Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tình trạng đô la hoá ở việt nam và những giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.2 KB, 15 trang )

Tình trạng đô la hoá ở Việt Nam và những giải pháp khắc phục
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử
dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng
tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần.
1. Khái niệm về đô la hoá
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ
trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm:
tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo
đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa
phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.
Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la
hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization).
- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế,
mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.
Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
- Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở
những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế
trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và
những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính
sách tiền tệ của họ.
- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền
hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp
trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính
phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu
hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi
đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp


pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền
hợp pháp.
Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại
tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia,
Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao


Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay.
35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước:
Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan,
Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland,
Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine,
Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55
đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.
2. Nguồn gốc của đô la hoá
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm phát
triển . Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ
giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có
uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh
tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
• Chức năng làm phương tiện cất giữ.
• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của
một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò
của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển
đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò
tiền tệ thế giới.

Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như:
bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này
trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim
ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô
la hoá".
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị
trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng
tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu
khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở
đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế,
trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ
và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở
mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao.
Đối với trường hợp Việt Nam ngoài các yếu tố trên, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một số nguyên


nhân sau đây của hiện tượng đô la hoá:
- Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và sự quản lý
lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh... bán
hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến.
- Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để dành, lo xa cho
cuộc sống. Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi của tỷ giá VNĐ/USD
là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền bằng đô la. Trong các năm đầu thời
kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng
đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trưc và gửi ngân hàng.
Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh
diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy
động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về
lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng.

Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 3% - 4%/năm, thấp chỉ bằng
1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ
trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên.
Bên cạnh đó nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nên họ lựa chọn đô la
Mỹ để gửi ngân hàng. Thực trạng đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ,
cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại
tương ứng với gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn
như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử
dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ.
- Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và tăng lên. Đó là
thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế
ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi
tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu
dùng; tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu
lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về.
Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm
gần đây không ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993:
140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99 triệu USD;
1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD; 2000: 1,757 triệu USD;
2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD; năm 2003: 2.580 triệu USD và 9 tháng đầu năm
2004 ước tính khoảng 2,1 tỷ USD. Đó là con số thống kê được qua hệ thống ngân hàng, chưa kể
ngoại hối được chuyên ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều mang trực
tiếp theo người khi nhập cảnh.
- Lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng nhanh, năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người;
năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu;...; và trong 9 tháng đầu năm 2004 đạt gần 2,9
triệu lượt người. Số lượng khách đó mang theo một số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại
tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân.


3. Những tác động của đô la hoá

Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.
a. Những tác động tích cực:
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân
đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống
ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở
thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm
phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết
kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả
năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông
chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách
được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn
ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế
bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát
của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở
rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị
trường quốc tế.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa
tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự
phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế
giảm được chi phí kinh doanh.
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro
cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư
quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp
hơn, chi ngân sách tiảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức
càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi
chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp).
b. Những tác động tiêu cực:

- Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng
ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất
tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc
khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa
ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.


• Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của
chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho
vay trở nên kém hiệu quả.
• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách
tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng
chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến
tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô
la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc
điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường
hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và
bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những
thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này
sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân
hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định
trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô
đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn,
khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức
năng phát hành đô la Mỹ.

- Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức,
chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong
khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế
giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi
phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.
- Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối
cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các
ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản
tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với
các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng
được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất
ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng
người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
4. Thực trạng đô la hoá ở nước ta
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt
đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la.
Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân
hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo
ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng
USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài


chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép
của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng
lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003
còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la
hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả.
Người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối
bằng đô la thì không ngừng tăng lên, hiện nay đã đạt số 7 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy
tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư

phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá.
Bảng thống kê tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân hàng Việt
Nam (tính bằng %)

Năm

Tỷ lệ %

1989

28,2

1990

32,4

1991

41,2

1992

30,6

1993

22,9

1994


22,2

1995

21,0

1996

20,3

1997

23,6

1998

24,6

1999

26,1

2000

26,9

2001

31,7


2002

28,4

2003

23,6


Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so với tổng
dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi
đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9 năm
2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát
giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông
tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã
hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần.
Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là số liệu rất khó xác định.Trong một số năm khi lãi
suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la
mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi
ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Công, để kiếm lãi suất cao. Điều
này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước.
Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không còn thu lời được
từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ
USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003.
Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cho các doanh
nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các
ngân hàng cho vay bằng đô la đã chiếm quá nhiều 28%.
Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận
tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy

các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá. Các doanh nghiệp
này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải
đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam mà không có
những công cụ để phòng tránh rủi ro.
Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi đó
các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Nhưng trong thời điểm hiện tại, đang diễn ra tình trạng đồng đô la Nỹ bị sụt giá nhanh chóng. Tỷ
giá hối đoái của đô la với Euro trong 4 năm qua đã sụt giảm 40%, riêng năm 2003 sụt giá 20%,
các nhà quan sát cho rằng đồng đô la Mỹ còn tiếp tục sụt giá với mức độ nghiêm trọng hơn trong
thời gian tới vì các lý do sau: nước Mỹ đang bị thâm hụt ngân sách nặng nề (459 tỷ USD, bằng
3,8% tổng GDP của cả nước); tổng số nợ của Chính phủ Mỹ trong năm tài chính 2004 là 7.586 tỷ
USD (bằng 67,3% GDP cả nước) vượt quá mức báo động quốc tế; thâm hụt cán cân thanh toán
vãng lai năm 2003 tăng vọt lên đến 530,7 tỷ USD; lượng đầu tư nước ngoài vào Mỹ giảm sút
nghiêm trọng, trong năm 2003 giảm 44,9% so với năm 2002. Những vấn đề trên đã trở thành áp
lực lớn làm cho đồng đô la sụt giá. Đồng thời mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với thế giới A rập xấu đi,
làm cho một loạt nước xuất khẩu dầu mỏ Trung Cận Đông đã giảm bớt cất giữ và sử dụng đô la,
mà chuyển qua sử dụng đồng Euro nhiều hơn trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ. Hơn
nữa Liên bang Nga và một số nước khác cũng đã và đang có hành động tương tự. Tất cả những
điều này gây thêm sức ép đối với đồng đô la Mỹ, làm tăng khả năng sụt giá của đồng đô la.
Vấn đề đặt ra là nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục sụt giá mạnh thì những thiệt hại gì sẽ xẩy ra, giả sử


mức sụt giá là 20%, hệ quả tất yếu là thu ngoại tệ về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tính bằng đô
la của tất cả các nước trên thế giới đều bị thiệt hại theo tỷ lệ tương ứng. Ngoài ra, kim ngạch dự
trữ ngoại tệ và lượng vốn FDI của tất cả các nước tính bằng đô la cũng sẽ tự nhiên hao hụt tương
ứng. Vốn liếng kinh doanh, tiền tiết kiệm, tiền lương, quỹ hưu trí, bảo hiểm, phúc lợi xã hội tính
bằng đô la của tất cả mọi người có liên quan đều phải chịu thiệt hại. Ngược lại, các khoản phải trả
về nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chưa thanh toán, các khoản nợ vay nước ngoài bao gồm tiền gốc
và lãi chưa trả tính bằng đô la đều mặc nhiên được giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt giá của đồng
đô la.

Như vậy, việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề vô cùng phức tạp.
Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có một mặt tích cực nào đấy, nhưng
cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình
trạng đô la hoá, tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là
đồng tiền Việt Nam.
Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị đô la hoá, như tại Trung
Quốc, các ngân hàng không được phép quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la.
Thông thường đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là yếu kém, và đồng đô la
được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy nhiên, không phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền
yếu đều bị đô la hoá trực tiếp. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như ở
Trung Quốc, Thái Lan, Braxin... không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng
đô la. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các
loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô
la hoá. Như trên đã phân tích, nếu tình hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ
dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính vào một thời điểm nào đấy, thật là vô cùng nguy hiểm.
5. Một số giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở nước ta
Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm
phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một
sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương trong vấn đề đô la hoá là
rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước,
từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải
pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong
lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của
đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.
Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề cập những chủ
trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu
"Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt
Nam".

Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong
giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống ngân
hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh


tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế
các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực
khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng
đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu
các mặt tiêu cực của đô la hoá. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng
áp dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là:
tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ
hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại
một ngân hàng... Những biện pháp hành chính này qua thực tiến thực hiện đã chứng tỏ là chúng
gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, và
không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, để giữ được những mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:
(1) Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong
dân bằng những biện pháp :
• Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành
phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
• Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến khích sự tham
gia đầu tư của các thành phần kinh tế.
• Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục
đầu tư trong nước.
Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát
hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân.
(2) Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ
• Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng
thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả

thẻ tín dụng quốc tế.
• Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một "rổ"
tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước
trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ
trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt
sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị
trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.
• Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực
tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các dnb trong nước khác vay các ngân
hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với
quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để mở LC thanh toán.
• Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có quy chế rõ
ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào;
không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó


thành sở hữu riêng.
• Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như lãi suất, dự trữ bắt buộc...) để tác động đến điều
kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng
chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không
thay đổi, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động đồng Việt
Nam.
(3) Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Trên đất nước Việt Nam
chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam". Muốn vậy, cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá
nhân như sau:
• Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép,
trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước
cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.
Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ

xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Việc này chỉ thực
hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam.
• Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để
cất giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu.
• Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình
trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông
và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam.
Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền để cần thiết để Việt
Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong
những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy
lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và có
quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá
trên thị trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và
hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước
trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và
xoá bỏ.
(Nguồn: NCKT)

Không thể coi thường tình trạng ''đôla hoá''
05:52' 14/12/2005 (GMT+7)

(VietNamNet) - Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền
của mình. Tình trạng ''đôla hoá'' ở VN không thể coi thường. Những ý kiến này của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) VN, ông Lê Đức Thuý.
Ngày 13/12, Thống đốc Lê Đức Thuý đã có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
Chẳng quốc gia nào muốn có đồng tiền thứ hai


- Ở VN có thể sử dụng ngoại tệ ở bất cứ nơi nào, trong khi nước ngoài không hẳn vậy?
- Theo tôi, nói cho cùng vẫn là lợi ích của người dân - người nhận lẫn người tiêu tiền. Nếu họ thấy giữ ngoại

tệ tiện và lợi hơn nội tệ thì ai cũng giữ. Do đó, phải có nhiều chính sách điều tiết vĩ mô, trên cơ sở đó, dần
dần có những biện pháp hành chính đủ mạnh.
Ở các nước, nếu phát hiện ra việc thu nhận ngoại tệ, họ phạt rất nặng. Các khách sạn dù có nhận ngoại tệ
nhưng họ sẽ không chấp nhận mà đề nghị đổi ra nội tệ. Hoặc quy đổi để thanh toán và khi quy đổi, họ sẽ
lấy phí dịch vụ cao hơn rất nhiều so với ở ta đang đổi tiền hiện nay. Họ đạt được vì đã có dịch vụ tiền tệ
hoàn chỉnh và năng lực quản lý tốt!
- Việc sử dụng ngoại tệ một cách phổ biến là có lợi hay hại, thưa ông?
- Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của mình, thậm chí có
khi còn lấn lướt. Có nghĩa là anh không đủ hiệu lực trong thực thi chính sách tiền tệ. Vì thế, phải tìm cách
kiểm soát và loại trừ dần. Tuy nhiên, phải có chính sách, biện pháp một cách khôn ngoan, không thể dùng
sự nhiệt tình được!
- Vừa qua một số ngân hàng thương mại như Ngân hàng NN&PTNT kinh doanh ngoại tệ và đã thua lỗ hàng
chục triệu USD. Tình trạng này nói lên điều gì?
- Tôi không nói một vụ việc cụ thể! Nhưng kinh doanh bao giờ cũng có rủi ro, kinh doanh ngoại tệ càng dễ
rủi ro bởi đánh giá được biến động của tỷ giá các đồng tiền trên thị trường quốc tế tính bằng phút. Chỉ cần
tín toán sai là lỗ.
Đối với từng tổ chức, anh quản lý thể nào để hạn chế những rủi ro đó, chia sẻ bớt rủi ro, đừng có thấy đồng
tiền có vẻ lên giá mạnh là đổ xô, ném cả số trứng vào một rổ. Vấn đề là phải biết điểm dừng. Nếu anh
không kiểm soát tốt, để người thi hành vi phạm, anh sẽ phải trả giá đắt!
Giao dịch vãng lai: Cấm lắm thì chạy ngoài ngân hàng
- Một số tổ chức quốc tế đánh giá tình trạng ''đô la hoá'' ở Việt Nam rất nặng nề?
- Tổ chức quốc tế đánh giá, tình trạng “đô la hóa” ở VN vào mức trung bình trong số các nước đang phát
triển. Thứ hai, nếu so với lịch sử, việc giảm “đô la hóa” ở VN biến chuyển khá nhanh.
Ngoại tệ được thu hút vào ngân hàng chính là một biểu hiện của việc giảm “đôla hóa” trong nền kinh tế.
Năm 1995 chỉ có khoảng 1,5 tỷ USD tiền gửi từ khu vực dân cư và tổ chức kinh tế, hiện nay con số này
khoảng 8 tỷ USD.
Việc người dân giữ ngoại tệ mặt trong túi ít hơn thể hiện lòng tin đối với ngân hàng.
- Điều đó có nghĩa chúng ta chưa phải lo lắng tìm cách giải quyết tình trạng này?
- Không hẳn vậy, tình trạng ''đôla hoá'' vẫn còn nặng nề và không thể coi thường! Chính phủ đã giao cho
Ngân hàng Nhà nước (HNNN) xây dự đề án chống “đô la hóa”. Ở đây không ít người nói đến biện pháp

kiểm soát hành chính, cấm đoán chỗ này, chỗ kia.
Theo tôi biện pháp này hiệu quả thấp! Chống “đô la hóa” phải là những biện pháp mang tính kinh tế. Một là,
tỷ giá hối đoái tương đối ổn định - người dân sẽ ít lo sự mất giá của đồng tiền mà giữ đồng tiền nào có giá
hơn. Ngoài ra, lãi suất phải hợp lý để tránh sự chuyển dịch từ đồng tiền này sang tiền kia.
Thêm vào đó, có những điều cấm đoán không đúng thì cho là ''đôla hoá''. Ví dụ như tự do hoá các giao dịch
vãng lai (hiện nay đã cho phép - PV). Người dân có quyền dùng ngoại tệ khi cần thiết cho đời sống! Anh


cấm lắm thì nó chạy ngoài ngân hàng!
Mua ngoại tệ của dân: Ngân hàng muốn mà không được!
- Hiện nay, mua bán đôla tự do rất công khai, thậm chí một hiệu vàng ở Hà Nội có thể huy động được hàng
triệu đôla?
- Các quầy thu đổi chính thức không kiếm chác được bao nhiêu, vì vậy ngoài làm theo nghĩa vụ, họ làm
theo kiểu thỏa thuận với nhau. Họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không được đổi, bán cho những
người lẽ ra không được bán.
Cho nên tổ chức tín dụng phải huy động được ngoại tệ mặt vào nhiều hơn, cạnh tranh với đổi đôla tự do.
Phải thực hiện đầy đủ hơn sự tự do hóa các dịch vụ vãng lai để người dân có nhu cầu chính đáng có thể
tiếp cận ngoại tệ một cách hợp pháp, để giảm bớt hoạt động của thị trường không chính thức.
Nhưng hiện nay, vấn đề khó ở chính sách tỷ giá hối đoái. Chúng ta vẫn còn khống chế tỷ giá chính thức,
kiểm soát khá chặt cho nên ngân hàng muốn mua ngoại tệ của dân cũng không mua được!
Đứng về mặt quản lý ngoại hối, vẫn luôn có sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá thực tế. Vấn đề
là ít nhất tìm ra được khoảng rộng đủ linh hoạt để người mua, người bán tìm đến nhau dễ dàng.
NHNN sẽ nới lỏng khống chế tỷ giá
- Vậy tại sao NHNN không nới lỏng tỷ giá chính thức?
- Nếu nới lỏng hơn nữa những kiểm soát về tỷ giá chính thức thì còn phải quan tâm đến những biến động
khác trong khi nền kinh tế chưa thực sự ổn định vững chắc, nhất là lạm phát. Do đó, vừa qua, NHNN mới
chỉ dám nới biên độ giao dịch trong phạm vi 0,25% so với tỷ giá giao dịch ngày hôm trước.
Ở các nước, họ không khống chế điều này, biến động có thể tới 1-2% nhưng không gây lên xáo động trong
tâm tư người dân. Nhưng nếu chúng ta tùy tiện nới lỏng, chỉ mới biến động 50 đồng (so với 15.000-16.000
đồng/đôla) chưa là gì cả nhưng sẽ lập tức có xáo trộn!

Vì vậy, hiện giờ biến động hàng ngày ở thị trường chính thức chỉ có 5-7 đồng, còn ở bên ngoài thị trường tự
do lại khác. Chính vì thế, người dân tìm đến những dịch vụ đổi tiền không chính thức để có thể được lợi
hơn. Làm sao phá được ranh giới giữa hai thị trường mới là mục tiêu của sự kiểm soát. Trên cơ sở đó mới
phát triển được dịch vụ thu đổi ngoại tệ.
- Đến bao giờ chúng ta mới nới lỏng tỷ giá chính thức để phá ranh giới này?
- Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng biên độ thực hiện 0,25% của ta hiện nay vẫn là quá chặt, nên nới lỏng
ra. Nhưng trước mắt chưa đặt vấn đề này ra vì nới lỏng sẽ có những tác động tâm lý bất lợi. Còn trong
tương lai, NHNN sẽ nới lỏng!

Các giải pháp chống Đôla hóa
TS. NGUYỄN ĐẠI LAI
18/07/2008 12:16 (GMT+7)

Phản hồi (1) | In bài viết này | [+] Cỡ chữ [-]
Từ năm 2000 đến nay, cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu
được công bố theo tín hiệu thị trường.


Đó là việc lấy mức tỷ giá bình quân hình thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại
thời điểm đóng cửa ngày làm việc hôm trước để công bố cho ngày mở cửa hôm sau và
"cộng, trừ" một biên độ hẹp cho các ngân hàng thương mại kinh doanh.
Tuy nhiên, do nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua phát triển khá ổn định, nên cơ bản
tỷ giá VND/USD "được neo" tự nhiên và ổn định vào đồng USD là đồng tiền chiếm 90%
doanh số thanh toán xuất - nhập khẩu.
"Vũ điệu" tỷ giá sụt - trồi - đứng - tăng mạnh
Riêng năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân
hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá
chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp
tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do.
Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở

lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200 đồng/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu
tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh
lên trên 19.500 đồng/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về
trạng thái bình thường xung quanh 16.800 đồng/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn.
Nội hàm của sự bất ổn này nếu loại trừ những nhân tố khách quan tác động từ nước
ngoài, thì có 3 nguyên nhân chính từ phía chính sách quản lý ngoại hối còn lỏng lẻo.
Thứ nhất, do tình trạng Đô la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn khá phổ biến
trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và
chức năng tín dụng qua ngân hàng thương mại... đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu
cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ.
Thứ hai, nhập siêu 6 tháng đầu năm 2008 đã lên tới trên 14 tỷ USD (chủ yếu rơi vào 4
tháng đầu năm), cao kỷ lục từ trước đến nay.
Thứ ba, không ngoại trừ có một lượng nội tệ nằm tại các quĩ đầu tư và tại các quĩ tiền mặt
của các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam đã mua vào khá nhiều
Đôla để chuyển đổi tiền tệ, tạo tâm lý bất ổn để đầu cơ tiền tệ ngay trên thị trường tiền tệ
Việt Nam cùng với những hành vi vi phạm của một số đại lý thu đổi ngoại tệ cho các
ngân hàng thương mại đã tự ý găm ngoại tệ để đầu cơ không bán lại cho ngân hàng theo
cam kết...
Ngoài ra còn một số lý do gián tiếp khác là các tín hiệu phát ra từ nền kinh tế đầu tầu thế
giới là Mỹ rất biến động.
Đề xuất giải pháp quản lý ngoại hối
Vì vậy, về giải pháp chính sách về quản lý ngoại hối nói chung và về điều hành tỷ giá nói
riêng, xin đề xuất như sau:


Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập
khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị
trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị
trường ngoại hối phán quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết
các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế.

Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước
Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia
tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới
gặp phải.
Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt
là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh
toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ.
Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đã có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD,
biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng
với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong
lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm.
Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên
ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các
nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng,
khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối
thanh toán bằng nội tệ!
Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng
với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm
theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển
mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc
những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ
tiêu VND".
Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi
vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh
thổ Việt Nam.
Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để
làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ
ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương.
Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng
rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động

đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc
tế thực của Việt Nam.


* Tác giả bài viết là Phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nước.

Lên phương án tổng thể chống tình trạng đô la hoá
09:36' 09/07/2007 (GMT+7)

(VietNamNet) - Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa ký ban hành Quyết định số
98/2007/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc
phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế".
Đề án đã quy định cụ thể từng nhiệm vụ đối với mỗi bộ ngành liên quan cần thực hiện theo tiến
độ thời gian ấn định nhằm đến 2010 khi hoàn thành sẽ nâng cao được tính chuyển đổi của đồng
tiền Việt Nam (VND) và khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Qua đó, sẽ nâng cao
tính liên kết kinh tế trong nước với quốc tế, hỗ trợ và thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đồng thời, giảm
hiện tượng đô la hóa, nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ và tỷ giá.
Theo đó, đến 2010 sẽ thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND ở trong nước tạo cơ sở để nâng
cao tính chuyển đổi quốc tế của VND trong tương lai. Cụ thể là sẽ tự do hoá hoàn toàn giao dịch
vãng lai, xây dựng cơ chế để VND tham gia xuất khẩu. Đồng thời thu hẹp và tiến tới xoá bỏ niêm
yết, định giá, thanh toán và kinh doanh ngoại tệ trái phép. Tìm cách thu hút ngoại tệ trôi nổi vào
hệ thông ngân hàng.
Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng chính sách lãi
suất chủ đạo để định hướng chính sách lãi suất thị trường. Chú trọng đến việc phối hợp giữa
chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa nắm giữ VND và ngoại
tệ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt để đẩy mạnh xuất
khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Đổi mới chính sách ngoại hối theo hướng tự do hơn trong

giao dịch vốn và giao dịch vãng lai như: Thực hiện tự do hoá giao dịch vãng lai; xoá bỏ giấy phép
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân và tổ chức tín dụng; nâng dần tỷ lệ huy động VND
của ngân hàng nước ngoài. Thực hiện các biện pháp thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân
hàng. Tăng dự trữ ngoại hối. Đồng thời thực hiện các biện pháp tăng cường sự thuận lợi khi sử
dụng đồng Việt Nam…
Đặc biệt, theo các giải pháp thực hiện đề án này, Ngân hàng Nhà nước sẽ lần lượt xoá bỏ nhiều
loại giấy phép trong quản lý và kinh doanh ngoại tệ cũng như một số quy định hạn chế về sử
dụng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân.
Cùng với Ngân hàng Nhà nước, hàng loạt giải pháp khác cũng sẽ được tiến hành đồng bộ bởi
các bộ ngành khác. Bộ Tài chính được giao tập trung phát triển thị trường vốn bằng VND. Bộ
Thương mai sẽ phải tìm cách để tạo điều kiện để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu. Bộ
Kế hoạch - Đầu tư sẽ xem xét việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp
vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xóa bỏ các quy định về cân đối ngoại tệ đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đánh giá về thực chất tình trạng đô la hoá và khả năng chuyển đổi của VND, Ngân hàng Nhà
nước nhận định, mặc dù tính chuyển đổi trong nước của đồng tiền Việt Nam đã tăng lên rất nhiều
so với trước đây, tuy nhiên, vị thế VND chưa cao chưa được thị trường tin tưởng và ưa thích,
VND hầu như "chưa có khả năng chuyển đổi ở nước ngoài".
Trong khi đó, vấn đề đô la hoá trong nền kinh tế được đánh giá là "khá trầm trọng". Hậu quả dễ
nhận thấy nhất là khối lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân cư không kiểm soát được, gây ra hiện
tượng thanh toán, định giá và kinh doanh ngoại tệ trái phép.

************************



×