Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT GAN TRONG UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN K

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.04 KB, 10 trang )

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT GAN TRONG UNG THƯ BIỂU MÔ
TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN K
Lê Văn Thành*, Nguyễn Đại Bình**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tai biến, biến chứng trong phẫu thuật cắt gan, thời gian sống
thêm sau phẫu thuật và một số yếu tố ảnh hưởng tới thời gian sống thêm sau phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả 66 bệnh nhân
UTBMTBG được phẫu thuật cắt gan từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 9 năm 2009.
Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình 49,8; tỷ lệ nam/nữ là 5,5/1; BN có HBsAg
dương tính là 62,1%, 72,7% BN có kích thước u từ 4 - 10 cm; 50% bn có AFP > 500
ng/ml; tỷ lệ tử vong là 1,5%; tỷ lệ biến chứng sau mổ 10,5%. Tỷ lệ sống thêm 1 năm, 2
năm sau phẫu thuật là 75,4% và 60,7%. Tuổi, kháng nguyên bề mặt HBsAg, mức AFP
chưa thấy có ảnh hưởng tới thời gian sống thêm. Độ xơ gan và giai đoạn bệnh là các yếu
tố có ảnh hưởng tới thời gian sống thêm.
Kết luận: Điều trị UTBMTBG bằng phẫu thuật cắt gan có hiệu quả rõ rệt, tuy nhiên
việc lựa chọn bệnh nhân, làm bilan trước mổ có vai trò quyết định đến tỷ lệ tử vong và
biến chứng cũng như thời gian sống thêm sau mổ.
Từ khóa: Phẫu thuật cắt gan, ung thư biểu mô tế bào gan.
ABSTRACT
ASSESSMENT OF SURGICAL RESULTS IN HEPATOCELLULAR CARCINOMA
IN K HOSPITAL
Le Van Thanh, Nguyen Dai Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh – Vol.14 - Supplement of No 4 – 2010: 217 - 222
Objective: Assessment of complications of liver surgery, survival time after surgery
and factors affect the survival time after surgery.
Target group and study method: The study use descriptive study in 66 patients with
Hepatocellular Carcinoma were operated from January 2005 to September 2009
Study results: The average age is 49.8, the rate of male/female is 5.5/1; the patients
who have positive HBsAg is 62.1%, 72.7% patients have 4 to 10 cm tumour; 50%
patients have AFP > 500 ng/ml; mortality is 1.5%, rate of complications after surgery is
10.5%. The rate of 1 or 2 years survival time after surgery is 75.4% and 60.7%. It wasn’t


show about affections of age, surface antigen HBsAg, AFP level to survival time. The
stage of cirrhosis and stage of disease are the factors that affect survival time.
Conclusion: Surgery for Hepatocellular Carcinoma patients is remarkably effective,
with mortality and side effects are acceptable, however the selection of patients before
surgery affects mortality, side effects and survival time.
Key words: Liver surgery, hepatocellular carcinoma.


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) chiếm đa số trong ung thư gan nguyên phát,
hay gặp ở nước ta (15,19). Tỷ lệ mắc cao, đứng thứ 3 ở nam. Năm 2000,tỷ lệ mắc
UTBMTBG chuẩn theo tuổi là 22,6/100.000 nam. Đây là bệnh lý rất ác tính, bệnh nhân
(BN) không điều trị thường tử vong từ 3 - 6 tháng kể từ khi có triệu chứng đầu tiên (19,22).
Có nhiều phương pháp điều trị UTBMTBG, nhưng phẫu thuật (PT) cắt gan được lựa
chọn hàng đầu khi còn chỉ định. Phẫu thuật triệt căn có diện cắt sạch u mang lại khả năng
khỏi bệnh và sống thêm lâu dài cho BN (2,7,26). Tuy nhiên phẫu thuật cắt gan là can thiệp
nặng vì vậy cần phải có sự lựa chọn BN, kíp mổ và kíp gây mê hồi sức có kinh nghiệm.
Tại khoa ngoại Tam hiệp Bệnh viện K, từ 6/2004 đến 9/2009 có 66 BN UTBMTBG được
cắt gan triệt căn. Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá tai biến, biến chứng của
PT cắt gan, thời gian sống thêm sau PT và một số yếu tố ảnh hưởng tới thời gian sống
thêm sau PT.
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
66 BN UTBMTBG được PT cắt gan tại khoa ngoại Tam hiệp Bệnh viện K từ 6/2004
đến 9/2009.
Tiêu chuẩn lựa chọn: BN có mô bệnh học trước hoặc sau mổ là UTBMTBG, có hồ sơ
bệnh án đầy đủ, không có ung thư thứ 2, chưa được điều trị trước đó, không có chống chỉ
định PT.
Tiêu chuẩn loại trừ: BN ung thư gan nhưng không phải UTBMTBG, BN bị mất hồ
sơ, có ungn thư khác kèm theo, đã được điều trị trước đó, có chống chỉ định PT.

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc.
Nội dung:
+ Thu thập thông tin lâm sàng, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, chẩn đoán độ xơ
gan, chỉ định PT, giai đoạn bệnh, phân loại cắt gan
+ Kết quả sớm sau mổ (tai biến và biến chứng), thời gian sống thêm 2 năm, phân
tích một số yếu tố ảnh hưởng tới sống thêm 2 năm.
Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 16.0


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi trung bình 49,8; trẻ nhất 20 tuổi; già nhất 80 tuổi. Tuổi hay gặp nhất 40 –
60. Nam 56 (84,8%); nữ 10 (15,2%); tỷ lệ nam/nữ là 5,5/1.
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo CĐHA, xét nghiệm, độ xơ gan và giai đoạn bệnh
Biểu hiện
Vị trí u: Gan phải
Gan trái
Số lượng u: 1 u
2u
Kích thước u (cm): ≤ 6
>6
Nồng độ AFP: Bình thường: < 20
Tăng: 20-200
200-500
> 500
HBsAg: Âm tính
Dương tính
Độ xơ gan: Child-Pugh A
Child-Pugh Bl
Giai đoạn bệnh: I

II
III

Số BN

Tỷ lệ %

43
23
62
4
39
27
21
7
5
33
25
41
47
19
0
27
39

65,2
34,8
93,9
6,1
59,1

40,9
31,8
10,6
7,6
50,0
37,9
62,1
71,2
28,8
0,0
40,9
59,1

Bảng 2. Phân loại cách thức phẫu thuật
Cách thức phẫu thuật

Số BN Tỷ lệ %

Cắt thùy gan trái

19

28,8

Cắt 1 hạ phân thùy

17

25,8


Cắt 2 hạ phân thùy

15

22,7

Cắt u gan

15

22,7

66

100,0

Tổng số


Bảng 3. Tử vong và biến chứng
Tai biến và biến chứng phẫu thuật

Trong mổ

Số BN

Tỷ lệ %

Tử vong


0

0,0

Không tai biến

65

98,5

Rách đường mật

0

0,0

Rách tĩnh mạch chủ dưới

0

0,0

Rách cơ hoành

1

1,5

66


100%

Tử vong

1

1,5

Không biến chứng

59

89,5

Chảy máu

1

1,5

Rò mật

0

0,0

Áp xe dưới hoành

0


0,0

Tràn dịch màng phổi

1

1,5

Dịch cổ trướng

2

3,0

Nhiễm trùng vêt mổ

2

3,0

66

100%

Tổng

Sau mổ

Tổng


Bảng 4. Sống thêm sau 1 năm, 2 năm
Thời gian Số BN Tỷ lệ % sống thêm
Sau 1 năm

53

75,4

Sau 2 năm

48

60,7


Biểu đồ 1. Thời gian sống thêm 2 năm toàn bộ

Bảng 5. Phân tích thời gian sống thêm 2 năm theo một số yếu tố
Yếu tố
Tuổi

Số BN

Tỷ lệ % sống thêm 2 năm

≤ 50

35

61,6


> 50

31

61,7

Test Log Rank; p= 0,786 >0,05
Kích thước u
(cm)

≤6

39

68,6

>6

27

48,0

Test Log Rank; p= 0,33 >0,05
HBsAg

Âm tính

25


75,0

Dương tính

41

52,9

Test Log Rank; p= 0,149 >0,05
AFP (ng/ml)

< 20

21

72,7

≥ 20

45

57,0

Test Log Rank; p= 0,280 >0,05


Độ xơ gan

Child-Pugh A


47

69,9

Child-Pugh B

19

40,3

Test Log Rank; p= 0,005 < 0,05
Giai đoạn bệnh

II

27

78,0

III

39

48,2

Test Log Rank; p= 0,046 < 0,05
BÀN LUẬN
Cả 66 BN chúng tôi đều cắt gan theo phương pháp Tôn Thất Tùng, nhưng không ga
rô cuống gan như phương pháp Tôn Thất Tùng kinh điển. Một kíp mổ thuần thục, cắt gan
qua nhu mô gan phối hợp ép kiểm soát chảy máu diện cắt đây là một tiến bộ lớn, sau khi

cắt gan, phần nhu mô gan còn lại không bị hoại tử, chức năng gan ổn định. Buộc cầm
máu tinh tế các mạch máu và đường mật tại diện cắt. Đặc biệt, kiểm soát diện cắt sạch
ung thư là vô cùng quan trọng nhằm tránh tái phát sớm tại chỗ. Những vị trí tiếp cận u được
kiểm tra diện cắt bằng sinh thiết tức thì, nếu chưa sạch tế bào ung thư thì cắt lại cho sạch.
Theo Dancey (1999), thủ thuật khống chế cuống mạch trong cắt gan thực sự hiệu quả và
không gây trở ngại cho quá trình cắt gan cũng như điều trị sau mổ qua một nghiên cứu so
sanh đối chứng 34 BN được cặp cuống mạch trước khi cắt gan với 18 BN không được cặp
cuống gan tạm thời(4). Theo Farid H (1994), sử dụng thủ thuật kẹp mạch máu cuống gan từng
đợt 10 phút rồi thả ra 10 phút, đã bảo vệ được chức năng gan, tuy nó chỉ gây mất máu trong
mỗi đợt thả kẹp mà thôi(8). Nghiên cứu của Torzilli G. (2001), lại cho rằng nên hạn chế sử
dụng thủ thuật cặp cuống gan tạm thời để cắt gan mà phẫu thuật vẫn tiến hành an toàn và
hiệu quả, thậm chí khối u gan có liên quan tới ngã ba đường mật(21).
Về tỷ lệ tử vong, bảng 3 cho thấy không có trường hợp nào tử vong trong mổ, 01
trường hợp tử vong sau mổ (trong thời gian hậu phẫu), như vậy tổng tỷ lệ tử vong của
chúng tôi là 1,5%. Tỷ lệ này thấp hơn của Vân Tần 4,09% và của Đào Thành Chương
6,1% nhưng cao hơn của Đoàn Hữu Nam 0,47% (5,24). Tử vong theo Tôn Thất Tùng trước
năm 1970 là 15% sau năm 1970 là 3,4%. So với các nghiên cứu gần đây của các tác giả
nước ngoài thì tỷ lệ tử vong sau mổ của chúng tôi là tương đương. Theo các tác giả Mỹ
thì tỷ lệ tử vong là 3% giai đoạn 1991 - 1998 (4), của Nhật Bản là 2,9% từ 1990 đến
1992(12) và từ 2,3 giảm xuống còn 0% giai đoạn 1994 - 1999 (6), của tác giả Pháp là 0%
giai đoạn 1992 - 1999(1).
Ghi nhận của chúng tôi từ hồ sơ tử vong cho thấy trường hợp tử vong là BN
UTBMTBG có HBsAg dương tính, xếp loại xơ gan Child – Pugh B, u khá lớn (kích
thước trên CT Scan là 11 cm) ở hạ phân thùy V, VI. Sau mổ ngày thứ 2 BN có dấu hiệu
hôn mê gan, xét nghiệm SGOT và SGPT tăng rất cao gấp nhiều lần trước mổ (SGOT:
1348u/l; SGPT: 2104 u/l) và đặc biệt hơn là HBeAg dương tính. Đây là bệnh cảnh một
suy gan cấp trên nền một viêm gan tiến triển. Theo Văn Tần thì viêm gan tiến triển là một
trong những nguyên nhân gây suy gan sau mổ(24).



Trong nghiên cứu theo dõi 613 BN UTBMTBG sau mổ của Okuda K.(1984), thì
nguyên nhân gây tử vong tới 45% là do suy chức năng gan (18). Miyagawa S. (1994) cũng
có nhận xét tương tự(13). Các tác giả đều thấy suy gan gây tử vong hếu hết liên quan tới xơ
gan(4,9,10,14). Tai biến trong mổ chúng tôi gặp 01 trường hợp rách cơ hoành, màng phổi
chiếm 1,5% (do quá trình phẫu tích hạ gan phải), không gặp trường hợp nào rách đường
mật và rách tĩnh mạch chủ dưới (Bảng 3). Trường hợp rách cơ hoành được xử trí tốt ngay
trong mổ, hậu phẫu ổn định. Tai biến trong mổ của Đào Thành Chương gặp 7,2%, trong
đó rách cơ hoành gặp 3,8%(5).
Ngoại trừ 01 trường hợp tử vong sau mổ được xác định là biến chứng suy gan sau
mổ, chúng tôi gặp 01 trường hợp chảy máu sau mổ (1,5%); 01 trường hợp tràn dịch màng
phổi (1,5%); 02 trường hợp có dịch cổ chướng (3,0%), 02 trường hợp nhiễm trùng vết mổ
(3,0%). Chúng tôi không gặp trường hợp nào rò mật hay áp xe dưới hoành (Bảng 3). Như
vậy tỷ lệ biến chứng sau mổ của chúng tôi là 10,5% cao hơn tỷ lệ biến chứng của Đoàn
HữuNam (4,9%), Văn Tần (6,82%)(6,26).
Đánh giá kết quả sống thêm bằng phương pháp Kaplan-Meier. Ở bảng 4 cho thấy tỷ
lệ sống thêm 1 năm, 2 năm tương ứng là 75,4% và 60,7%. Tỷ lệ này so với các tác giả
trong nước là khá cao. Tỷ lệ sống thêm 1 năm, 2 năm tương ứng của Đào Thành Chương
là 44,7% và 22,8%, của Lê Lộc là 43,8% và 18,6% (5,11). Văn Tần(25) có tỷ lệ sống thêm 1 –
3 năm là 30%. Thực tế rất khó so sánh kết quả giữa các nghiên cứu vì tỷ lệ phân bố giai
đoạn bệnh, tỷ lệ phân bố mức độ xơ gan... giữa các nghiên cứu là khác nhau. Sở dĩ kết
quả của chúng tôi tốt hơn có lẽ do có sự lựa chọn BN tốt, chỉ định mổ hợp lý. Việc đánh
giá chính xác mức độ xơ gan, giai đoạn bệnh, khả năng cắt bỏ khối u, đánh giá các nguy
cơ trong mổ cũng như sau mổ trước phẫu thuật là hết sức quan trọng.
Trịnh Hồng Sơn (2001) thấy tỷ lệ sống thêm của BN UTGNP tại bệnh viện Việt –
Đức rất thấp, cụ thể là 23 tháng với 9,4%, sau khi phân tích tìm hiểu các yếu tố ảnh
hưởng kết quả phẫu thuật tác giả đã nhấn mạnh việc chỉ định phẫu thuật phải xem xét
một cách kỹ lưỡng, có nghĩa là từ khâu chẩn đoán đến điều trị, theo dõi BN cần có phác
đồ cụ thể trong hoàn cảnh hiện có: Quy định Bilan trước mổ, các tiêu chuẩn bắt buộc siêu
âm cần phải nêu khi khám u gan, cách ghi biên bản phẫu thuật, đánh giá phân loại theo
Child – Pugh hoặc phân loại theo AJCC, theo Okuda, phân độ Fibrose gan theo

Krodell(23).
Nguyễn Đại Bình (2008) khi theo dõi 19 BN được phẫu thuật cắt gan trừ căn thấy tỷ
lệ sống thêm 2 năm lên tới 81,7%, đồng thời tác giả cho rằng sự lựa chọn tốt BN, kiểm
tra diện cắt sạch u là hết sức quan trọng(16).
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật cũng như thời gian sống thêm sau
phẫu thuật như: Tuổi, giới, kích thước u, số lượng u, kháng nguyên viêm gan B, mức
AFP, độ xơ gan, loại vi thể, giai đoạn bệnh… đã được nghiên cứu. Trong nghiên cứu này
chúng tôi đã phân tích đơn biến một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm.
+ Tuổi: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với các lứa tuổi dưới và trên 50
tuổi với p = 0,786, tỷ lệ sống thêm 2 năm của 2 nhóm này là 61,6% và 61,7%. Đào Thành
Chương cũng có nhận xết tương tự (5). Theo Cosenza C.A (1995), tuổi càng cao sẽ làm


tăng tỷ lệ tử vong và biến chứng trong, sau mổ, nhưng khi so sánh thời gian sống thêm
sau mổ của 2 nhóm tuổi trên và dưới 60 khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,48)(3).
+ Kích thước u: Tỷ lệ sống thêm 2 năm của nhóm có kích thước u ≤ 6 cm (68,6%)
cao hơn nhóm có kích thước u < 6 cm (48,0%), nhưng sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống
kê với p= 0,33. Theo Yamamoto (2001) thì những BN UTBMTBG có kích thước u ≤ 3
cm có tỷ lệ sống thêm vượt trội so với những BN có kích thước u > 3 cm (27). Trong nghiên
cứu của chúng tôi rất ít BN có kích thước u ≤ 3 cm.
+ Kháng nguyên bề mặt viêm gan B: Tỷ lệ sống thêm 2 năm của nhóm BN có
HBsAg âm tính (75,0%) cao hơn nhóm BN có HBsAg dương tính (52,9%), nhưng sự
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p= 0,149.
+ Mức AFP: 21 BN có mức AFP < 20ng/ml với tỷ lệ sống thêm 2 năm là 72,7%, 45
BN có mức AFP ≥ 20 ng/ml với tỷ lệ sống thêm 2 năm là 57,0%. Sự khác biệt này cũng
chưa có ý nghĩa thống kê với p= 0,28.
+ Độ xơ gan: 47 BN xơ gan Child-Pugh A với tỷ lệ sống thêm 2 năm là 69,9%, 19
BN xơ gan Child-Pugh B với tỷ lệ sống thêm 2 năm là 40,3%. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p= 0,005. Rõ ràng mức độ xơ gan có ảnh hưởng tới thời gian sống thêm sau
mổ của BN UTBMTBG. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều nhận xét tương

tự(3,5,14,15,20,23).
+ Giai đoạn bệnh: Chúng tôi có 27 BN ở giai đoạn II, với tỷ lệ sống thêm 2 năm là
78,0%, 39 BN ở giai đoạn III với tỷ lệ sống thêm là 48,2%, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p= 0,046. Theo Okuda K. (1986), thời gian sống thêm của 115 BN giai đoạn I
được cắt gan với 42 BN giai đoạn II thấy khác nhau có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
KẾT LUẬN
Điều trị UTBMTBG bằng phẫu thuật cắt gan có hiệu quả rõ rệt, tuy nhiên việc lựa
chọn bệnh nhân, làm bilan trước mổ có vai trò quyết định đến tỷ lệ tử vong và biến chứng
cũng như thời gian sống thêm sau mổ. Tuổi, kích thước u, kháng nguyên bề mặt HBsAg,
AFP chưa thấy ảnh hưởng tới thời gian sống thêm. Mức độ xơ gan và giai đoạn bệnh ảnh
hưởng tới thời gian sống thêm sau mổ.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Benhamou J.P , Erlinger S. (2000), Cirrhoses, pp 89-93, Tumeurs mailingnes du
foice, pp94-99.

2.

Chen XP, Qui FZ, Wu ZD et al (1999), “ Hepatectomy for huge hepatocellular
carcinoma in 643 cases Swiss Surery, 3/1999.

3.

Cosenza C.A, Hoffman A.L, Podesta L.G et al (1995), “Hepatic Resection for
Malignacy in the Elderly”, Ann.Surg, 61, pp 889-895.

4.


Dancey J.E, Shepherd F.A (1999), “Carcinoma of the Liver”, Current therapy in
Cancer, 12, pp 81-89.

5.

Đào Thành Chương (2002), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết
quả sơm của điều trị phẫu thuật ung thư gan nguyên phát tại BV Việt-Đức từ 19912000”, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Y học Trường Đại học Y Hà Nội.

6.

Đoàn Hữu Nam, Phạm Hùng Cường, Phó Đức Mẫn và cộng sự (2005), “Phẫu
trị Ung thư gan nguyên phát tại BV Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh”, Hội nghị ngoại
khoa toàn quốc lần thứ 12, Ngoại khoa, (6), trang 94-100.

7.

Fans ST, Nghio L, Poon R et al (1999), “ Hepatectomy for hepatocellular
carcinoma: The surgeon’s role in long-team survival. Annual Meeting of the Surgical
infection Society No.19, Seattle, Wash, ETATS-UNIS (29/04/1999), vol 134, no.10,
pp 1033-1060, pp 1124-1130.

8.

Farid H, O ‘Concell T (1994), “Hepatic Resection: Changing mortality and
morbidity”, Ann.Surg, 60, pp 748-752.

9.

Farmer D.G, Seu P, Swenson K et al (1997), “Current treatment modalities for

the hepatocellular carcinoma”, Clinic in Liver disease, 1, (2), pp 1-22.

10.

Ganem D (1996), “Hepatitis B virus replication and primary hepatocellular
carcinoma: Recent advances and new horizons”, Recent Advances in Hepatology, pp
55-72.

11.

Lê Lộc, Phạm Như Hiệp, Đặng Ngọc Hùng (2002), “Điều trị Ung thư gan
nguyên phát tại BV TƯ Huế”, Y học thực hành (1), trang 91-94

12.

Meyer C.W (1992), “ Annatomy and Physiology of the Liver”, Textbook of
surgery, Sabition, pp 976-989.

13.

Miyagawa S, Makuchi M, Kawasaki D et al (1995), “Criteria for safe Heptic
Resection”, ann.surg, pp 589-594.

14.

Nagasue N, Uchida M, Makino Y (1993), “Incidence and factors associated with
intrahepatic recurrence following resection of hepatocellular carcinoma.
Gastroenterology. 1993 Aug, 105(2), pp488-94.



15.

Nguyễn Đại Bình (1997), “Ung thư gan nguyên phát”, Bài giảng Ung thư học,
Nhà xuất bản Y học Hà Nội, trang 205-209.

16.

Nguyễn Đại Bình, Phạm Duy Hiển, Hoàng Tuấn Anh (2008), “Kết quả sống
thêm 2 năm sau phẫu thuật và tiêm Ethanol tuyệt đối Ung thư biểu mô tế bào gan tại
BV K”, Tạp chí Ung thư học, Hội thảo phòng chống Ung thư Quốc Gia, Hà Nội 2008,
(1), trang 198-202.

17.

Okuda K (1986), “Early recognitrion of heptocellular carinoma”, Hepatology
1986, 6, pp 729-738.

18.

Okuda K, Peter R.L, Simson J.W (1984), “Gross Anatomic features of the
hepatocellular carcinoma from three disparate geographic areas, proposal of the New
Classcification”, Cancer, 54, (10), pp 2164-2173.

19.

Tôn Thất Bách (1999), “Ung thư gan nguyên phát”, Bệnh học ngoại khoa, Nhà
xuất bản Y học Hà Nội, tập 1 trang 186-196.

20.


Tôn Thất Tùng (1971), “Cắt gan”, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội,
trang 15-21.

21.

Torzili G, Makuchi M, Midorikawa Y (2001), Liver resection without total
vascular excusion: Hazadous or Beneficial ?” Ann.Surg, 233, (2), pp 167-175.

22.

Trịnh Hồng Sơn, Lê Tư Hoàng, Nguyễn Quang Nghĩa và cộng sự (1998), “Theo
dõi 197 trường hợp Ung thư tế bào gan nguyên phát, không mổ, được nhập viện và
chẩn đoán taỊ bv Việt-Đức giai đoạn 1992-1996, Y học thực hành, (9), trang 2-6.

23.

Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Quang Nghĩa, Đỗ Đức Vân (2001), “Kết quả điều trị
phẫu thuật Ung thư gan nguyên phát tại BV Việt-Đức giai đoạn 1992-1996”, Y học
thực hành, (7), trang 42-46.

24.

Văn Tần (2006), “Ung thư gan nguyên phát”, Nhà xuất bản Y Học, trang 348-381.

25.

Văn Tần, Hoàng Danh Tấn (2000), “ Kết quả phẫu thuật Ung thư gan nguyên
phát từ 1/1991-12/1999”, Toàn văn báo cáo tổng kết nghiên cứu khoa học và cải tiến
kỹ thuật 10 năm tại BV Bình Dân, trang 56-70.


26.

Văn Tần, Nguyễn Cao Cương (2008), “Kết quả điều trị ung thư gan nguyên
phát”, Tạp chí gan mật số 3 năm 2008, trang 42-50.

27.

Yamamoto J, Okada S, Shimada K et al (2001), “Treament strategy for small
hepatocellular carcinoma: com-parison of long-team result after percutaneous
ethanol injection therapy and surgical resection. Hepatology. 2001 Oct: 34(4 pt
1): 702-13.



×