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Giáo dục- Đào tạo.
4
3/ Vị trí , vai trò,nhiệm vụ giáo viên trung học cơ sở.


6
4/ Yêu cầu về giáo viên trung học cơ sở.
8
5/ Quản lý nội dung bồi dưởng giáo viên trung học cơ sở.
6/ Vai trò, trách nhiệm của Hiệu trưởng.
10
II/ Thực trạng công tác quản lý nội dung bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các
môn học ở trường trung học cơ sở số 1 Bắc lý.
11
1/ Đặc điểm, tình hình giáo dục phường Bắc lý.
11
2/ Thực trạng công tác quản lý nội dung bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên ở trường trung học cơ sở số 1 Bắc lý.
11
III/ Phương hướng-giải pháp-kiến nghị.
15
1/ Phương hướng.
15
2/ Một số giải pháp về quản lý nội dung bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các
môn học ở trường trung học cơ sơ số 1 Bắc lý.
15
3/ Kiến nghị.
21
KẾT LUẬN
22

8


QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC Ở TRƯỜNG THCS SỐ I BẮC LÝ

2


MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dân tộc Việt Nam ta đã trải qua bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước. Dân tộc đã chịu bao mất mát nhưng chưa bao giờ chịu mất đạo lý,
đã từng chịu bao thiếu thốn nhưng chưa bao giờ thiếu nghĩa tình. Thực có ý
nghĩa khi đạo lý và tình nghĩa ấy, dân tộc đã giành được một phần quan
trọng cho những người làm nghề dạy học. Bởi vì, xét trong ý nghĩa sinh
thành lẫn nhau của nhề nghiệp thì nghề dạy học được xem như là mẹ của tất
cả các nghề. Có nhà bác học, nhà văn, nhà chính trị nào là không đã từng là
học sinh được người thầy khai tâm, dìu dắt. Truyền thống ấy, được dân ta,
Đảng ta gìn giữ, trân trọng và phát huy mãi mãi trường tồn.
Nghề dạy học có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo,
rèn luyện thế hệ trẻ. Nghề dạy học không chỉ quan trọng là phát triển trí tuệ,
nhân cách con người, mà còn ở mức cao hơn là góp phần nâng cao đời sống
xã hội và kinh tế Quốc dân.
Tập thể sư phạm trong nhà trường là tập thể lao động, đặc biệt trong
đó có đội ngũ giáo viên là nguồn nhân lực quí báu, có vai trò quyết định chất
lượng giáo dục trong nhà truờng, góp phần to lớn tạo nên “tiềm lực trí tuệ”
của con người Việt Nam, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi bàn đến vị trí, vai trò của người
thầy giáo đã từng nói: “Thầy giáo là nhân vật trung tâm trong nhà trường, là
người quyết định tạo nên những con người mới XHCN. Vậy thầy giáo phải
không ngừng phấn đấu vươn lên rèn luyện, tu duỡng về mọi mặt để xứng

đáng là người thầy giáo XHCN”. Cố Thủ tướng cũng chỉ rõ: “Vấn đề lớn
nhất của giáo dục chúng ta hiện nay là: “Tạo điều kiện thuận lợi nhất để đội
ngũ giáo viên trở thành một đội quân đủ năng lực, đủ tư cách làm tròn sứ
mạng của mình. Chất lượng giáo dục trước mắt và tương lai tuỳ thuộc vào
đội ngũ này”.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng
quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là : “Đưa đất nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. “Con đường CNH-HĐH
của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt...”. Để đạt được những
mục tiêu trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quết định, vai trò
của giáo dục là rất quan trọng. Giáo dục phải đi trước một bước, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1992), Luật GD (1998),
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng (2001) và chiến lược phát triển kinh tế
2001-2010 đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển GD nước ta là: “Xây dựng
nền GD có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo dịnh hướng
XHCN. Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
3


Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ và thẩm mĩ, phát triển năng lực sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và CNXH, có ý thức vươn lên lập thân lập nghiệp góp phần làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Để từng bước thực hiện mục tiêu trên, giáo dục nước nhà đang thực
hiện phổ cập giáo dục từng bậc học, cấp học, thực hiện thay sách giáo khoa

mới; đổi mới phương pháp dạy học. Những công việc này do đội ngũ giáo
viên làm. Điều bất cập ở đây là đại đa số đội ngũ giáo viên nói chung, giáo
viên THCS nói riêng còn non yếu về chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ đào
tạo không đảm bảo theo quy định của bộ luật GD-ĐT. Do đội ngũ giáo viên
THCS của ta được đào tạo rất đa dạng, đào tạo qua nhiều thế hệ mà trong
quá trình công tác lại chưa được học tập, bồi dưỡng thường xuyên, kiến thức
ngày càng bị mai một. Phương pháp giáo dục xơ cứng, không đáp ứng được
yêu cầu xã hội. Thực trạng này đã được chỉ rõ ở nghị quyết IV khoá VII và
nghị quyết II khoá VIII của Đảng. Vì thế, trong công tác quản lý giáo dục tại
cơ sở, suy nghĩ về quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên về chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm để nâng cao chất lượng giảng dạy là một việc làm mang
ý nghĩa chiến lược thời đại và là tiếng gọi tha thiết của lương tâm người
quản lý giáo dục trong một trường học cụ thể.
Xuất phát từ những vấn đề trên, kết hợp với sự ham hiểu biết muốn
học hỏi của bản thân, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài này, nhằm góp phần
vào việc quản lý nội dung bồi dưỡng giáo viên của ngành đáp ứng kịp với
yêu cầu giáo dục đặt ra hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những tài liệu, văn bản quy phạm: Điều lệ trường phổ thông;
quy định về mục tiêu, kế hoạch giáo dục trường THCS.
- Nghiên cứu tìm hiểu thực tế công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học; Một số biện pháp
quản lý nội dung bồi dưỡng giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy các
môn học tại trường THCS số 1 Bắc Lý.
Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: từ năm 2001-2003.
- Địa điểm: Trường THCS số 1 Bắc Lý-Thị xã Đồng Hới.
Do điều kiện công tác của bản thân, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, tài liệu
nghiên cứu còn hạn chế. Công tác thực tế hạn hẹp nên nội dung đề tài chưa

phong phú. Mong Khoa Nhà nước- Pháp luật và các thầy giáo thông cảm,
giúp đỡ. Xin chân thành biết ơn.
NỘI DUNG
I/ NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI
DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY
1/ QUAN ĐIỂM MÁC- LÊNIN VỀ VỊ TRÍ CỦA GD-ĐT:

4


CácMác-nhà triết học vĩ đại của nhân loại đã khẳng định: Khoa học kĩ
thuật sẽ là lực lượng sản xuất trực tiếp,... tất cả những gì thúc đẩy con người
hành động và phát triển xã hội, đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ.
Mác nói: “ Sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ và chúng ta lo rằng nó sẽ
là nguyên nhân của những bi kịch khác nữa”.
Lê nin, vị lãnh tụ thiên tài của phong trào cộng sản quốc tế đã khẳng
định: “Nhiệt tình cộng với sự đốt nát bằng sự phá hoại”. Người nhấn mạnh
rằng: “Sự nghiệp điện khí hoá toàn quốc để xây dựng CNXH chỉ có thể thực
hiện được nếu giai cấp vô sản được trang bị một nền học vấn hiện đại, nếu
không có được điều đó thì CNCS chỉ là niềm mơ ước mà thôi”. Để có được
trí thức Lê nin yêu cầu giai cấp vô sản phải: “Học, học nữa, học mãi.” Học
bằng mọi cách, mọi lúc, mọi nơi.
Quan điểm đầu tư phát triển GD không chỉ có ở các bậc tiền bối cách
mạng, ở các nước XHCN mà ngay cả các nước tư bản, đế quốc... Họ cũng
rất coi trọng nền giáo dục quốc gia họ. Người Mỹ đưa ra kết luận: Đầu thế
kỷ XXI thách thức lớn nhất của Mỹ là kinh tế chứ không phải là quân sự.
Thử thách sức mạnh của Mỹ là các lớp học, không phải tại các hệ thống tên
lửa. Ngân sách nước Mỹ đầu tư cho GD lên đến 28% tổng ngân sách nhà
nước. Người Nhật lại cho rằng: Sự thần kỳ trong sự phát triển của đất nước

và sự thành đạt của cá nhân đều xuất phát từ cái nội dung là GD.
Như vậy, ở những nước có nền kinh tế phát triển, là những nước đầu
tư ngân sách cho GD-ĐT một cách hợp lý và đúng hướng. Bởi vì, con người
là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, mỗi thời đại mới đều được chuẩn tập trung
vào con người, chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi quá trình biến đổi xã
hội. Thời kì đất nước ta đổi mới cũng vậy.
2/ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GD-ĐT

Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dù bất luận
trong hoàn cảnh nào các nhà lãnh đạo đất nước cũng luôn quan tâm đến GD,
luôn coi trọng GD, coi trọng tri thức. Truyền thống tôn sư trọng đạo được
ông cha ta lưu truyền trong dân gian: “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn
con hay chữ thì yêu lấy thầy”, hoặc: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. “Tôn sư
trọng đạo” đã trở thành truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Trải qua các thời
kì lịch sử của xã hội người thầy được xã hội xếp sau vua “Quân- sư- phụ”.
Trên đường đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã khảo sát thực tế các
dân tộc ở nhiều nước. Bác hiểu sâu sắc lịch sử các dân tộc, Bác đánh giá
cao vai trò, vị trí của nền dân trí. Sau cách mạng tháng Tám, Bác đề ra
nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam là: Chống giặc đói, chống giặc
dốt, chống giặc ngoại xâm. Nhiệm vụ chống giặc dốt được Bác Hồ đặt ở vị
trí thứ hai vì “Có thực mới vực được đạo”. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”. Trong thư Bác Hồ gửi cho học sinh nhân ngày khai trường
tháng 9 năm 1945, Bác dạy học sinh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với
5


các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là: “Học để làm việc, làm người
cán bộ” nên học tập và đào tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên.
Người dạy: Học phải đi đôi với hành, học để đưa kiến thức phục vụ nhân
dân, phục vụ cuộc sống, phục vụ sự nghiệp cách mạng dân tộc, phục vụ cho
bản thân mình. Biết lí luận mà không biết thực hành cũng vô ích.
Vì vậy, giáo dục đào tạo phải theo hướng cân đối giữa dạy người-dạy
chữ-dạy nghề trong đó dạy người là mục tiêu cao nhất. Giáo dục cho học
sinh lòng yêu nước, trung thành với CNXH, có đạo đức, có ý chí kiên
cường, sẵn sàng phấn đấu vì dân giàu nước mạnh, biết làm chủ đất nước chứ
không chịu làm nô lệ.
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hành động; Bất luận trong mọi hoàn cảnh nào Đảng cũng nhận thức
được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh tế-xã
hội-văn hoá và quốc phòng an ninh, chính trị của đất nước. Quan điểm này
được thể hiện rõ trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương qua các kỳ đại hội
của Đảng.
Tại hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ VI (khoáVII) đã khẳng
định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Coi đầu tư cho giáo dục là
là một trong những hướng chính của đầu tư phất triển, tạo điều kiện cho giáo
dục đi trước và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
Để định hướng phát triển giáo dục đào tạo trong thời kì CNH-HĐH
đất nước, nghị quyết TW II (khoá VIII) nêu rõ: “Mục tiêu chủ yếu là thực
hiện giáo dục toàn diện: Đức dục, trí dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết
sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng
tạo và khả năng thực hành”.
Đây là khẳnh định hết sức đúng đắn, xuất phát từ lợi ích của nhân
dân ta, đồng thời thể hiện chân lý phổ biến của lịch sử. Điều này phù hợp
với xu thế của thời đại, lại rất cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tếxã hội ở nước ta.
Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Con đường công nghiệp hoá, hiện

đại hoá ở nước ta cần có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự,
vừa có bước nhảy vọt... Coi phát triển GD-ĐT, khoa học công nghệ là nền
tảng và động lực của sự phát triển”. “Phát triển GD-ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người ...”
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hoá,
chúng ta cần phải phát triển nhanh hơn, mạnh hơn hiệu quả GD-ĐT, khoa
học và công nghệ. Tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất
của thời đại để hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
6


theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, từng bước phát triển kinh tế tri
thức có năng lực cạnh tranh với giá trị gia tăng ngày càng cao.
3/ VỊ TRÍ VAI TRÒ NHIỆM VỤ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THCS TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Vị trí:
Đến xã hội hiện đại, nhân loại văn minh trên thế giới vẫn đều tôn vinh
nghề dạy học. Trong nhật kí của mình, Lênin viết: “ Phải đặt Giáo viên của
đất nước chúng ta lên một tầm cao mà trong xã hội tư sản từ trước tới nay và
về sau không thể có được”. Đó là mong muốn cao đẹp của một vị lãnh tụ vĩ
đại của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Đọc và làm theo suy nghĩ của Lênin, Đảng ta đánh giá cao vai trò của
người thầy. Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Có gì vẻ vang hơn là đào tạo
thế hệ trẻ sau nay tích cực góp phần xây dựng CNXH và CNCS. Người thầy
tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không
đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy
giáo tốt là những anh hùng vô danh...Vì nghề thầy giáo là nghề rất quan

trọng và rất vẻ vang”.
Bàn về nghệ thuật sư phạm, đồng chí Lê Duẩn có ý kiến rất xác đáng:
“Nghề thầy giáo kết tinh các tinh hoa của con người. Nghề dạy học là một
nghề rất khó nhưng cũng là nghề cao quý nhất. Đảng ta, nhân dân ta giao
phó việc dạy dỗ con em mình cho các thầy giáo tức cũng là phó thác cho các
thầy giáo sứ mệnh đào tạo thế hệ tương lai cho cả dân tộc. Vì vậy Đảng và
nhân dân ta rất quý mến và biết ơn các thầy giáo”.
Vai trò:
Người giáo viên nói chung, giáo viên THCS nói riêng, không chỉ là
người truyền lại các tri thức, kinh nghiệm sống, tinh hoa nhân loại cho học
sinh mà còn khơi dậy cho các em những tìm kiếm sáng tạo, tinh thần hăng
say học tập, lao động của con người để vững vàng bước vào cuộc sống.
Một thực tế đang diễn ra trên đất nước ta là đất nước đang chuyển
mình đi lên cùng các nước trong khu vực. Khoa học, công nghệ tiên tiến
được đưa vào nước ta, cách mạng thông tin và tin học đang bùng nổ, đất
nước đang chuyển mình một cách nhanh chóng. Người thầy giáo không thể
với vốn kiến thức cũ mà cứ mãi mãi truyền đạt cho học sinh được. Phải bỏ
qua tư tưởng học một lần làm việc cả đời mà phải có ý thức vươn lên học
thường xuyên.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển với tốc độ
nhanh mà sự nghiệp giáo dục đào tạo lại luôn đi chậm hơn so với sự phát
triển khoahọc-công nghệ. Do vậy đào tạo luôn lạc hậu so với thực tiễn, bất
cập với thực tiễn.
Để bù đắp vào đó thì những thầy giáo, những người làm công tác giáo
dục phải tự bồi dưỡng mình và thường xuyên rèn luyện, bồi dưỡng bản thân
mình để tiến kịp với sự phát triển của xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp
thiết của xã hội.
Trong nhà trưòng THCS, người hiệu trưởng là người trực tiếp quản lý
tập thể giáo viên và học sinh, đây là một trách nhiệm nặng nề mà nhà nước
7



trao cho. Người quản lý chỉ đạo toàn diện việc vận hành guồng máy nhà
trường, phối hợp nhịp nhàng các hoạt động. Đòi hỏi người quản lý phải sáng
tạo và có nghệ thuật điều hành nội dung quản lý.
Đội ngũ giáo viên là một bộ phận cấu thành chủ yếu quan trọng nhất
trong tập thể sư phạm. Bất kì một trường học nào thì hoạt động giảng dạy là
chất liên kết mọi giáo viên trong trường. Vai trò của đội ngũ giáo viên có
ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Các em hình thành những nét phẩm chất và nhân cách thông qua hoạt động
và giao lưu. Trong nhà trường các em hoà nhập vào các mối quan hệ thầytrò, trò-trò. Thông qua những mối quan hệ đó làm nảy nở những nét phẩm
chất, nhân cách tạo nên phong phú vốn kiến thức. Trong mối quan hệ thầytrò thì thầy giữ vai trò quan trọng, vì trong suy nghĩ của các em thì hình ảnh
của người thầy trở nên thần tượng, thành mẫu hình để các em vươn tới.
Nhiệm vụ:
Để xứng đáng với trọng trách mà xã hội giao phó, xứng đáng với
những tên gọi thân thương trìu mến: Người giáo viên là “kĩ sư tâm hồn”, là
“người trồng hoa cho đất nước”. Nhiệm vụ của người giáo viên thật nặng nề.
Xã hội phát triển cần một lớp người có văn hoá, có trình độ tay nghề cao.
Yêu cầu của xã hội lại đặt ra cho GD-ĐT một thử thách lớn. Mọi ngành học,
cấp học nói chung và giáo dục THCS nói riêng phải chuyển mình để theo
kịp sự đổi mới về chương trình, nội dung sách giáo khoa mới, bắt kịp nền
giáo dục của thế giới.
Quyết định của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về việc ban hành điều lệ
trườngTHPT số 3257/GD-ĐT ngày 8 tháng 11 năm 1994 có ghi rõ nhiệm vụ
giáo viên THCS là:
Nhiệm vụ của giáo viên bộ môn:
-Giảng dạy và giáo dục theo đúng chương trình, kế hoạch dạy học, kế hoạch
giáo dục: soạn bài, chuẩn bị thí nghiệm, ghi học bạ đầy đủ; lên lớp đúng giờ;
không tuỳ tiện bỏ giờ, bỏ buổi dạy; quản lý học sinh trong các hoạt động
giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn;

tham gia công tác phổ cập THCS ở địa phương.
-Thường xuyên học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng
cao chất lượng hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
-Thực hiện nghĩa vụ công dân các quy định của Pháp luật, điều lệ nhà
trường. Thực hiện quyết định của hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá
của hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục.
-Gìn giữ phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học
sinh, thương yêu tôn trọng học sinh, đoàn kết giúp đỡ các bạn đồng nghiệp.
-Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên khác, gia đình học sinh,
Đoàn, Đội trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh.
-Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật pháp.
Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm:
Ngoài các quy định của giáo viên bộ môn như trên, giáo viên chủ
nhiệm còn có các nhiệm vụ sau:
8


-Tìm hiểu, nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức
giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp.
-Cộng tác chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giáo dục. Phối hợp với
Đoàn, Đội và các tổ chức xã hội khác trong quá trình giáo dục học sinh.
-Nhận xét, đánh giá, xếp loại học sinh, ghi vào học bạ cuối kì và cuối năm.
Đề xuất khen thưởng, kỉ luật học sinh. Báo cáo thường kì hoặc đột xuất tình
hình lớp cho hiệu trưởng.
4/ YÊU CẦU VỀ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THCS

Trước hết, người giáo viên phải là người công dân tốt, có đầy đủ hai
phẩm chất “ Tài-Đức”. Đây chính là hai mặt để tạo nên nhân cách, sự phát
triển toàn diện của con người. Người giáo viên THCS phải có trình độ sư
phạm tối thiểu là trình độ cao đẳng sư phạm.

Giáo viên THCS phải là người có đạo đức trong sáng, nhận thức đúng
đắn về quan điểm, đường lối của Đảng. Đặc biệt là quan điểm của Đảng về
giáo dục. Vận dụng quan điểm chính thống vào giảng dạy. Kiên định đi theo
con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Không ngừng nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị để làm nền tảng
cho công tác chuyên môn của mình.
Trong môi trường văn hoá nhà trường, giáo viên không thể đến với
học sinh một cách tuỳ tiện mà phải tuân theo chuẩn mực nhà trường. Tri
thức giáo viên đưa đến cho học sinh phải là tri thức khoa học, chuẩn mực
cuộc sống giáo viên đưa đến cho học sinh phải là chuẩn mực nhà trường.
Trong nhà trường THCS, giáo viên đến với học sinh không phải bằng
phương pháp thuyết trình cổ điển, mà phải là người trọng tài, tổ chức, điều
khiển các hoạt động, học tập của học sinh. Khi dạy điều gì, môn gì, nội dung
gì, giáo viên phải giao việc, hướng dẫn rồi tổ chức cho học sinh làm. Dạy
học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. “Một thầy giáo
tồi là người truyền đạt chân lý cho học sinh. Một thầy giáo giỏi là người
giúp học sinh đi tìm chân lý ấy”.
5/ QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC Ở TRƯỜNG THCS

*/ Nội dung bồi dưỡng:
+ Bồi dưỡng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp:
- Về tư tưởng, chính trị, đạo đức:
Người giáo viên THCS phải là người trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng,
Pháp luật của nhà nước, không ngừng nâng cao nhận thức chính trị. Luôn có
ý thức yêu lao động, trọng lẽ phải, có tinh thần làm chủ tập thể. Làm việc
khoa học, sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến phương pháp công tác, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Không ngừng học tập tu dưỡng về kiến thức,
chuyên môn nghiệp vụ.

- Về phẩm chất nghề nghiệp:
Bồi dưỡng lòng yêu nghề, mến trẻ, say mê với nghề nghiệp; luôn là
tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Xử lý mọi tình huống trong giảng
9


dạy, trong giáo dục và trong mọi hoàn cảnh có tính nhân văn, tính sư phạm
cao. Đây chính là nội dung cốt lõi trong công tác bồi dưỡng tư tưởng, chính
trị cho giáo viên, nhất là trong thời kì đất nước ta đang phát triển, nền kinh
tế thị trường đang sôi động dễ ảnh hưởng đến nhận thức đội ngũ giáo viên.
+ Bồi dưỡng về trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy:
Nội dung chương trình dạy học bậc THCS rất phong phú nhằm cung
cấp cho học sinh những kiến thức và kĩ năng về con người và môi trường xã
hội xung quanh con người, những kiến thức và kĩ năng nhằm giáo dục học
sinh trở thành con người toàn diện. Những nội dung này được sắp xếp bố trí
thể hiện vào nội dung 13 môn học. Trong mỗi môn học lại có những yêu cầu
về kiến thức và phương pháp dạy khác nhau. Mỗi tiết dạy trên lớp giáo viên
đồng thời phải tập trung chú ý đến nội dung, phương pháp và quy trình tổ
chức cho học sinh học tập. Vừa tập trung chú ý theo dõi cả lớp vừa phát hiện
và giúp đỡ kịp thời từng học sinh khi các em gặp khó khăn.
Có thể nói việc dạy học của giáo viên là công việc vừa có tính khoa
học vừa có tính nghệ thuật. Lao động sư phạm không phải là loại lao động
đơn giản mà là loại lao động đòi hỏi trí tuệ, tâm hồn và kỹ năng nghề
nghiệp. Do nghề sư phạm vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật nên
bản thân người giáo viên liên tục được bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao
vốn sống, vốn hiểu biết về tri thức khoa học, đồng thời phải nghiên cứu tìm
hiểu phương pháp dạy học THCS, đặc biệt phương pháp giảng dạy từng bộ
môn theo tinh thần đổi mới: Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, hướng vào hình thành, phát huy những kỹ năng, cách học, phát huy vai

trò tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Cùng với việc bồi dưỡng những tri
thức khoa học, phương pháp giảng dạy bộ môn, còn phải bồi dưỡng năng
lực hoạt động tập thể, năng lực thuyết phục cảm hoá học sinh, khả năng hoà
nhập, tiếp cận các đối tượng, ứng xử tình huống sư phạm, bồi dưỡng kĩ năng
văn nghệ, thể dục thể thao...
+ Bồi dưỡng vật chất, tinh thần cho đội ngũ GV THCS:
Ông cha ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Muốn có chất
lượng giảng dạy tốt thì trước hết đội ngũ giáo viên phải có một cuộc sống
vật chất, tinh thần ổn định. Quản lý nhà nước đối với trường học không chỉ
chú ý đến quản lý công việc ở trường của GV mà phảỉ quan tâm thăm hỏi,
chăm sóc đến đời sống, sinh hoạt ở gia đình đồng nghiệp. Nếu chỉ quan tâm
đến chất lượng giảng dạy, công tác của GV là chưa đủ, chưa phải là quản lý
nhà trường tốt. Ngày nay kinh tế xã hội đã phát trtiển, cuộc sống của GV
cũng tạm đỡ vất vả. Nhưng đại đa số GV vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
cuộc sống còn khó khăn. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
giảng dạy và hoạt động của GV. Quản lý nhà trường quan tâm đúng mức
đến đời sống GV cả vật chất lẫn tinh thần chính là quản lý tốt chất lượng
giảng dạy và công tác của GV, cũng chính là quản lý tốt tới sự phát triển của
nhà trường. Công tác quản lý, đòi hỏi người hiệu trưởng phải biết chăm lo
đội ngũ GV của đơn vị mình cả về vật chất lẫn tinh thần.
10


*/ Hình thức quản lý nội dung bồi dưỡng:
Hiệu trưởng phải tham mưu với Phòng Giáo dục để gửi GV đi đào tạo
theo các hệ dài hạn (chuyên tu) hoặc hệ ngắn hạn (tại chức) để GV nâng cao
trình độ chuyên môn phục vụ tốt cho việc giảng dạy.
Hiệu trưởng quản lý có kế hoạch công tác bồi dưỡng thường xuyên
theo các nội dung bồi dưỡng từng chu kỳ của Bộ được triển khai hàng năm.
Hiệu trưởng quản lý công tác tự bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động

bồi dưỡng thường xuyên tại đơn vị như: Quản lý việc học tập, triển khai các
chuyên đề giảng dạy cụ thể từng môn; việc học tập các chỉ thị, nghị quyết,
hướng dẫn của ngành giáo dục; Mời các chuyên viên giỏi bộ môn về trường
nói chuyện chuyên đề về phương pháp dạy học bộ môn. Tổ chức cho GV
làm đề tài khoa học, viết sáng kiến kinh nghiệm về nâng cao chất lượng
giảng dạy các bộ môn. Tổ chức tốt hội thảo khoa học về phương pháp giảng
dạy và nâng cao chất lượng dạy học. Tổ chức có hiệu quả việc thăm lớp, dự
giờ, dạy thử, dạy mẫu, rút kinh nghiệm bài học. Tổ chức hội thi “Lao động
sáng tạo” thi làm đồ dùng, thi sáng kiến, thi tiết dạy trên lớp. Tổ chức xây
dựng thói quen đọc sách, tạp chí, tài liệu tham khảo, tích luỹ các tư liệu phục
vụ giảng dạy bộ môn.
6/ VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HIỆU TRƯỞNG THCS VỀ QUẢN LÝ NỘI
DUNG BỒI DƯỠNG GV NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY:

Hiệu trưởng là người quản lý nhà nước về giáo dục tại một trường
học. Hiệu trưởng phải là một nhà giáo có tâm hồn, có phẩm chất cao đẹp, có
trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đồng thời Hiệu trưởng
là người hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV.
Hiệu trưởng phải là trung tâm của mọi sự hoạt động của tập thể sư
phạm, phải nhận thức đúng đắn công tác bồi dưỡng và là tấm gương sáng
trong trường về công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng quản lý.
Muốn có học sinh giỏi, phải có thầy giáo giỏi; Muốn có đội ngũ giáo
viên tốt, có năng lực công tác, hiệu trưởng phải luôn đặt mình là “Con chim
đầu đàn”. Vai trò của hiệu trưởng cực kỳ quan trọng, có thể nói nó quyết
định đến toàn bộ vấn đề xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV trong trường.
Trong tình hình giáo dục hiện nay, hiệu trưởng phải đa năng, có trình
độ hiểu biết về tâm lý quản lý, tâm lý giao tiếp, tâm lý tiếp cận, tâm lý lứa
tuổi học sinh THCS. Phải có bộ óc tổ chức tốt, nhìn xa, thấy rộng để có kế
hoạch bồi dưỡng trước mắt, lâu dài, thường xuyên cho đội ngũ GV kịp thời.
Để bồi dưỡng có chất lượng đội ngũ GV trước hết hiệu trưởng phải tự

bồi dưỡng bản thân mình, tạo cho mình đủ uy tín chuyên môn trong tập thể
GV. Người hiệu trưởng phải là mẫu lý tưởng về công tác tự bồi dưỡng, trau
dồi chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, xứng đáng là tấm gương sáng cho GV
noi theo, xứng đáng là con chim đầu đàn, là chỗ dựa vững chắc cho đội ngũ
GV trong trường.
II/ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC
MÔN HỌC CHO GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG THCS SỐ 1 BẮC LÝ
11


1/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH GIÁO DỤC Ở PHƯỜNG BẮC LÝ

Phường Bắc Lý được thành lập từ năm 1992, được chia tách từ xã Lý
Ninh, một xã mà đã có phong trào giáo dục mạnh mẽ trong những năm đổi
mới. Phường Bắc Lý có diện tích 2290 ha, dân số với 2580 hộ, 12568 nhân
khẩu, được chia thành 15 tiểu khu. Đây là phường vừa rộng về diện tích, vừa
đông về dân số tập hợp người dân của 35 tỉnh thành. Kinh tế đa dạng: Nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, buôn bán nhỏ. Phường Bắc Lý là
vùng công nghiệp phía Bắc của thị xã Đồng Hới, nơi hội tụ của giao thông,
nơi giao lưu của buôn bán. Tình hình chính trị cơ bản ổn định, tình hình đời
sống nhân dân đang gặp nhiều khó khăn còn 25% hộ nghèo.
Trên địa bàn Phường có 6 trường:
-2 trường mầm non
-2 trường tiểu học
-2 trường THCS
GD Bắc Lý được Đảng ủy, ủy ban và nhân dân rất quan tâm. Hội đồng
nhân dân Phường có đề án về giáo dục Bắc Lý 2001-2005. Các trường học
của Bắc Lý là những đơn vị tiên tiến xuất sắc, đơn vị tiên tiến của giáo dục
Đồng Hới.

Tuy nhiên, mới chia tách nên CSVC trường học còn hạn chế. Trang thiết
bị nâng cao chất lượng còn khó khăn. Phải phấn đấu lâu dài.
Lãnh đạo địa phương nhận thức được vai trò của Giáo dục, phần nào
khơi dậy tiềm năng trong đội ngũ giáo viên, giáo dục Bắc Lý là một trong
những đơn vị dẫn đầu của thị xã Đồng Hới.
2/ THỰC TRANG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG THCS SỐ 1 BẮC LÝ

Trường THCSssố 1 Bắc Lý đóng trên địa bàn tiểu khu 5 nằm về phía
Tây Nam của Phường. Chủ yếu tuyển sinh học sinh các tiểu khu 1, 2, 3, 4, 5,
6, 7 và 10. Năm học 2002-2003 trường có 16 lớp với 593 học sinh.
Tình hình giáo viên tương đối ổn định, phần lớn là giáo viên có gia
đình ở trên địa phương. Trình độ đào tạo đa dạng, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm không đồng đều.
Trường có 35 cán bộ giáo viên, trong đó có 27 nữ. CSVC trường đang
gặp một số khó khăn về phòng học. Trường mới có một nhà cao tầng cho 12
lớp học 2 ca và một phòng thực hành, một phòng máy vi tính. Địa điểm của
trường nằm gần chợ Công đoàn nên mặt trái của cơ chế thị trường dễ tác
động ảnh hưởng vào khâu hình thành nhân cách cho học sinh và giáo viên.
Đội ngũ giáo viên không được trẻ hóa, đa phần là giáo viên lớn tuổi.
Đặc điểm giáo viên già thì mẫu mực, giàu kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng
tiếp thu cái mới lại chậm, đổi mới phương pháp đối với các đối tượng này là
chậm, là khó khăn.
Trong 3 năm bằng nhiều hình thức bồi dưỡng, và tự bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên nhà trường đã nâng cao dần một bước về trình độ nhận thức
và nhiệt tình công tác. Qua các hội thi giáo viên giỏi, học sinh giỏi cấp
trường, cấp thị, cấp tỉnh. Số lượng giáo viên giỏi, học sinh giỏi tăng đáng kể.
12



Ba năm 2001, 2002, 2003 Trường THCS số 1 Bắc Lý đạt trường tiên tiến
xuất sắc.
Về trình độ đào tạo: Bản thống kê của trường năm học 2000- 2001:
Tổng Nam Nữ
Độ tuổi
Hệ đào tạo
số
25-30 31-55 56
10 + 3 CĐ ĐH Trên ĐH
35
8
27
1
31
3
6
14
15
0
Nhìn vào bảng ta thấy đội ngũ giáo viên của trường được đào tạo ở
nhiều hệ khác nhau. GV đạt chuẩn bậc THCS là từ CĐSP : 29đồng chí.
Số GV trên chuẩn: Không
GV nữ :27 đ/c
GV già
Từ 31-35 tuổi: 31đ/c
Từ 56 tuổi trở lên: 3 đ/c
Chỉ có 1 GV tuổi 30.
Sau ba năm triển khai quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn ở trường THCS số 1 Bắc Lý, bước
đầu đã đạt được một số kết quả đáng phấn khởi như sau:

-Trước hết thanh toán được hiện tượng dạy yếu, dạy trung bình. Chất lượng
giảng dạy các môn học của đội ngũ GV được nâng lên rõ rệt. Đội ngũ giáo
viên giỏi các cấp tăng. Tập thể sư phạm nhà trường là một tập thể vững về
chuyên môn có tinh thần dân chủ cao, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Luôn tận
tụy say sưa với nghề nghiệp .
-Từ kết quả công tác bồi dưỡng GV mà chất lượng học tập của học sinh
chuyển biến rõ: Không còn biểu hiện càn quấy, mất trật tự trường học.
Thanh toán được học sinh yếu về đạo đức. Chất lượng hai mặt giáo dục qua
hàng năm tăng. Số học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp thị duy trì, phát huy cả số
lượng và chất lượng. Trường THCS số 1 Bắc Lý liên tục đạt trường tiên tiến
cấp tỉnh.
Kết quả cụ thể:
Kết quả nâng cao trình độ đội ngũ GV:
Năm học

Tổng số G.V

2000-2001
2001-2002
2002-2003

35
35
35

Hệ đào tạo

8
8
14


10+3
18
16
6

ĐH
9
11
15

Kết quả bồi dưỡng đội ngũ GV:
Năm học
2000-2001
2001-2002
2002-2003

TS
GV
35
35
35

Đảng GV
viên giỏi
13
5
16
9
23

13

GV
khá
24
24
22

GV
TB
5
2
0

GV
yếu
1
0
0

Tổ tiên
tiến
3
3
3

Trường
tiên tiến
TTXS
TTXS

TTXS
13


Kết quả chất lượng học sinh qua hàng năm:
Năm học

HS đạt
Hạnh kiểm
Học lực
giải
T% K% TB% G% K% TB
%

2000-2001
2001-2002
2002-2003

13
35
51

51
58
65

41
36
30


8
6
5

16
18
21

33
35
39

32
29
28

Liên đội
Y% V.M.X.S
19
18
12

V.M.X.S
V.M.X.S
V.M.X.S

Trước tình hình đổi mới phương pháp, đổi mới nội dung giảng dạy,
thay sách giáo khoa, một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra, chưa nắm bắt kịp thời, chưa áp dụng được phương pháp dạy học mới.
Bên cạnh đó vấn đề thiếu thốn cơ sở vật chất kĩ thuật dạy học là các

trở ngại lớn. Vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà trường là phải làm sao
mà trên cơ sở thực tế trẻ hóa được đội ngũ, từng bước nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học cho đội
ngũ giáo viên là cả một công việc của người quản lý và tập thể GV THCS số
1 Bắc Lý.
Chất lượng giảng dạy các môn học của GV qua kiểm tra năm học 20002001
Môn học
Dạy đạt yêu cầu trở lên
Dạy chưa đạt yêu cầu
Số lượng
%
Số lượng
%
Toán
469
61
300
39
Văn-Tiếng việt 515
67
254
33

574
75
195
25
Hóa
551
72

218
28
Sinh
669
87
100
13
Sử
655
85
114
15
Địa
647
84
122
16
GDCD
673
89
96
11
Kỷ thuật
687
91
82
9
Ngoại ngữ
483
63

386
37
Thể dục
701
93
68
7
Chất lượng học tập của học sinh đối với các bộ môn thiếu hào hứng
phấn khởi, hàng năm số học sinh thi lại các môn từ 18-20%, học sinh giỏi
các bộ môn bị hạn chế. Đặc biệt là các môn học cơ bản như Toán-Lý-VănAnh.
Đạo đức của học sinh cũng diễn ra nhiều vấn đề: Các biểu hiện càn
quấy ngoài lớp học, trêu chọc GV lúc giảng bài, biểu hiện chấn lột lẫn nhau,
không có ý thức tổ chức kỷ luật, thiếu trách nhiệm trong bảo vệ CSVC nhà
trường.
Nguyên nhân của vấn đề trên thì có nhiều, nhưng có các nguyên nhân
chủ yếu sau:
14


- Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV thiếu kế hoạch dài hạn,
Hiệu trưởng nhà trường chưa đặt đúng vị trí, vai trò công tác bồi dưỡng GV,
chưa quản lý được nội dung bồi dưỡng theo yêu cầu mà sự nghiệp đổi mới
đòi hỏi. Bồi dưỡng nội dung gì? Đối tượng nào cần bồi dưỡng, mặt nào chưa
được cụ thể mà mới là nêu ra bồi dưỡng cho tất cả GV.
- Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV chưa tranh thủ được sự
lãnh đạo của chi bộ Đảng trong nhà trường. Hay nói cách khác: Đảng chưa
lãnh đạo công tác bồi dưỡng đội ngũ GV, một số cá nhân Đảng viên chưa
thấy được tầm quan trọng của tự học để chuẩn hóa trình độ; Tự rèn để xứng
đáng với vị trí, vai trò người thầy giáo. Một số tiết dạy chưa đạt yêu cầu
trong đó vẫn có Đảng viên. Chi bộ chưa làm tốt công tác xây dựng tổ chức

cơ sở Đảng, trước năm học 2000-2001 chi bộ chưa năm nào đạt chi bộ trong
sạch vững mạnh. Công tác bồi dưỡng phát triển Đảng hầu như mất trắng.
- Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV chưa chú ý đúng mức
đến nội dung bồi dưỡng chính trị tư tưởng, đạo đức, nhận thức lý luận, việc
học tập chính trị, nghe nói chuyện thời sự, việc thực hiện quy định của
chuyên môn có làm song thiếu thường xuyên, thiếu kiểm tra đôn đốc. Các
biểu hiện tùy tiện trong việc làm, tự do phát ngôn không đúng nơi, đúng lúc
kéo dài trong GV, thậm chí có đơn thư tố cáo nặc danh.
- Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ theo các chu kỳ làm thiếu
chặt chẽ, chỉ tiếp thu tại các lớp bồi dưỡng, không tổ chức thực hành tại
trường, có môn thực hành nhưng cũng làm có đầu việc, thiếu chất lượng,
không mang lại hiệu quả thiết thực.
- Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng nâng cao trình độ theo yêu cầu chuẩn
hóa từ Bộ đến Sở không có kế hoạch, chỉ yêu cầu giáo viên nâng cao trình
độ mà không mở các lớp để cho họ có cơ hội học. Hoặc có tổ chức thì lại
mở lớp trong năm học gây khó khăn cho vừa học lại vừa giảng dạy .
- Phong trào thi đua phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi, dạy khá chưa
được chú ý và cũng chưa tổ chức liên tục, rộng rãi, chưa trở thành động lực
của công tác bồi dưỡng. Kế hoạch thi đua, nhân điển hình về gương bồi
dưỡng tốt trong trường chưa được chú ý.
Trước những thực trạng yếu kém trên làm cho công tác bồi dưỡng tại
trường THCS số 1 Bắc Lý không đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới
nội dung chương trình sách giáo khoa.
Ban lãnh đạo nhà trường, trực tiếp là đồng chí hiệu trưởng băn khoăn
trăn trở. Làm sao mà cũng trên những đội ngũ hiện có, được tổ chức, sắp
xếp, bồi dưỡng để họ nhanh chóng vừa nâng cao trình độ chuyên môn theo
chuẩn vừa bồi dưỡng phương pháp giảng dạy để đón nhận đổi mới chương
trình sách giáo khoa. Phương pháp giảng dạy đó là một nội dung cần tháo gỡ
một cách tích cực nhất, hiệu quả nhất.
III/ PHƯƠNG HƯỚNG - GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ

1/ PHƯƠNG HƯỚNG:

Quán triệt tinh thần Nghị quyết TW IV(khóa VII), nghị quyết TWII
(khóa VIII), kết luận của hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành TW Đảng khóa
15


IX và chỉ thị nhiệm vụ năm học của Bộ GD-ĐT. Căn cứ vào tình hình thực
tế của đội ngũ GV trước yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới mạnh mẽ nội dung,
phương pháp dạy học các môn ở trường THCS. Trường THCS số I Bắc Lý
triển khai toàn diện, đồng bộ với các bước đi phù hợp, tích cực có hiệu quả
nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV nhằm nâng cao chất lượng dạy tốt các môn
học.
2/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC Ở
TRƯỜNG THCS SỐ I BẮC LÝ:

2.1/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp GD-ĐT nói
chung và nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV nhằm nâng cao chất lượng dạy
học các môn ở trường THCS:
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng: Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Giáo dục Phổ thông là một bộ phận của nền GD quốc dân, nó nằm
trong chiến lược con người, là bộ phận của Cách mạng XHCN, với mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để thúc đẩy kinh tế-xã

hội phát triển. Vì vậy phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
GD bằng đường lối, chiến lược và các định hướng về chính sách, bằng sự
thuyết phục và gương mẫu của các Đảng viên.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trước hết là tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng với sự nghiệp GD. Các tổ chức cơ sở Đảng cần nhận
thức đúng đắn và thấm nhuần quan điểm của Đảng, xem GD-ĐT là “Quốc
sách hàng đầu”. GD đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới.
Các cấp ủy Đảng cần quán triệt hơn nữa nghị quyết TW II (khóa VIII)
để thấy được vị trí, vai trò quan trọng của sự nghiệp giáo dục phổ thông
trong xã hội trước mắt cũng như lâu dài, từ đó có sự quan tâm đầu tư đúng
mức cho Giáo dục phổ thông. Phải nhận thức rõ: Giáo dục phổ thông là nền
tảng văn hóa của đất nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc, nó đặt những
cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự nghiệp phát triển toàn diện con người
Việt Nam XHCN. Vì vậy, ngành học phải nằm trong sự quản lý của nhà
nước mới có thể ổn định và phát triển.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp Giáo dục phổ thông
còn thể hiện ở việc củng cố lại các tổ chức cơ sở Đảng trong trường tiểu
học, THCS, THPT. Các chi bộ, đảng bộ ở các trường học phải làm tốt công
tác tư tưởng chính trị, phải giữ vững sự đoàn kết nội bộ. Thực hiện dân chủ,
công khai, công bằng, và bình đẳng về nghĩa vụ quyền lợi của cán bộ giáo
16


viên. Đảm bảo mọi lợi ích mọi thành viên theo đúng luật pháp, lợi ích nhà
nước. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ GV đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu
mục tiêu giáo dục-đào tạo. Chi bộ trường học phải thường xuyên chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh trong điều kiện kinh tế thị
trường, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, nâng cao tinh

thần cảnh giác cách mạng, chống “Diễn biến hòa bình”. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ trên đây, đòi hỏi cấp ủy Đảng phải làm tốt công tác thông tin định
kì để cán bộ giáo viên tiếp cận nhanh với chủ trương, chính sách đổi mới
của Đảng và nhà nước. Đồng thời với việc củng cố tổ chức và hoạt động của
chi bộ Đảng trong trường học, cần phải làm tốt công tác phát triển Đảng
viên mới trong đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Đây là nhiệm vụ
thường xuyên, nhưng đối với trường học, ngành giáo dục là một cấp bách.
Bởi nhìn chung các trường học số lượng Đảng viên đang chiếm tỉ lệ thấp.
Mức chênh lệch giữa các vùng, miền; giữa các ngành học, bậc học; giữa các
trường còn khá xa. Chăm lo công tác phát triển Đảng chẳng những thể hiện
trách nhiệm đối với hiện tại mà còn đối với cả tương lai của Đảng, tăng sinh
lực cho Đảng, trẻ hóa đội ngũ, đảm bảo sự thừa kế và phát triển. Muốn vậy,
các chi bộ nhà trường phải làm tốt công tác đào tạo nguồn để lựa chọn, giúp
đỡ bồi dưỡng kết nạp những thầy, cô ưu tú đủ tiêu chuẩn. Cần quan tâm
trước hết đến các thầy cô giáo trong ban giám hiệu, các đồng chí phụ trách
đoàn thể, các giáo viên có thành tích xuất sắc, các tổ trưởng bộ môn của nhà
trường. Các cấp ủy phải đặt công tác phát triển Đảng thành chương trình, kế
hoạch cụ thể, có tổ chức chỉ đạo sát sao, chặt chẽ mang lại hiệu quả thiết
thực.
2.2/ Quản lý nội dung bồi dưỡng về nhận thức, tầm quan trọng của công tác
bồi dưỡng đội ngũ giáoviên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy:
Ngày nay chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nước nhà trong điều kiện bùng nổ thông tin và khoa học công nghệ.
Sự nghiệp này chỉ có thể thành công khi chúng ta có đủ nguồn nhân lực chất
lượng cao. Muốn vậy, các nhà trường nói chung, nhà trường THCS nói riêng
phải chủ động có biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, đó là trình độ
người dạy, khả năng tiếp thu của người học; cơ sở vật chất thiết bị ...Nội
dung sách giáo khoa mới và phương pháp giảng dạy mới. Khi xã hội ngày
càng phát triển, yêu cầu về khoa học kĩ thuật ngày càng cao thì nhận thức
của con người chúng ta lại trở nên cũ kĩ, lạc hậu với thời đại, cần được biến

đổi nhất là trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo. Đối với đội ngũ giáo viên sự học
tập hơn bao giờ, hơn ai hết càng được đề cao. Sự học tập có khởi đầu mà
không có kết thúc. Nếu giáo viên dừng lại, không tự bồi dưỡng về mọi mặt
thì sẽ không đáp ứng được trước phương pháp mới, thay sách mới mà toàn
ngành đang thực hiện.
Quá trình dạy học-hiểu theo tiếp cận hệ thống- gồm 6 thành tố cơ bản:
Mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá tương tác
với nhau tạo thành một chỉnh thể vận hành trong môi trường giáo dục của
nhà trường và môi trường kinh tế-xã hội của cộng đồng.
17


THCS là cấp học phổ cập, nhằm nâng cao mặt bằng dân trí, chuẩn bị
đào tạo nguồn nhân lực cho CNH-HĐH. Chúng ta đang phấn đấu đẩy nhanh
tiến độ để đến 2005 các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập THCS và đến 2010 hoàn thành phổ cập THCS trong cả
nước.
Nghị quyết TW IV (khóa VII) đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới phương
pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học”. Nghị quyết TW II (khóa VIII)
nhận định : “Phương pháp giáo dục- đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát
huy được tính chủ động sáng tạo của nguời học”.
Trước tình hình đó, lãnh đạo nhà trường đã làm cho mỗi cán bộ giáo
viên trong trường THCS số1 Bắc Lý nhận thức đầy đủ, sâu sắc, biến suy
nghĩ thành hành động cụ thể, tiến hành đăng ký, xây dựng kế hoạch tự học,
tự bồi dưỡng cho bản thân, tiến hành học tập nâng cao trình độ, nghiên cứu
áp dụng phương pháp dạy mới trong quá trìng dạy học.
2.3/ Quản lý nội dung kế hoạch về bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Kế hoạch là chức năng hoạch định, là khâu then chốt cực kì quan
trọng của toàn bộ quản lý nội dung bồi dưõng đội ngũ giáo viên. Để làm tốt
công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, thực hiện tốt kế hoạch, công tác quản

lý phải tiến hành khảo sát, phân tích tình hình đội ngũ đầu năm và từng thời
kì về hoàn cảnh, trình độ, chất lượng giảng dạy cụ thể các môn để có kế
hoạch bồi dưỡng sát đúng, phù hợp. Nội dung khảo sát gồm: Hoàn cảnh bản
thân, thâm niên nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy, năng
lực giáo dục. Dưới đây là bảng khảo sát số liệu 2 năm học 2000- 2001 và
2002- 2003.
Năm học T.số
Tuổi đời
Trình độ
Năng lực
sư phạm
25-30 31-55 56 Đh Cđ 10+3 G K T Y
B
2000- 2001 35
1
31
3
9 8
18
5 24 5 1
2002- 2003 35
1
30
4 15 14
6
13 22 0 0
Từ số liệu khảo sát, nội dung quản lý kế hoạch định hướng:
- Không thể có khả năng tổ chức đào tạo nâng cao trình độ vì độ tuổi đội
ngũ quá cao so với quy định, chỉ có khả năng bồi dưỡng đào tạo theo hướng
tại chức.

- Phải bằng các biện pháp bồi dưỡng nâng cao trình độ 10+3 lên cao đẳng,
trong đó một số có điều kiện bồi dưỡng theo hướng đại học từ xa. Phải phấn
đấu từ năm 2000 đến 2005 giải quyết được 40% số 10+3 lên cao đẳng và đại
học.
-Thường xuyên bồi dưỡng tại chỗ, nâng dần năng lực sư phạm phấn đấu trên
70% giáo viên dạy giỏi-khá, không có giáo viên yếu.
Bằng các định hướng về nội dung cần tập trung bồi dưỡng cho đội
ngũ giáo viên, cùng với nhận thức về vị trí tầm quan trọng công tác bồi
dưỡng, nhà trường phát động phong trào tự học nâng cao trình độ bằng việc
18


cá nhân đăng ký tự học nội dung gì? học vào thời điểm nào? Mỗi giáo viên
có kế hoạch tự bồi dưỡng cho bản thân về các nội dung: nângcao trình độ
đạt chuẩn và trên chuẩn, nâng cao tay nghề để thực hiện dạy tốt các môn
thay sách, nâng cao nhận thức về chính trị lý luận và vốn hiểu biết trong
cuộc sống.
Kết quả đăng ký tự học tự bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực sư
phạm ở trường THCS số1 Bắc Lý năm học 2000- 2001:
Về nâng cao trình độ đạt chuẩn:
Trong các đồng chí có trình độ đại học, có 2 đ/c đăng ký học tại chức
trung cấp chính trị. Trong 16 đ/c 10+3: đăng ký học đại học từ xa 4 đ/c,
đăng ký học cao đẳng 10 đ/c.
Về nâng cao năng lực sư phạm:
100% cán bộ giáo viên đăng ký phấn đấu đạt lao động giỏi trong đó
có 13 đ/c đăng ký giáo viên giỏi các cấp.
Trên cơ sở khảo sát tình hình và đăng ký tự bồi dưỡng của mỗi cán bộ
giáo viên, kế hoạch quản lý công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trường
THCS số 1 Bắc Lý 2000-2005 được xác định với các mục tiêu lớn là: Bằng
mọi hình thức tự học, tự bồi dưỡng, mỗi cán bộ giáo viên tự xác định cho

mình một hình thức học tập phù hợp với các nội dung: Học tập nâng cao
trình độ chuyên môn theo chuẩn và trên chuẩn của giáo viên THCS. Luôn
luôn trau dồi phẩm chất, năng lực sư phạm, phẩm chất chính trị vươn lên
dạy giỏi, dạy khá đáp ứng yêu cầu giáo dục trong tình hình mới mà trước
mắt là đáp ứng thay sách lớp 6, lớp 7.
Nhà trường phối hợp với phòng GD-ĐT Đồng Hới đăng ký danh sách
đi học cao đẳng và đại học tại chức hàng năm. Tổ chức cho giáo viên thực
hiện bồi duỡng thường xuyên tại đơn vị. Thông qua các hoạt động chuyên
môn tổ chức bồi dưỡng những nội dung cơ bản nhất, thiết thực nhất.
2.4/ Quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên bằng hình thức đào tạo
và đào tạo lại:
Thực hiện tư tưởng chủ đạo của chiên lược phát triển giáo dục trong
giai đoạn 2001-2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực.
Một bất cập ở trường THCS trong đó có THCS số1 BắcLý là tính đào tạo
không đồng bộ trong đội ngũ: GV Văn Sử thừa mà thiếu GV Toán Lý.
Không có giáo viên được đào tạo dạy thể dục, nhạc, họa, tin học...Để hoàn
thành được nhiệm vụ đặt ra trong giảng dạy, chỉ có cách là tiếp tục đào tạo
và đào tạo lại số GV hiện có. Đây là vấn đề đặt ra rất khó khăn cho trường
THCS số1 Bắc Lý, không thể cùng một lúc cho đi đào tạo hoặc đào tạo lại
được vì phải đảm nhận giờ lên lớp. Vì thế nhà trường đặt vấn đề quản lý nội
dung đào tạo, đào tạo lại là một nhiệm vụ của công tác quản lý.
Về đào tạo và đào tạo lại, Hiệu trưởng căn cứ vào đối tượng phải bồi
dưỡng, căn cứ vào danh sách cá nhân đăng ký, căn cứ vào sắp xếp lao động
mà có kế hoạch với phòng GD cho đi học thêm để nâng từ 10+3 lên cao
đẳng hoặc từ 10+3 lên đại học. Một số bộ môn thiếu GV thì cử đi học theo
các trung tâm hoặc các đợt tập huấn như tin học, họa, nhạc, thể dục. Đối với
19


anh em giáo viên theo học các chương trình đào tạo tại chức hay chuẩn hóa

trình độ cao đẳng, nhà trường và công đoàn luôn tạo mọi điều kiện về các
mặt để giáo viên an tâm, phấn khởi hoàn thành công việc học tập đạt kết quả
tốt. Các giáo viên đi học luôn nhận được sự động viên của tập thể bằng tinh
thần lẫn kinh phí tạo cho họ có sự động viên cao nhất để họ học tập tốt nhất.
Đối với anh em giáo viên có nguyện vọng học tập nâng cao trình độ nhưng
chưa có điều kiện sắp xếp thì tập thể nhà trường rất trân trọng và tạo điều
kiện để các đồng chí đó sớm được thực hiện nguyện vọng của mình.
2.5/ Quản lý nội dung bồi dưỡng về trình độ chính trị , nhận thức, lý luận
cho đội ngũ giáo viên:
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ cho giáo dục ở nước ta. Sự đổi mới và phát triển giáo
dục đang diễn ra tạo cơ hội tốt để giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận
với các xu thế mới, tri thức mới, những cơ sở lý luận, phương thức tổ chức,
nội dung giảng dạy hiện đại và vận dụng kinh nghiệm để đổi mới và phát
triển, đồng thời cũng đòi hỏi giáo dục phải phục vụ đắc lực cho xã hội, nâng
cao trình độ đào tạo đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thực tiễn, tăng hiệu
quả giáo dục, nhạy bén và thích ứng nhanh với biến động và nhu cầu xã hội.
Thực tế xã hội sinh động đó không thể không tác động mạnh mẽ vào nhà
trường vào mỗi thấy cô giáo. Nhu cầu về lượng thông tin, thái độ nhận thức
chính trị, vốn lý luận trang bị cho đội ngũ giáo viên là cần thiết và có tính
cấp bách. Để làm tốt việc này, nhà trường THCS số 1 Bắc Lý đưa việc bồi
dưỡng chính trị, nhận thức lý luận vào một nội dung quản lý.
Hằng năm, nhà trường phối hợp tổ chức cho đội ngũ GV dược tham
gia học tập các nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp, học tập chỉ thị nhiệm
vụ năm học của Bộ Giáo dục Đào tạo, các văn bản hướng dẫn của ngành để
cho GV nắm được chủ trương của Đảng, các quy định nhà nước từ đó có ý
chí phấn đấu trong công tác. Bằng các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhà
trường phối hợp với công đoàn tổ chức cho GV tham gia các cuộc thi tìm
hiểu về nghị quyết của Đảng, luật hình sự, luật an toàn giao thông, tập huấn
phòng chống HIV. Tổ chức nói chuyện thời sự, thông báo tình hình theo các

chuyên đề của Đảng ủy Phường. Nhà trường rất coi trọng việc thực hiện các
cuộc vận động: “Dân chủ hóa nhà trường”-“Xã hội hóa Giáo dục”-“Gia đình
nhà giáo văn hóa”-“Kỷ cương tình thương trách nhiệm”. Giải quyết đồng bộ
giữa vấn đề tổ chức, tư tưởng, nhận thức và thái độ của GV trong các quan
hệ công việc được quản lý nhà trường chú ý đúng mức. Nhà trường xem đây
là một tiêu chuẩn để đánh giá xếp loại GV. Các biện pháp giải quyết dứt
điểm những tư tưởng: ngại khó, thoả mãn, tự phụ, học một lần dạy suốt đời.
Trên cơ sở đó làm cho GV thấy được sự cần thiết phải không ngừng rèn
luyện về mọi mặt.
2.6/ Quản lý nội dung bồi dưỡng về đổi mới nội dung phương pháp dạy học
các môn học:
Để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường THCS theo
mục tiêu cấp học, vấn đề thực hiện nội dung SGK mới và phương pháp dạy
20


theo sách mới được đặt ra rất quan trọng cho mỗi GV. Nhìn chung GV đều
nhiệt tình, giàu lòng yêu nghề mến trẻ, tinh thần trách nhiệm cao, luôn có ý
thức hướng tới cái mới, cái tiên tiến. Song do GV Đào tạo qua nhiều thời kì,
nhiều hình thức nên đa số GV rất lúng túng, lo lắng trước thay sách và đổi
mới phương pháp giảng dạy. Đường mòn cũ trong từng GV đã in sẵn, biểu
hiện áp đặt kiến thức, bắt học sinh công nhận theo sách, luôn thuyết trình,
ghi nhiều, nói nhiều, học sinh thụ động tiếp thu đang là hiện tượng phổ biến
trong đội ngũ GV.
Để quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV trong lĩnh vực này nhà
trường phối hợp chặt chẽ với công tác bồi dưỡng thay sách của ngành. Vào
hè hàng năm tổ chức cho GV trực tiếp học tại các lớp bồi dưỡng theo môn,
tổ chức cho GV tự nghiên cứu tại trường, nêu câu hỏi để đến lớp giải đáp; tổ
chức dạy thử, dạy mẫu rút kinh nghiệm.
Trong năm học trường tổ chức hội nghị lao động sáng tạo, thi giờ dạy,

thi sử dụng đồ dùng để mỗi GV có điều kiện thể hiện công tác tự bồi dưỡng
của bản thân trước tập thể. Hội nghị lao động sáng tạo mở đầu từ tháng 9 kết
thúc cuối tháng 4 hàng năm. Mỗi GV chủ động nghiên cứu nội dung thay
sách giáo khoa, tài liệu, định vị phương pháp thể hiện, tập thể các tổ chuyên
môn tổ chức rút kinh nghịêm. Đây là hình thức bồi dưỡng sống động nhất và
hiệu quả nhất. Xét cho cùng hiệu quả vẫn là giờ lên lớp.
Mỗi tháng 2 lần, trong sinh hoạt tổ chuyên môn, nhà trường tổ chức
cho các GV hội thảo, tranh luận bài dạy. Cho GV nêu ý kiến chủ quan của
mình và tổ chức dạy thử trên lớp. Hàng năm tổ chuyên môn rút ra được vấn
đề về dạy các loại bài thuộc tổ quản lý.
Đồng thời với các biện pháp trên, công tác dự giờ thăm lớp được nhà
trường quản lý có kế hoạch. Đây là hoạt động thường xuyên đã trở thành
nhu cầu của GV. Thực hiện mỗi GV một tuần phải dự một tiết. Riêng hiệu
trưởng tăng cường dự giờ GV giỏi, GV có kinh nghiệm để rút ra bài học áp
dụng chung toàn trường. Qua dự giờ GV có điều kiện học tập đồng nghiệp
và góp ý cho đồng nghiệp về kiến thức lẫn phương pháp từ đó rút kinh
nghiệm cho bản thân. Hình thức tổ chức dự giờ: Dự giờ tự giác của GV, GV
tự bố trí để học hỏi lẫn nhau: Có thể GV cùng bộ môn dự giờ theo nhóm để
luyện giảng.
2.7/ Quản lý nội dung bồi dưỡng thông qua kiểm tra , đánh giá, nhân điển
hình:
Kiểm tra là chức năng quan trọng của quản lý. Quản lý mà không
kiểm tra thì xem như buông lỏng quản lý. Bất cứ việc gì có kiểm tra là có
hiệu quả hơn. Tin nhau là tốt, kiểm tra nhau thì càng tốt hơn. Cùng với công
tác kiểm tra nội bộ trường học, nhà trường phải có biện pháp kiểm tra, đánh
giá, nhân điển hình về nội dung công tác bồi dưỡng. Kiểm tra là một mắt
xích trong chu trình bồi dưỡng. Hiệu trưởng dành thời gian để kiểm tra lại
kế hoạch bồi dưỡng hàng năm, hàng kỳ từ đó mà có biện pháp bổ cứu làm
cho công tác bồi dưỡng thực hiện đúng chỉ tiêu kế hoạch.
21



Để kiểm tra đánh giá kết quả bồi dưỡng từng GV, Hiệu trưởng có thể
tiến hành kiểm tra như sau: Về nội dung bài dạy, Hiệu trưởng kiểm tra nhóm
GV soạn bài dạy cùng khối; Về phương pháp, Hiệu trưởng dự giờ nhóm GV
dạy cùng bài. Đối chiếu với yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp và thực
tế bài soạn, giờ dạy để rút kinh nghiệm có hướng bổ cứu.
Việc kết hợp giữa kiểm tra toàn diện, giữa kiểm tra chung và kiểm tra
công tác bồi dưỡng là rất cần thiết. Mục đích kiểm tra là bồi dưỡng các mặt
nhưng không nhất thiết bồi dưỡng tràn lan, nội dung nào cũng bồi dưỡng,
môn nào cũng bồi dưỡng mà không có tính dứt điểm. Hiệu trưởng phải định
kế hoạch, từng người, từng thời kì cần bồi dưỡng dứt điểm vấn đề gì ở khả
năng của đội ngũ GV.
Vấn đề đánh giá xếp loại GV phải gắn với công tác bồi dưỡng. Cách
nhìn nhận đánh giá của hội đồng thi đua là cách nhìn động, nhìn theo hướng
phát triển. Một GV, có một cải tiến nhỏ vẫn nâng niu hơn GV kia không có
gì đổi mới. Việc chọn GV giỏi cũng thông qua bồi dưỡng, giáo viên giỏi
ngoài các tiêu chuẩn theo quy định phải là người đi đầu, có hiệu quả trong
công tác bồi dưỡng. Những tấm gương tiêu biểu về tự học, tự nâng cao trình
độ được nhân rộng điển hình trong đơn vị và được bồi dưỡng để trở thành
nồng cốt chuyên môn.
3/ KIẾN NGHỊ:

Công tác quản lý nội dung bồi dưỡng cho GV là việc làm thường
xuyên, có kế hoạch, có bước đi phù hợp. Để công tác bồi dưỡng thực hiện
có hiệu quả hơn, qua nghiên cứu bản thân xin đề xuất các nội dung sau:
Đối với Bộ Giáo dục Đào tạo:
- Sau chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên1997-2000, Bộ phải có chương trình
bồi dưỡng thường xuyên tiếp theo với đầy đủ các bộ môn, nội dung, chương
trình cụ thể hơn để cơ sở có điều kiện thực hiện.

-Về lâu dài, Bộ nên quy định lại số giờ chuẩn của GV THCS để phù hợp
với chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về tuần làm việc 40 giờ.
- Nên đào tạo GV dạy âm nhạc, mỹ thuật, tin học và có hướng dẫn định biên
cho các trường THCS. Nên có chế độ trợ cấp kinh phí cho GV đi học nâng
cao trình độ để khuyến khích người học.
Đối với sở Giáo dục-Đào tạo Quảng bình:
- Cần có kế hoạch mở các lớp chuẩn hóa cao đẳng trong hè để mọi GV có
thể phấn đấu theo yêu cầu chuẩn hóa, có hình thức học làm sao trong thời
gian ngắn chuẩn hóa được trình độ.
- Có kế hoạch mở các lớp chuẩn hóa theo trình độ trên chuẩn (Đại học) để
GV có nhu cầu được học tập.
- Sở nên tham mưu để UBND tỉnh có động viên nguồn kinh phí cho GV đi
học.
Đối với phòng GD-ĐT Thị xã Đồng Hới.
- Phòng nên đặt vị trí công tác bồi dưỡng giáo viên cao hơn nữa và có trách
nhiệm tham mưu, chỉ đạo sâu sát hơn, tránh tình trạng bị động trong tổ chức,
thiếu tài liệu trong học tập.
22


- Phòng phối hợp kiểm tra với công tác bồi dưỡng. Qua kiểm tra phòng nên
có kế hoạch cho cơ sở nên tập trung bồi dưỡng gì? Khâu nào là mũi đột phá,
tránh tràn lan, chung chung.
- Cần bố trí đội ngũ GV ở các trường THCS hợp lý cả về cơ cấu, số lượng,
chất lượng để các trường có điều kiện thực hiện nội dung bồi dưỡng tại đơn
vị mình.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp giáo dục phổ thông của nước ta tùy thuộc phần lớn ở chất
lượng, ở nhiệt tình, ở kinh nghiệm, ở khả năng của đội ngũ giáo viên. Đội
ngũ giáo viên là lực lượng quan trọng, chủ yếu trong nhà trường. Họ chính

là những kĩ sư tâm hồn đang ngày đêm thiết kế hàng vạn tâm hồn trẻ, ngây
thơ, trong sáng để một ngày không xa lớp trẻ lớn lên gánh vác sự nghiệp của
nước nhà.
Để xứng đáng tầm vóc, vị trí vinh quang mà xã hội giao phó, trong
quá trình công tác, mỗi thầy cô giáo chúng ta phải tự nhận thức được vị trí
của mình trong xã hội, xứng đáng với sự tôn vinh của mọi người thì chính
mình phải không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để làm phong
phú vốn kiến thức cho bản thân. Trong vấn đề bồi dưỡng thì nội dung bồi
dưỡng nâng cao chất lượng dạy học cho giáo viên được các trường quan tâm
nhất. Trường THCS số 1 Bắc lý cũng là một trong các đơn vị làm tốt nội
dung này.
Quá trình nghiên cứu lý luận có tính cơ sở về nội dung quản lý công
tác bồi dưỡng đội ngũ nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học ở
trường THCS số 1 Bắc Lý, qua thực trạng của đội ngũ giáo viên và công tác
quản lý nội dung bồi dưỡng của nhà trường. Qua so sánh đối chiếu giữa lý
luận và thực tế bản thân tôi thấy rằng: Bản thân đồng chí hiệu trưởng-người
quản lý nhà trường cần có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác bồi
dưỡng giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học là việc
làm quan trọng cấp bách mang tính thời sự nóng bỏng. Việc sử dụng hợp lý
đội ngũ giáo viên, xây dựng đội ngũ ngày càng đầy đủ phẩm chất, năng lực,
chuẩn hóa về trình độ đào tạo, xây dựng tập thể sư phạm vững mạnh là bí
quyết của mọi thành công trong nhà trường.
Người quản lý nhà trường phải nhận thức được công tác bồi dưỡng
giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy là việc làm thường xuyên, lâu dài,
khó khăn và phức tạp.. Vì thế cần tiến hành quản lý nội dung bồi dưỡng có
tính kế hoạch, lâu dài, liên tục qua từng thời kỳ, từng năm học. Đòi hỏi
người quản lý phải kiên trì, sáng tạo, nhiệt tình. Hiệu trưởng phải biết chọn
các điểm nóng làm mục tiêu ưu tiên, phải biết động viên, khen thưởng kịp
thời, đúng đối tượng. Để quản lý nội dung bồi dưỡng có hiệu quả cao thì
người quản lý phải biết kết hợp hài hòa giữa nội dung thiết thực với nội

dung đề cao, giữa đại trà với mũi nhọn, giữa tập thể với cá nhân, giữa điểm
23


và diện. Biết kết hợp đồng bộ giữa vấn đề tổ chức tư tưởng với nhận thức và
thái độ của GV.
Qua việc nghiên cứu đề tài này bản thân tôi nhận thấy:
-Quản lý nội dung bồi dưỡng GV là nhiệm vụ quan trọng của người hiệu
trưởng trong quản lý trường học.
-Hiệu trưởng phải xác định rõ mục tiêu, hiệu quả và mục tiêu cuối cùng là
phát triển nhân cách học sinh trong công tác bồi dưỡng đội ngũ GV.
-Bồi dưỡng GV là yêu cầu khách quan đồng thời là yêu cầu cần thiết trong
tình hình đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay.
-Chất lượng học sinh bao giờ cũng tiền nguyên nhân ở sự phát triển năng
lực sư phạm của GV, vì thế bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ GV có
ý nghĩa trực tiếp nâng cao chất lượng học sinh.
-Để có một tập thể có phong trào, có hiệu quả bồi dưỡng tốt, trước hết
người quản lý phải gương mẫu tự bồi dưỡng mình, tự hoàn thiện mình để
xứng đáng vai trò mà mình đảm nhận.
Đề tài nghiên cứu của bản thân tuy còn hạn chế. Song với cơ sở lý
luận và các giải pháp được qua thực tiễn, tin tưởng đây là một bài học cho
bản thân trong công tác quản lý nội dung bồi dưỡng đội ngũ GV. Tin tưởng
các giải pháp là các bài học, bước đi bổ ích trong quản lý nội dung bồi
dưỡng giáo viên tại trường THCS số 1 Bắc Lý.
Đồng Hới, Ngày 25 tháng 8 năm 2003
Người thực hiện:

Lê Văn Chương

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Nghị quyết TW IV khóa VII, Nghị quết TW II khóa VIII, Nghị quyết Đại
hội Đảng tòan quốc lần thứ IX, kết luận của hội nghị Ban chấp hành TW
Đảng
lần thứ 6.
2/ Điều lệ trường phổ thông trung học của Bộ giáo dục-đào tạo.
3/ Chỉ thị về nhiệm vụ năm học 2002-2003 của Bộ giáo dục-đào tạo.
4/ Tài liệu tập huấn cán bộ quản lý giáo dục triển khai thực hiện thay sách
giáo khoa mới ở trường trung học cơ sở.
5/ Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lý trường trung học cơ sở.

25


×