Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

RỐI LOẠN NHỊP TIM Ở BỆNH NHÂN CƯỜNG GIÁP TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.44 KB, 19 trang )

RỐI LOẠN NHỊP TIM Ở BỆNH NHÂN CƯỜNG GIÁP
TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Tạ Quang Hiếu, Nguyễn Hải Thuỷ,
Nhóm nghiên cứu tim mạch nội tiết học - Trường Đại Học Y Khoa Huế

ARRYTHMIAS IN HYPERTHYROID PATIENTS DURING PROCESS OF
TREATMENT
Objective. to detect and monitor arrythmias in hyperthyroid patients during the course of
treatment and to research the related factors in these patients.
Methods : 50 patients suffering from hyperthyroidism (mainly Graves' disease confirmed
by measuring og serum thyrpid hormones and TSH levels ) were investigated with regard
to clinical features, ECG, and echocardiography during the treatment course between
5/2002 - 5/2003
Results : Arrythmias were present in 49/50 ( 98%) hyperthyroid patients in which 56%
were sinus tachycardia and 38% were atrial fibrillation . The mean left atrial diameter
was 36,97± 5,95 mm , and mean EF was 59,17 ± 12,20 %, mean F S was 34,71± 8,38% .
There was no difference in the prevalence of arrythmias between male and female
patients, between those over and under 40 years old, between those over and under 12
months duration of disease . Our study showed that there was the recovery from
arrythmias during management. Mean heart rate went from 102 ± 19 to 81 ± 10 bpm,
mean systolic BP was 126,4 ± 15,2 mmHg to 114,6 ± 11,1 mmHg ( p< 0.01 ). Serum FT4
levels were 86,32 ± 2 6,13pmol/l in arythmias and 86,00 ± 23,66 pmol/l in atrial
fibrillation. After treatment the percentage of patients with sinus tachycardia was
decreased from 56% to 20%, atrial fibrillation from 38 % to 20% and the other types of


arrythmias from 4% to 2%. Mean duration until atrial fibrillation disappeared was
about 16 days ( longer than the other types of arrythmias ). In the groups with and
without arrythmias returning to normal we showed the mean left atrial dimension was
34,88 ± 6,59 mm vs 39,54 ± 4,12 mm ( p < 0.01 ), FS was 37,79 ± 6,89 % vs
55,88 ± 14,26 % ( p< 0.01 ), EF was 61,95 ± 6,97 vs 55,88 ± 14,26 % ( p < 0.01 ).


respectively.
Conclusions : Arrythmias in Graves' hyperthyroidism were frequent. Arrythmias could
be resolved if hyperthyroidism was diagnosed and treated early . LA diameter especially
is pronostic of whether hyperthyroid patients with arrhythmias wil recover.
TÓM TẮT
1.

Mục đích đề tài :

Phát hiện và theo dõi rối loạn nhịp ở bệnh nhân cường giáp trong quá trình điều trị và
tìm hiểu một số yếu tố liên quan ở đối tượng rối loạn nhịp
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :50 bệnh nhân cường giáp ( chủ yếu là
Basedow) được khảo sát lâm sàng, điện tim, siêu âm tim 2D , hormone giáp và TSH ,
trong thời gian 5/2002-5/2003.
3. Kết quả :
Tỷ lệ RLNT là 49/50 ( 98% ) trong đó nhịp nhanh xoang 56% và rung nhĩ 38%. Đường
kính nhĩ trái 36,97 ± 5,95 mm , Phân xuất tống máu ( EF ) là 59,17 ± 12,20 % và chỉ số
co hồi ( FS ) thất trái là 34,71 ± 8,38 % . Tỷ lệ rối loạn nhịp tim không khác biệt giữa
nam và nữ bệnh nhân, giữa nhóm dưới và trên 40 tuổivà giữa 2 nhóm có thời gian phát
hiện bệnh cường giáp dưới và trên 12 tháng.Trong quá trình điều trị ghi nhận : Tần số
tim 102 ± 19 lần / phút giảm 81±10 lần / phút , Huyết áp tâm thu 126,4 ± 15,2 mmHg
giảm 114,6 ±11,1 mmHg (p<0.01 ). Nhịp nhanh xoang 56% còn 20%, rung nhĩ 38 % còn
20% và các loại loạn nhịp khác 4% còn 2%. Thời gian rung nhĩ biến mất trung bình là
16 ngày, dài hơn các loại rối loạn nhịp khác. Nồng độ FT4 tăng 86,32 ± 2 6,13pmol/l
trong nhịp nhanh xoang cũng như rung nhĩ 86,00 ± 23,66 pmol/l. Đường kính nhĩ trái
nhóm bệnh nhân có RLNT trở về bình thường là 34,88 ± 6,59 mm bé hơn so với không


trở về bình thường là 39,54± 4,12 mm ( p < 0.01 ). Chỉ số FS nhóm có RLNT trở lại bình
thường là 37,79 ± 6,89 % thấp hơn so với nhóm RLNT không trở về bình thường là

55,88±14,26 % ( p <0.01 ).
Chỉ số EF giữa nhóm có RLNT trở về bình thường là 61,95 ± 6,97 cao hơn nhóm không
trở về bình thường 55,88 ± 14,26 % ( p < 0.01 ).
4.Kết luận :
Rối loạn nhịp tim trong cường giáp và đa dạng có thể hồi phục nếu chẩn đoán và được
điều trị cường giáp sớm. đặc biệt đường kính nhĩ trái là một trong những thông số tiên
lượng của rối loạn nhịp ở bệnh nhân cường giáp.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Cường giáp là một trong những nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim và suy tim
thường gặp trên lâm sàng. Đây là hậu quả của sự tác động tại tim của hormone giáp một
cách quá mức và kéo dài, đặc biệt ở những bệnh nhân không được điều trị một cách triệt
để hoặc không liên tục.
Trên lâm sàng thường gặp một số bệnh nhân phát hiện cường giáp khi đã có biến
chứng tim nặng, đó là những bệnh nhân cao tuổi hoặc có bệnh lí tim mạch từ trước hoặc
rối loạn nhịp tim được sử dụng một số thuốc chống loạn nhịp chứa nhiều iod ( cordarone
)...iến chứng tim trong cường giáp trên lâm sàng thường đa dạng có thể gây rối loạn nhịp
tim, tăng huyết áp , tăng cung lượng tim, giảm đề kháng thành mạch máu, thời gian tuần
hoàn rút ngắn , suy tim trong bối cảnh bệnh cơ tim cường giáp với hai giai đoạn (1) bệnh
cơ tim cường giáp hồi phục và (2) bệnh cơ tim cường giáp không hồi phục . Thực tế lâm
sàng các thể bệnh cơ tim cường giáp đôi khi không thể phân biệt được nếu không nhờ
một số phương tiện thăm dò tim mạch không xâm nhập như siêu âm doppler để khảo sát
tình trạng cơ tim mà đã được ghi nhận ở một số công trình của Mintz G ( 1991 ) , Kral J
( 1992 ), Umpieerrez GE ( 1995 ), Le goldman ( 1999) .Vì thế biến chứng tim và rối loạn
nhịp tim ở bệnh nhân cường giáp luôn là vấn đề được các thầy thuốc quan tâm .


Tại Việt Nam trước những năm 1990, nhiều công trình khảo sát biến chứng tim ở
bệnh nhân cường giáp của Mai Thế Trạch, Lê Huy Liệu,Trần đức Thọ, Trần đình Ngạn,
Nguyễn Thy Khuê, Nguyễn Hải Thủy. Đặc biệt trong những năm trở lại đây một số tác

giả như Hoàng Trung Vinh và cộng sự ( Viện Quân Y 103 ) khảo sát tim qua tâm thanh
cơ động đồ, Nguyễn Anh Vũ và cộng sự ( Bệnh Viện trung ương Huế ) đã sử dụng siêu
âm doppler để khảo sát tim ở bệnh nhân cường giáp, qua đó cho thấy biến chứng tim ở
bệnh nhân cường giáp là một loại biến chứng khá phức tạp, dể nhầm lẩn trong cách sử trí
vì thế cần phải đánh giá một cách đúng mức hơn về phương diện chẩn đoán cũng như
điều trị cho bệnh nhân.
Vấn đề điều trị và theo dõi các biểu hiện tim và rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân
cường giáp chủ yếu dựa vào nồng độ hormone, điện tim, và nhất là kinh nghiệm lâm sàng
của thầy thuốc. Tuy nhiên trong thực tế tình trạng bệnh nhân nhập viện kèm rối loạn nhịp
tim đa dạng , cần phải phối hợp nhiều thuốc nội tiết lẩn tim mạch trong mục đích đưa
nhịp tim trở lại bình thường và đảm bảo huyết động
Lúc nào sử dụng, lúc nào ngưng, lúc nào phối hợp thuốc tim mạch, cơ sở nào để
sử dụng thuốc, để ngưng thuốc. Đó luôn là những câu hỏi đặt ra cho các thầy thuốc lâm
sàng nhất là khi có rối loạn nhịp tim .
Đặc biệt vẫn chưa có nhiều nghiên cứu nào thật cụ thể trên lâm sàng để có thể
ngưng điều trị hổ trợ các thuốc tim mạch cho người bệnh cường giáp.
Mục tiêu nghiên cứu : chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu như sau:
1. Đánh giá các biểu hiện liên quan đến rối loạn nhịp tim trên lâm sàng và cận lâm sàng
xãy ra trên bệnh nhân cường giáp.
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa các rối loạn nhịp tim ( hồi phục và không hồi phục ) với
một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng trên những đối tượng bị rối loạn nhịp.trong quá
trình điều trị.


II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.

Đối tượng:

Gồm 50 bệnh nhân đã được chẩn đoán là cường giáp ( chủ yếu là Basedow ) đang điều trị

nội trú và ngoại trú thuộc khoa Nội tiết Bệnh viện Trung ương Huế và Khoa nội Bệnh
viện trường Đại học Y khoa Huế. Từ tháng 5/2002 - 5/2003
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang với các tham số nghiên cứu bao gồm
Tuổi đời, Thời gian phát hiện bệnh, nồng độ FT4 , T4 và TSH, Điện tâm đồ , Siêu âm
tim 2D khảo sát Đường kính nhĩ trái ( LA), Chỉ số co hồi thất trái (FS) và Phân suất tống
máu (EF)
Phương pháp xử lý số liệu : theo phương pháp thống kê y học
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm triệu chứng về tim của 50 bệnh nhân trong quá trình điều trị :
1.Tần số tim : Trước điều trị

: 102 ± 19 lần/phút

Trong quá trình điều trị : 81 ±10 lần /phút (p < 0,01)
2.Phân loại rối loạn nhịp tim .

Điều trị

Nhịp nhanh

Rung nhĩ

RLNT khác

Tổng cọng

Trước

28(56%)


19(38%)

2(4%)

49(98%)

Sau

10(20%)

10(20%)

1(2%)

21(42%)

Trong quá trình điều trị RLNT giảm rõ rệt từ 98% xuống 42%, trong đó nhịp
nhanh xoang giảm từ 56% xuống còn 20% và rung nhĩ giãm từ 38% xuống còn 20%


3.Trị số huyết áp
Điều trị kháng giáp

Trung bình (mmHg)

HATT
126,4 ± 15,2 *
HATTrương
76,6 ± 8,9

HATT
Sau điều trị
114,6 ± 11,1
HATTrương
75,2 ±12,3
Có sự khác biệt rõ HA tâm thu trước và sau điều trị (p < 0,01)
Trước điều trị

p
* < 0,01

4.Thông số siêu âm tim
Loại RLNT
Nhịp nhanh (n=17/28)
Rung nhĩ (n=16/19)
RLN Khác (n=1/2)
Bình thường ( n= 60 )*
* Nguyễn Anh Vũ ( 2003)

LA (mm)

EF (%)

FS (%)

33,45± 6,43
40,33± 2,86
42,20
28,98± 3,17


61,82± 14,03
55,94±10,56
66,00
66,67±5,53

34,88 ± 9,58
34,06±11,06
36,50
36,66 ± 4,14

Rung nhĩ và RLNT khác có đường kính nhĩ trái lớn hơn bình thường.( p < 0.01 )
Phân suất tống máu ( EF ) của các trường hợp rung nhĩ thấp hơn bình thường
Chỉ số co hồi ( FS ) thất trái ít có sự khác biệt.


Bảng 7 .Phân bố đường ký nhĩ trái :
Chỉ số SA

LA (mm)
Bình Thường
22,64-35,32

n=35
Tỉ lệ

Bệnh lý

< 22,64

> 35,32


10
0
25
28,6 %
0
71,4 %
71,4% bệnh nhân có đường kính nhĩ trái ở trị số bệnh lý

Bảng 9. Phân bố về phân suất tống máu ( EF ).
Chỉ số SA

EF (%)
Bình thường

Bệnh lý

55,61-77,73
< 55,61
> 77,73
n=35
21
13
1
Tỉ lệ
60 %
37%
3%
37 % bệnh nhân có phân suất tống máu giảm
Bảng 10 : Phân bố về chỉ số co hồi thất trái ( FS )

Chỉ số SA

n=35
Tỉ lê

FS (%)
Bình thường
Bệnh lý
28,38-44,94
< 28,38
> 44,94
23
10
2
65,7%
28,6 %
5,7 %
28.6 % bệnh nhân có chỉ số co hồi thất trái giảm

5. Thời gian cải thiện rối loạn nhịp tim trong điều trị nội :
Bảng 11. Thời gian trung bình cải thiện các RLNT:


Thời điểm RLNT

Trước điều trị
n
%

Sau điều trị

n
%

Nhịp nhanh
28
56
10
20
Rung nhĩ
19
38
10
20
RLN khác
2
4
1
2
Thời gian rung nhĩ biến mất trung bình là 16 ± 5 ngày.

Thời gian trung
bình ( ngày )
10 ± 4
16 ± 5
12 ± 2

III : Liên quan rối loạn nhịp tim với triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Bảng 12 : Giới và rối loạn nhịp tim
Giới
Nam

Nữ
Tổng cọng

Bệnh nhân
RLNT
12
12
38
37
50
49
Rối loạn nhịp tim giữa nam và nữ không đáng kể ( p < 0.05 )

Bảng 13 : Tuổi và rối loạn nhịp tim
Độ tuổi
Bệnh nhân
RLNT
RN ( trước )
RN ( sau )
36
35
14
7
≥ 40
14
14
5
3
< 40
T.cọng

50
49
19
10
Tỷ lệ rối loạn nhịp tim và RN không khác biệt giữa trên và dưới 40 tuổi ( p >0.05 )
Bảng 14 : Thời gian mắc bệnh và rối loạn nhịp tim
Thời gian
Bệnh nhân
RLNT
RN
30
30
11
≥ 12 tháng
20
19
8
<12 tháng
Tổng cộng
50
49
19
Tỷ lệ rối loạn nhịp tim giữa 2 nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh trên và dưới
12 tháng không khác biệt đáng kể ( p > 0.05 )
Bảng 15 : Nồng độ Hormone giáp và rối loạn nhịp tim
Nồng độ hormone
Loại RLN
Nhịp nhanh

FT4


T4

TSH

(pmol/l)
86,32± 26,13

(ng/l)

(µIU/ml)
0,03± 0,04
0,10 ± 0,06

101, 00+ 0,00


RN

86,00± 23,66

99,00± 3,46
0
RLNT khác
16,80± 5,52
Bình thường
12-24
55-110
FT4 tăng trong rối loạn nhịp , T4 ít thay đổi. TSH giãm .


0,05 ± 0,04
0,15 ± 0,07
0,06 ± 0,05
0,24-4,20


Bảng 16:

Hormone giáp và TSH giữa 2 nhóm có RLNT trở về và không trở về

bình thường :
Nhóm nghiên cứu

Nhóm RLNT trở về
bình thường
Giá trị
n

Nhóm RLNT không
trở về bình thường
Giá trị
n

Các chỉ số trung bình
FT4(pmol/ml)
23
87,40± 24,95
84,94± 24,54
T4 (ng/ml)
6

86,62± 32,38
106,60± 12,52
29
TSH (µIU/ml)
0,05± 0,05
0,07± 0,07
Không có sự khác biệt về nồng độ hormone giáp giữa các nhóm

16
5
21

Bảng 17: Thông số SA tim giữa 2 nhóm có RLNT trở về và không trở về bình
thường :
Thông số siêu âm tim

Nhóm RLNT
trở về bình thường
Trị số

LA (mm)
EF (%)
FS(%)
EF và FS của nhóm có RLNT

34,88± 6,59
61,95± 9,69
37,79± 6,89
không trở về bình


n

Nhóm RLNT Không
trở về bình thường
Trị số

n

19
16
39,53± 4,12
19
16
55,88± 14,26
19
16
31,44± 9,95
thường thấp hơn nhóm trở về bình

thường ( p < 0.01 ). Ngược lại đường kính nhĩ trái ( LA ) lại lớn hơn ( p < 0.01 )


IV. BÀN LUẬN
1. Biểu hiện rối loạn nhịp tim trong cường giáp
1.1. Tần số tim ở bệnh nhân cường giáp
Nguyễn Anh Vũ ( 2001-2003) nghiên cứu trên bệnh nhân cường giáp ghi nhận nhịp tim
của bệnh nhân trước điều trị là 95,14 ± 22,08 lần / phút , Nguyễn Thu Hương và cộng sự
ghi nhận là 105,22 ± 11,52 lần / phút và Trần Thị Thanh Hoá nhịp tim trước điều trị trung
bình là 110 lần/phút. Theo kết quả ghi nhận trên bệnh nhân của chúng tôi , tần số tim
trung bình trước điều trị là 102 ±19 lần / phút , dưới tác dụng của thuốc kháng giáp trong

quá trình điều trị giảm dần 81 ±10 lần / phút
1.2. Rối loạn nhịp tim
Tỷ lệ các loại rối loạn nhip tim ở bệnh nhân cường giáp qua nghiên cứu là 49/50 ( 98 %)
trong đó nhịp nhanh xoang và rung nhĩ thường gặp nhất.
Nhịp nhanh xoang : Nguyễn Hải Thuỷ ( 1983 - 1987) ghi nhận nhịp nhanh xoang trên
bệnh nhân cường giáp chiếm tỉ lệ là 90,25%, Trần Đình Ngạn (1987) tỉ lệ là 95,8%.,Trần
Thi Thanh Hoá (2000) tỉ lệ là 78,4% và Hoàng Trọng Vinh và cộng sự là 97,1%. Kết quả
trong nghiên cứu chúng tôi nhịp nhanh xoang trên những bệnh nhân cường giáp chiếm tỉ
lệ 56% thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên có thể do mức độ trầm
trọng của bệnh khi vào viện, vì thế các rối loạn nhịp khác chiếm ưu thế hơn .
Rung nhĩ : Đây là một dạng rối loạn nhịp tim thường gặp ở bệnh nhân cường giáp, theo
kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 38% bệnh nhân cường giáp có rung nhĩ cao hơn số
liệu của Nguyễn Hải Thuỷ (1983 - 1987) chiếm tỷ lệ 15%, Trần Đình Ngạn (1987) chiếm
tỷ lệ 4,97% và Trần Thị Thanh Hoá (2000) chiếm tỷ lệ 1%. Tỉ lệ rung nhĩ cao hơn có thể
giải thích một phần là do phần đông bệnh nhân được chọn là bệnh nhân bị bệnh cường
giáp đang nằm điều trị tại bệnh viện .
Rối loạn nhịp khác chỉ chiếm tỉ lệ 4% trong tất cả các loại rối loạn nhịp tim.
1.3. Trị số huyết áp.


Hormone giáp tác động lên áp lực động mạch với mức độ trung bình, ít thay đổi tuy
nhiên gia tăng thể tích tim bóp với mỗi chu chuyển tim và gia tăng lượng máu giữa hai
chu chuyển tim, áp lực mạch gia tăng kèm huyết áp tâm thu khoảng 10 - 15 ( mmHg).
Hoàng Trọng Vinh và cộng sự ghi nhận HA áp tâm thu ở cường giáp ≥140 mmHg chiếm
tỷ lệ 4,7% , sau điều trị HA tâm thu lớn ≥140 mmHg chỉ còn 1,9%.
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận HA tâm thu trước điều trị là
126,4 ± 15,2 mmHg và sau điều trị là 114,6 ± 11,1 mmHg ( p < 0.01 ).Cho thấy kết quả
chúng tôi có sự khác biệt. Tỷ lệ trên một phần do bệnh nhân của chúng tôi bị suy tim
trong phần lớn trường hợp. Huyết áp tâm trương thay đổi không đáng kể
1.4. Thông số siêu âm tim 2D ở bệnh nhân cường giáp .

Nguyễn Anh Vũ khảo sát 60 người bình thường ghi nhận đuờng kính nhĩ trái ( LA) trung
bình là 28,98 ± 3.17 mm, Phân suất tổng máu ( EF) là 66.67 ± 5.53 % và Chỉ số co hồi
( FS) thất trái là 36.66 ± 4.14 %. Chúng tôi chủ yếu khảo sát siêu âm 2 bình diện qua
nghiên cứu trên 35 bệnh nhân chúng tôi ghi nhận :
- Đường kính nhĩ trái (LA ) là 36,97 ± 5,95 mm thấp hơn với kết quả trước đây của
Nguyễn Hải Thuỷ là 41,2± 5,3 mm . Tuy nhiên bệnh nhân cường giáp có đường kính LA
lớn hơn bình thường ( > 35,32 mm ) ghi nhận ở 25/35 ( 71.4%). Đây là một đặc thù về
tim ở bệnh nhân cường giáp có rối loạn nhịp khi khảo sát siêu âm tim.
- Phân xuất tống máu ( EF %) : EF của nhóm nghiên cứu trung bình là 59,17 ± 12,20 %
cao hơn so với kết quả trước đây của Nguyễn Hải Thuỷ là 37,35% . Tỷ lệ bệnh nhân có
chỉ số EF bệnh lý là 14/35 ( 40%) trong đó chỉ số EF giảm là 13/35 ( 37%).
- Chỉ số co hồi ( FS ) thất trái : theo kết quả của chúng tôi là 34,71 ± 8,38 % phần lớn
nằm trong giới hạn < 28 % ( dưới mức bình thường) là 10 bệnh nhân ( 28,6%) và giới
hạn trên 44% có hai bệnh nhân ( 5,7% ) so với kết quả nghiên cứu của Nguyển Hải Thuỷ
là 26 ± 11.9 % thì có sự khác biệt. Theo chúng tôi sở dĩ có sự khác biệt này là do rối
loạn nhịp nhất là rung nhĩ làm ảnh hưởng đến chỉ số co hồi ( FS) thất trái. Vì vậy không
nên xữ dụng chỉ số FS này để đánh giá chức năng tim ở bệnh nhân cường giáp có rối loạn
nhịp tim nhất là rung nhĩ .


Kết quả của chúng tôi khi so sánh với số liệu của Nguyễn Anh Vũ ( 2001-2003) qua
nghiên cứu 96 bệnh nhân cường giáp ( 25 bệnh nhân suy tim còn gọi tim giáp và 71
không có suy tim còn gọi tim cường giáp đơn thuần ) như sau
Bệnh nhân

LA ( mm )

EF (%)

FS ( %)


Tim giáp (n = 25 )
Tim cường giáp đơn

36.19± 6.59
28.76± 4.15

67.39 ± 10.4
70.01± 7.82

37.95± 8.07
40.78± 6.47

thuần ( n = 71 )
Của chúng tôi trước điều

36.97± 5.95

59.17± 12.20

34.71± 8.38

trị ( n = 35 )
Đường kính nhĩ trái của bệnh nhân chúng tôi thuộc nhóm tim giáp của Nguyễn Anh Vũ.
Nhưng Phân suất tổng máu ( EF ) và chỉ số co hồi ( FS ) thất trái thấp hơn kết quả của
Nguyễn Anh Vũ. Điều này giải thích tỷ lệ rung nhĩ cao trong nhóm bệnh nhân của chúng
tôi.
1.5. Liên quan giữa một vài chỉ số siêu âm và rối loạn nhip tim .
Qua 16 bênh nhân rung nhĩ chúng tôi ghi nhận LA là 40,33± 2,86 mm so với kết quả
nghiên cứu bệnh nhân rung nhĩ của Nguyễn Hải Thuỷ và cộng sự là 41,2 ± 5,3 mm . Rối

loạn này có thể giải thích một phần do (1) sự gia tăng cung lượng tim trong cường giáp
và (2) giảm chức năng thất trái do thoái hoá cơ tim do tác động trực tiếp của hormone
giáp liên tục và kéo dài. Đặc biệt giải thích cho tỉ lệ rung nhĩ gia tăng ở những bệnh nhân
cường giáp có đường kính nhĩ trái lớn hơn bình thường .
Trong số 28 bệnh nhân có nhịp nhanh xoang thì có đến 17/28 bệnh nhân ( 60.7%) có
phân xuất tống máu là 61,82 ± 14,03 (%) cao hơn phân xuất tống máu ở bệnh nhân rung
nhĩ.
1.6. Thời gian trung bình cải thiện các rối loạn nhịp tim.
Thời gian trung bình để các rối loạn nhịp trở về bình thường. Ngoài ảnh hưởng của thuốc
tim mạch còn chịu ảnh hưởng của thuốc kháng giáp. Để một rối loạn nhịp tim trên bệnh
nhân cường giáp để trở về bình thường cần phải có một thời gian nhất định vì thuốc
kháng giáp hiệu quả tác dụng sau vài tuần, trong khi các rối loạn nhịp tim nhất là rung


nhĩ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nhất là tắc mạch. Do vậy trong khi chờ tác
dụng của thuốc kháng giáp để rối loạn nhịp có thể trở lại nhịp xoang thì việc sử dụng các
thuốc tim mạch có vai trò nhất định. Qua nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy thời gian
trung bình cải thiện các rối loạn nhịp trung bình từ 12 đến 16 ngày . Đặc biệt thời gian để
mất rung nhĩ trung bình 16 ngày, dài hơn các loại rối loạn nhịp khác. Điều này cũng phù
hợp vì một khi có rối loạn nhịp thì đây là hậu quả của sự gia tăng cung lượng tim trong
cường giáp và giảm chức năng thất trái. Do vậy để rung nhĩ trở về bình thường cần thời
gian cao hơn các loại rối loạn nhịp khác.
II. LIÊN QUAN GIỮA RỐI LOẠN NHỊP TIM VỚI ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ
CẬN LÂM SÀNG.
1. Giới tính và rối loạn nhịp tim .
Trong 50 bệnh nhân, nữ chiếm tỉ lệ 76%, tỷ lệ nữ/ nam là 2,5/1 thấp hơn kết quả 7,5/1
của Lê Thị Hoàng, Lê Minh Khôi và thấp hơn kết quả của Nguyễn Đình Ngạn. Nhưng
không khác biệt tỷ lệ rối loạn nhịp tim giữa hai giới.
2. Tuổi và rối loạn nhịp tim.
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của nữ là 46 ± 16 tuổi , tuổi

trung bình của nam là 52 ± 9 tuổi so với kết quả của Trần Đình Ngạn là 16 - 45 tuổi ;
Huỳnh Văn Chiến là 30 -50 tuổi. Nhưng không ghi nhận có sự khác biệt về rối loạn nhịp
tim giữa nhóm dưới và trên 40 tuổi..
3. Thời gian phát hiện bệnh và rối loạn nhịp tim .
Thời gian phát hiện bệnh dưới 12 tháng chiếm tỉ lệ 60%; Nếu so sánh với kết quả
phát hiện bệnh của Nguyễn Hải Thuỷ và cộng sự thì thời gian phát hiện bệnh trung bình
là 17 tháng còn thời gian phát hiện của chúng tôi có sự khác biệt.
Con số này có tính chất tương đối vì có nhiều bệnh nhân nhất là những người lớn
tuổi bị cường giáp nhiều năm nhưng không phát hiện được cho đến lúc suy tim mới nhập
viện.Tuy nhiên không ghi nhận có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ rối loạn nhịp tim giữa 2
nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dưới và trên 12 tháng


4. Diễn biến rối loạn nhịp trong thời gian điều trị
Loại RLN

Nhịp nhanh xoang
N
%

Rung nhĩ
N
%

RLN khác
n
%

Thời điểm
Trước điều trị

28
56
19
38
2
4
Sau thời gian điều trị
10
20
10
20
1
2
Trước điều trị thì nhịp nhanh xoang chiếm tỷ lệ 56% trong khi rung nhĩ chiếm tỷ
lệ 38 % còn các loại loạn nhịp khác chiếm tỷ lệ 4%. Sau một thời gian điều trị nhịp
nhanh xoang giảm 36% . Rung nhĩ sau điều trị còn 20% . Tỷ lệ trở về bình thường của
rung nhĩ thấp hơn nhịp nhanh xoang. Rối loạn nhịp khác sau điều trị giảm 2% . Như vậy
nhịp nhanh xoang có sự trở về bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất so với rung nhĩ và các
rối loạn nhịp khác. Điều này cho thấy bệnh nhân cường giáp cần phát hiện sớm và điều
trị tích cực nhất là người có tuổi.
5. Nồng độ hormon giáp và TSH và rối loạn nhịp tim .
Nồng độ FT4 trung bình 86,32 ± 26,13 pmol/l trong nhịp nhanh xoang và 86,00 ±
23,66 pmol/l ở rung nhĩ. Trong khi TSH của bệnh nhân có nhịp nhanh xoang
0,03± 0,04.µU./ml thấp hơn nồng độ TSH trung bình là 0,05± 0,04µU/ml.


6. Rối loạn nhịp và thông số siêu âm tim 2D
Đường kính nhĩ trái ( LA ) nhóm RLNT trở về bình thường là 34,88 ± 6,59 mm nhỏ
hơn nhóm không trở về bình thường là 39,54 ± 4,12 mm ( p < 0.01 ) Đây là hậu quả của
suy tim tăng cung lượng và giảm chức năng thất trái ở những bệnh nhân có đường kính

nhĩ trái càng dãn thì thời gian để rối loạn nhịp trở về bình thường càng kéo dài
Chỉ số co hồi thất trái ( FS ) càng thấp thì sự trở về của rối loạn nhịp càng khó vì rung
nhĩ làm thay đổi chí số co hồi thất trái, cường giáp tăng đường kính thất trái tâm thu.Chỉ
số FS nhóm có nhịp tim trở lại bình thường là 37,79± 6,89 % thấp hơn so với nhóm
RLNT không trở về bình thường là 55,88 ± 14,26 % ( p <.0.01)
Phân suất tống máu ( EF ), được thể hiện qua đường kính thất trái cuối tâm trương và
đường kính thất trái cuối tâm thu. Có sự khác biệt giữa nhóm có RLNT trở về bình
thường là 61,95 ± 6,97 và nhóm không trở về bình thường 55,88 ± 14,26 %.( p <.0.01)
Đây là hậu quả của hormone giáp tác dụng trên cơ tim theo thời gian, theo cơ địa, thông
qua tác dụng tăng tần số và cung lượng, phì đại cơ tim. Vì thế phân suất tổng máu càng
giảm thì rối loạn nhịp khó trở về bình thường hơn.
Hormon giáp tác động lên cơ tim gây nên bệnh cơ tim nhiễm độc giáp gây tăng cung
lượng tim và suy tim. Do vậy, hormone giáp càng tăng thì rối loạn nhịp khó trở về bình
thường hơn. Ngoài ra theo chúng tôi, mặc dù kết quả tuổi lớn và thời gian mắc bệnh dài
không liên quan đến sự trở về của rối loạn nhịp nhưng đây chỉ là con số có tính chất
tương đối vì nhiều bệnh nhân nhất là bệnh nhân lớn tuổi nhiều khi mắc bệnh cường giáp
đã lâu nhưng không nhớ rõ thời gian mãi đến khi suy tim mới vào viện.
Tóm lại qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ rối loạn nhịp ở bệnh nhân cường giáp rất thường
gặp trong số đó rung nhĩ cần đánh giá ngoại diện tim cần dến siêu âm đặc biệt phụ thuộc
đường kính nhĩ trái (LA). Đây là một dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán tim giáp. Là
hậu quả của suy tim tăng cung lượng trong giáp và giảm chức năng thất trái.


Do vậy để biết rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân cường giáp bao lâu mới trở về bình
thường thì nên khảo sát thêm chỉ số LA. Đây là một chỉ số quan trọng để chẩn đoán tim
giáp nên muốn rối loạn nhịp trở về bình thường thì chỉ số LA trong giới hạn bình thường.
Ngoài ra qua những phân tích trên còn cho chúng tôi thấy muốn rối loạn nhịp ở bệnh
nhân cường giáp về bình thường còn phụ thuộc vào hormon giáp .
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu 50 bệnh nhân Basedow cường giáp chúng tôi có một số kết luận như sau :

1.Biểu hiện rối loạn nhịp tim trong cường giáp
Tỷ lệ RLNT là 49/50 ( 98 % ) trong đó nhịp nhanh xoang 56%, Rung nhĩ 38%.
Tỷớ lệ rối loạn nhịp tim không khác biệt giữa nam và nữ bệnh nhân, giữa nhóm dưới và
trên 40 tuổi và giữa 2 nhóm có thời gian mắc bệnh dưới và trên 12 tháng
Đường kính nhĩ trái là 36,97 ± 5,95 mm , Phân xuất tống máu ( EF ) 59,17 ± 12,20 % và
Chỉ số co hồi ( FS ) thất trái là 34,71 ± 8,38 %
2. Rối loạn nhịp tim trong quá trình điều trị.
Tần số tim 102 ±19 lần / phút giảm dần 81 ±10 lần / phút .
Trị số huyết áp tâm thu 126,4 ± 15,2 mmHg giảm 114,6± 11,1 mmHg ( p < 0.01 ).
Nhịp nhanh xoang 56% giảm còn 36%, rung nhĩ 38 % giảm còn 20%, các loại loạn nhịp
khác 4% giảm còn 2% .
Thời gian để mất rung nhĩ thời gian là 16 ngày, dài hơn các loại rối loạn nhịp khác.
Nồng độ FT4 là 86,39 ± 24,49 (pmol/l) tăng . Nồng độ TSH là 0,1±0,06 (µU /ml) . Nồng
độ FT4 tăng 86,32± 26,13pmol/l trong nhịp nhanh xoang cũng như rung nhĩ
86,00 ± 23,66 pmol/l.
Đường kính nhĩ trái nhóm RLNT trở về bình thường là 34,88 ± 6,59 mm bé hơn nhóm
không trở về bình thường là 39,54 ± 4,12 mm . Chỉ số FS nhóm có nhịp tim trở lại bình
thường là 37,79 ± 6,89 % thấp hơn so với nhóm RLNT không trở về bình thường là


55,88 ± 14,26 % và phân suất tống máu ( EF ) nhóm có RLNT trở về bình thường là
61,95 ± 6,97% lớn hơn nhóm không trở về bình thường 55,88 ± 14,26 %
Tóm lại Rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân cường giáp trong quá trình điều trị đáng chú ý là
rung nhĩ, sự hồi phục của rối loạn nhịp này liên quan đến đường kính nhĩ trái đánh giá
qua siêu âm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A D Toft, N A Boon. Thyroid disease and the heart. Heart 2000;84:455–460
2. Bernadette Biondi, Emiliano antonio palmieri, Serafino Fazio, Carmela Cosco,
Maria nocera, Luigi sacca , Endogenous Subclinical Hyperthyroidism Affects Quality
of Life and Cardiac Morphology and Function in Young and Middle-Aged Patients, J

Clin Endocrinol Metab 2000;85: 4701-4705.
3. Cavros-NG. Case report : reversible mitral regurgitation and congestive heart failure
complicating thyrotoxicosis. Am-J-Med-Sci.1996 Mar; 311(3):142-4.
4. Dazai-Y. Direct effect of thyroid hormone on left ventricular myocardial relaxation.
Jpn-circ-J.1992 Apr; 56 (4) : 334-42
5. Franklin H, Irwin Klein, Kaie Ojamaa, Thyroid hormon and the cardiovascular
system, N Engl J Med, 2001;344(7): 501-509.
6. George J. Kahaly, Stefan Wagner ,Jana Nieswandt,

Susanne Mohr-Kahaly

(1999),”Stress Echocardiography in Hyperthyroidism”, J Clin Endocrinol Metab;84:
2308-2313.
7. Iwasaki T, Naka M, Hiramatsu K, Yamada T, Niwa A, Aizawa T, Murakami M,
Ishihara M, Miyahara Y Echocardiographic studies on the relationship between atrial
fibrillation and atrial enlargement in patients with hyperthyroidism of Graves'
disease,Cardiology,1989,76(1): 10-7.
8. Le Goldman, Dj Sahlas, M Sami. A case of thyrotoxicosis and reversible systolic
cardiac dysfunction. Can J Cardiol 1999; 15(7):811 - 814.




×