Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Trình bày khái quát và mô hình hóa quy trình xin cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.15 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu của người tiêu dùng
ngày càng được nâng cao, do đó để đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng, các doanh
nghiệp không ngừng tư duy để tạo ra những kiểu dáng sản phẩm phù hợp góp phần nâng
cao hình ảnh của doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, không ít doanh nghiệp vì mục tiêu
lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường đã sao chép, mô phỏng, thậm chí đánh cắp nguyên vẹn
kiểu dáng công nghiệp (KDCN) của đối thủ cạnh tranh để làm giả, làm nhái sản phẩm.
Thực trạng này không những gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính mà còn
ảnh hưởng đến lợi ích của một bộ phận người tiêu dùng. Để bảo vệ quyền lợi của mình, các
doanh nghiệp cần tiến hành đăng kí kiểu dáng công nghiệp. Bằng độc quyền kiểu dáng
công nghiệp do cơ quan có thẩm quyền cấp là cơ sở thừa nhận quyền sở hữu đối với
KDCN. Vậy quy trình xin cấp như thế nào? Để làm rõ vấn đề này, em đã chọn đề tài
“Trình bày khái quát và mô hình hóa quy trình xin cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG
NGHIỆP
1. Khái niệm và điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
a. Khái niệm
Tại Khoản 13 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT) năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009
quy định “KDCN là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối,
đường nét, màu sắc hoặc có sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và
dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp”. Theo đó, sản phẩm
được hiểu là đồ vật, dụng cụ, phương tiện…được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp
hay thủ công nghiệp, có kết cấu và chức năng rõ ràng, được lưu thông độc lập. Kiểu dáng
bao gồm các đặc điểm thẩm mĩ của sản phẩm đó là hình khối, đường nét, màu sắc hay
chính là sự kết hợp giữa các yếu tố trên và tất cả những đặc điểm ấy phải nhận diện bằng
mắt thường, có thể dễ dàng phân biệt được sự khác nhau giữa các sản phẩm thông qua hình
dáng bên ngoài của chúng.
b. Điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
1




Theo quy định tại Điều 63 Luật SHTT thì kiểu dáng công nghiêp được bảo hộ nếu đáp
ứng các điều kiện:
- Tính mới: Một KDCN được coi là có tính mới nếu đáp ứng được 3 tiêu chí:
+ KDCN được công nhận là có tính mới nếu tính đến ngày nộp đơn, KDCN đó có sự
khác biệt đáng kể với những kiểu dáng đã bị bộc lộ công khai. Hay nói cách khác, KDCN
yêu cầu bảo hộ không được đồng nhất hoặc tương tự gần giống đến mức gây nhầm lẫn với
những kiểu dáng đã tồn tại trước đó.
+ KDCN không được coi là khác biệt đáng kể với nhau nếu chỉ khác biệt bởi các đặc
điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết hay ghi nhớ được, các đặc điểm đó không thể dùng
phân biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp với nhau.
+ KDCN yêu cầu bảo hộ chưa bị bộc lộ công khai ở bất cứ đâu, dưới bất kì hình thức
nào tính đến ngày nộp đơn. KDCN có thể bị bộc lộ thông qua các cách thức như sau: sử
dụng KDCN, mô tả bằng văn bản như phát hành ấn phẩm, trưng bày trong các cuộc triển
lãm hay qua các bài giảng hoặc có thể được bộc lộ thông qua bất kì hình thức nào khác
trước ngày nộp đơn xin yêu cầu bảo hộ mà một người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực
có thể nắm bắt được bản chất của KDCN đó. KDCN được coi là chưa bị bộc lộ công khai
nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về KDCN đó.
- Tính sáng tạo: Để tạo ra KDCN thì đó phải là một quá trình sáng tạo của tác giả, nó
“không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh
vực tương ứng”. Nó phải đảm bảo sự khác biệt cơ bản so với các kiểu dáng của sản phẩm
cùng loại trước đó. Như vậy, tiêu chí về thẩm mĩ của KDCN phải hội tụ cả yêu cầu về thẩm
mỹ và tính kỹ thuật của sản phẩm.
Các KDCN được coi là không có tính sáng tạo khi chỉ có sự kết hợp đơn thuần như
thay thế, thay đổi vị trí, tăng giảm khối lượng…của các đặc điểm tạo dáng đã biết; hoặc là
hình dáng, sao chép, mô phỏng một phần hoặc toàn bộ hình dáng của cây cối, động vật,
hình dáng hình học, các sản phẩm, công trình nổi tiếng trong và ngoài nước.
- Khả năng áp dụng: Điều 67 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT) quy định “Kiểu dáng công
nghiệp được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể làm mẫu để chế tạo hàng

loạt sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp đó bằng phương pháp
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp”.
2


Như vậy, khi một KDCN đã có hai yếu tố là tính mới và tính sáng tạo thì nó cần phải
đảm bảo thêm yếu tố là phải có khả năng áp dụng vào thực tế sản xuất. Một kiểu dáng
không có khả năng áp dụng công nghiệp nếu kiểu dáng của sản phẩm đó có trạng thái tồn
tại không cố định ( sản phẩm ở thể khí, lỏng…), sản phẩm phải vận dụng kĩ năng đặc biệt
của người tạo dáng hoặc không thể lặp đi lặp lại việc chế tạo ra sản phẩm có hình dạng như
vậy( sản phẩm vẽ, chạm, khắc..); sản phẩm có hình dáng nhất định trong điều kiện đặc biệt
và bị biến dạng khi ở các điều kiện bình thường( pháo hoa, nhạc nước..)
Ngoài ra pháp luật còn quy định rất cụ thể các trường hợp không được bảo hộ dưới
danh nghĩa là KDCN tại Điều 64 Luật SHTT, đó là hình dáng bên ngoài của sản phẩm do
đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có hoặc chỉ mang đặc tính kĩ thuật, hình dáng
bên ngoài của sản phẩm chỉ thuần tuý có giá trị thẩm mĩ; hình dáng bên ngoài của công
trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp; hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được
trong quá trình sử dụng.
2. Quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
a. Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp
- Tác giả KDCN: KDCN là do con người tạo ra và người sáng tạo ra KDCN là tác giả.
Khoản 1 Điều 122 Luật SHTT quy định: “Tác giả sáng chế kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí là người trực tiếp sáng tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp; trong trường hợp có
hai người trở lên cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp thì họ là
đồng tác giả.”
Như vậy, tác giả của KDCN là người trực tiếp bằng lao động trí óc, bằng sự sáng tạo
của cá nhân đã tạo ra hình dáng của sản phẩm và được pháp luật thừa nhận là KDCN và
được bảo hộ.Và trong trường hợp KDCN đó được tạo ra do sự sáng tạo của hai người trở
lên thì họ được gọi là đồng tác giả.
- Chủ sở hữu KDCN: Theo Khoản 1 Điều 121 Luật SHTT thì chủ sở hữu KDCN có thể

là cá nhân, tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ KDCN
hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN.
b. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp
- Quyền tài sản của chủ sở hữu:
3


Theo quy định tại Khoản 1 Điều 123 Luật SHTT thì chủ sở hữu KDCN có các quyền
sau: quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng KDCN; quyền ngăn cấm người khác sử
dụng KDCN; quyền định đoạt KDCN.
+ Quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng KDCN:
Các hành vi được coi là sử dụng KDCN được quy định tại Khoản 2 Điều 124 Luật
SHTT. Theo đó, chủ sở hữu có thể tự mình khai thác và sử dụng KDCN hoặc thông qua ủy
quyền cho người khác. Người khai thác muốn sử dụng KDCN đó thì phải có sự đồng ý, cho
phép của chủ sở hữu. Như vậy, quyền sử dụng này chỉ có duy nhất chủ sở hữu có quyền,
mọi hành vi sử dụng KDCN đã được bảo hộ mà không có sự cho phép của chủ sở hữu thì bị
coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN.
+ Quyền ngăn cấm người khác sử dụng KDCN:
Khi người khác sử dụng KDCN đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý, cho phép
của chủ sở hữu thì chủ sở hữu có quyền thực hiện việc ngăn cấm người đó sử dụng KDCN.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều có thể thực hiên quyền này, Khoản 2 Điều 125
Luật SHTT quy định trường hợp chủ sở hữu không có quyền ngăn cấm người khác thực
hiện hành vi sau:
• Sử dụng kiểu dáng công nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoăc mục đích phi
thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm,
sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu
hành sản phẩm.
• Sử dụng KDCN nhằm mục đích duy trì hoạt động của phương tiện vận tải của nước
ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam.
• Sử dụng KDCN do người có quyền sử dụng trước thực hiện.

+ Quyền định đoạt KDCN:
Có thể nói quyền định đoạt thể hiện rõ nhất quyền của chủ sở hữu đối với tài sản. Chủ
sở hữu KDCN có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hành vi chuyển quyền sở hữu
của mình cho người khác dưới hình thức ký kết hợp đồng bằng văn bản; từ bỏ quyền sở
hữu của mình đối với KDCN đó; để thừa kế cho những người khác sau khi chết; dịch
chuyển quyền do sự sáp nhập, hợp nhất…
- Quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả:
4


Quyền nhân thân của tác giả là quyền gắn liền với tác giả, không thể chuyển dịch và
được pháp luật bảo hộ vô thời hạn.
Tác giả của KDCN có thể là:
+ Tác giả đó đồng thời là chủ sở hữu văn bằng bảo hộ (tác giả đã tạo ra đối tượng đó
bằng công sức lao động cũng như kinh phí riêng của bản thân).
+ Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu văn bằng bảo hộ (tác giả tạo ra KDCN dựa
trên hợp đồng lao động, hợp đồng thuê hay tác giả đã chuyển giao KDCN đó cho người
khác thông qua hợp đồng chuyển nhượng).
Quyền nhân thân của tác giả bao gồm: ghi tên tác giả trong Sổ đăng kí quốc gia về các
đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ; ghi tên tác giả trong bằng độc quyền hay giấy
chứng nhận KDCN; được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới thiệu về KDCN.
Quyền tài sản của tác giả KDCN được quy định tài Điều 135 Luật SHTT đó là quyền
nhận thù lao từ chủ sở hữu KDCN theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đây là
lợi ích phát sinh từ việc sáng tạo ra KDCN, cũng là phần thù lao bù đắp cho sự nỗ lực sáng
tạo, cho lao động trí óc của tác giả, trả cho cả chi phí vật chất mà tác giả đã phải bỏ ra trong
suốt quá trình nghiên cứu như tiền mua nguyên vật liệu, thiết bị máy móc…trong trường
hợp tác giả sáng tạo ra KDCN một cách độc lập bằng kinh phí và trí tuệ của riêng mình và
sau đó chuyển giao quyền sở hữu đó cho người khác.
Ngoài ra, tác giả còn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng
của mình khi có bất kì hành vi xâm phạm đến quyền lợi của mình.

II. QUY TRÌNH XIN CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Theo quy định của pháp luật hiện hành mà cụ thể là tại Khoản 3 Điều 6 Luật SHTT và
Điểm 1.2 Mục 1 Thông tư 01/2007/TT- BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ khoa học và
công nghệ hướng dẫn nghị định số 103/2006/ NĐ- CP ngày 22/09/2006 thì quyền sở hữu
công nghiệp đối với KDCN được xác lập trên cơ sở quyết định của Cục SHTT về việc cấp
văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn đăng kí đối tượng đó.
Đăng kí kiểu dáng công nghiệp là thủ tục hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành thừa nhận với ý nghĩa thừa nhận quyền sở hữu đối với KDCN. Cần phải
đăng ký KDCN với Cục Sở hữu trí tuệ vì quyền của chủ sở hữu KDCN chỉ phát sinh trên
5


cơ sở Bằng độc quyền và trong thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu có độc quyền sử dụng, chuyển
giao. Như vậy mới có thể được bù đắp chi phí về vật chất, trí tuệ, được hưởng lợi nhuận từ
việc khai thác thành quả của mình.
Quy trình xin cấp bằng độc quyền thực hiện qua các khâu sau:
1. Chủ thể nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ đối với KDCN tại Cục SHTT
Theo quy định hiện hành, các chủ thể có quyền nộp đơn:
Thứ nhất, đối với KDCN được tạo ra khi tác giả thi hành nhiệm vụ do tổ chức mà tác
giả là thành viên giao cho hoặc được tác giả tạo ra chủ yếu do sử dụng kinh phí, phương
tiện vật chất của tổ chức thì quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ thuộc về tổ chức
giao việc hoặc cung cấp kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả.
Thứ hai, đối với KDCN được tạo ra do tác giả thực hiện hợp đồng thuê việc với tổ
chức, cá nhân khác thì quyền nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ thuộc về tổ chức, cá
nhân đã ký hợp đồng với tác giả, nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận khác.
Thứ ba, ở trường hợp thông thường thì đó là tác giả hoặc người thừa kế của tác giả.
Người có quyền nộp đơn yêu cầu bảo hộ KDCN có thể chuyển giao quyền nộp đơn cho
tổ chức, cá nhân khác, kể cả đơn đã nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ để đăng ký (Điều 86 Luật
SHTT). Trường hợp có sự đầu tư kinh phí của nhà nước thì quyền đăng ký của nhà nước

đối với việc tạo ra kiểu dáng công nghiệp tương ứng như đối với sáng chế (Điều 9 Nghị
định 103/2006/NĐ-CP).
Đơn đăng kí KDCN được quy định tại Điều 100 Luật SHTT, Mục 33 Thông tư 01/2007
và đơn đăng kí KDCN phải đảm bảo tính thống nhất theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3
Điều 101 Luật SHTT, Mục 33.2 Thông tư 01/2007.
2. Thẩm định hình thức đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp
Căn cứ vào Điều 109 Luật SHTT, Mục 34 Thông tư 01/2007 thì đơn yêu cầu cấp Bằng
độc quyền KDCN được thẩm định hình thức nhằm xác định xem đơn có hợp lệ không, mọi
thông tin cần thiết như tác giả kiểu dáng, người nộp đơn, quyền nộp đơn…đã được cung
cấp đầy đủ chưa? Có sai sót, phải sửa chữa gì không? Nếu đạt yêu cầu của đơn hợp lệ thì
Cục SHTT xác nhận ngày nộp đơn, số đơn hợp lệ, ghi nhận ngày ưu tiên của đơn và thông
báo cho người nộp đơn thông báo chấp nhận đơn hợp lệ. Thời hạn thẩm định hình thức đơn
là 01 tháng kể từ ngày nộp đơn.
6


3. Công bố đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp
Căn cứ vào Điều 110 Luật SHTT thì đơn đăng kí KDCN được Cục SHTT chấp nhận
hợp lệ được công bố trên Công báo SHTT. Lệ phí công báo do người nộp đơn đóng. Đơn
đăng kí KDCN đươc công bố trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày đơn được chấp nhận là
hợp lệ. Công bố đơn để mọi người đều có thể tiếp cận các thông tin về KDCN nêu trong
đơn. Lúc này, bất kì mọi người thứ ba nào cũng có quyền đưa ra ý kiến bằng văn bản đến
Cục SHTT về việc cấp hay không cấp bằng Độc quyền KDCN đối với đơn đó.
4. Thẩm định nội dung đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 114 và Mục 35 Thông tư 01/2007 thì thẩm định nội dung đơn
đăng kí KDCN hợp lệ là để đánh giá khả năng được bảo hộ của KDCN theo các điều kiện
bảo hộ, xác định phạm vi bảo hộ tương ứng.
Thẩm định nội dung được tiến hành để đánh giá các yêu cầu sau: sự tương tự của
KDCN, tính mới, tính sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp của KDCN theo quy định tại
Luật SHTT.

Một lưu ý là Cục SHTT có thể tra cứu thông tin về KDCN do các tổ chức, quốc gia
khác công bố trong vòng 25 năm trước ngày nộp đơn trong quá trình thẩm định nội dung
đơn.
Thời hạn thẩm định nội dung đơn đăng kí KDCN theo Điểm c Khoản 2 Điều 119 Luật
SHTT là không quá 07 tháng kể từ ngày công bố đơn. Đây là một trong những thay đổi
quan trọng của Luật sửa đổi Luật SHTT năm 2005. Thời hạn thẩm định đơn đăng kí KDCN
đã tăng từ 06 tháng lên 07 tháng. Việc điều chỉnh này nhằm tránh tình trạng hồ sơ đăng kí
bị tồn đọng, không đáp ứng theo thời hạn luật định.
5. Cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp và Đăng bạ
+ Nếu Cục SHTT ra thông báo dự định từ chối cấp văn bằng bảo hộ thì người nộp đơn
có quyền nêu ra ý kiến của mình trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày Cục SHTT ra thông
báo. Nếu ý kiến đó không xác đáng Cục SHTT sẽ tiến hành thủ tục từ chối cấp bằng bảo hộ
theo quy định tại Điều 117 Luật SHTT.
+ Căn cứ vào kết quả thẩm định nội dung, nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng các
tiêu chuẩn bảo hộ, thì Cục SHTT thông báo cho Người nộp đơn kết quả thẩm định và yêu
7


cầu nộp lệ phí đăng bạ, lệ phí cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, lệ phí
công bố Văn bằng bảo hộ .
Nếu người nộp đơn nộp các lệ phí nêu trên, thì Cục SHTT tiến hành các thủ tục cấp
Văn bằng bảo hộ cho Người nộp đơn trong vòng 10 ngày và ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc
gia về KDCN ( Điều 118 Luật SHTT), đăng bạ và công bố Văn bằng bảo hộ. Nếu Người
nộp đơn không nộp lệ phí theo yêu cầu, thì đơn coi như bị rút bỏ.
Nhìn chung thủ tục đăng kí quyền đối với KDCN cũng không quá phức tạp và khó
khăn, thời gian thẩm định và được cấp văn bằng bảo hộ đều được quy định nhằm tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho chủ thể đăng kí. Ví dụ như trước đây quy định thời gian tiến hành
đăng kí một KDCN là 12 tháng, nay còn khoảng 09 tháng.
III. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CẤP BẰNG ĐỘC
QUYỀN KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

1. Thực tiễn quy trình cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
Thứ nhất, công tác tiếp nhận đơn về kiểu dáng công nghiệp
Từ năm 2000 đến năm 2010 hoạt động xác lập quyền đối với sở hữu công nghiệp trong
đó có KDCN đã có những bước tiến đáng kể với chất lượng ngày càng được nâng cao và
cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiên cho người nộp đơn.
Theo Báo cáo công tác năm 2010, Bộ khoa học và công nghệ - Cục SHTT thì từ năm
2004 đến năm 2010 số lượng đơn yêu cầu bảo hộ KDCN liên tục gia tăng với tốc độ cao từ
972 đơn lên 1730 đơn. Từ năm 2005, từ khi có Luật SHTT thì số đơn đăng kí KDCN luôn
trên 1000 đơn.
Theo thống kê của Cục SHTT thì hiện có khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam đã và
đang là chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Những năm gần đây, số lượng các
doanh nghiệp trở thành chủ thể quyền sở hữu công nghiệp tăng mạnh thông qua đăng kí đối
tượng sở hữu công nghiệp, trung bình hằng năm tăng 20%.
Thứ hai, công tác xử lí đơn về kiểu dáng công nghiệp
Cũng theo báo cáo công tác năm 2010, Bộ khoa học và công nghệ - Cục SHTT thì
trong giai đoạn 2000 – 2010, số bằng độc quyền KDCN được cấp có xu hướng tăng. Cao
nhất là năm 2007 với 1370 Bằng độc quyền KDCN, thấp nhất năm 2001 với 376 bằng độc
quyền KDCN.
8


So với các năm trước thì kết quả xử lí đơn của năm 2007 đã có bước chuyển biến mạnh
mẽ, số lượng đơn xử lí và số Bằng độc quyền được cấp ra tăng vượt bậc. Đạt được kết quả
như vậy là do Cục SHTT đã tiến hành các biện pháp tổ chức, sắp xếp, bố trí nhân lực hợp
lí, bước đầu đưa định mức áp dụng vào công tác thẩm định.
Tuy nhiên, sau năm 2007 số bằng độc quyền được cấp có xu hướng giảm nhẹ do số đơn
đăng kí giảm.
Nhìn chung việc tiếp nhận, xử lí đơn KDCN được triển khai một cách đồng bộ. Công
tác tiếp nhận và xử lí đơn trong giai đoạn 2000 – 2010 đã thu đươc những kết quả khả quan.
Bên cạnh những thành tựu trên thì còn tồn tại một số vấn đề nan giải, đó là tốc độ xử lí

chưa tương xứng với tốc độ tiếp nhận đơn nên tình trạng tồn đọng đơn vẫn còn. Hiện nay,
Cục chỉ có 12 thẩm định viên KDCN mà trung bình hàng năm có hơn 1000 đơn đăng kí
KDCN, mặc dù Cục SHTT đã cố gắng đảm bảo chất lượng và tăng tốc độ xử lí đơn SHCN,
kể cả huy động cán bộ làm thêm ngày nghỉ, khắc phục bất cập về công nghệ thông tin, bộ
máy tra cứu, công tác tổ chức nhưng vẫn chưa khắc phục được tình trạng này.
2. Giải pháp hoàn thiện quy trình cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
- Thứ nhất, nâng cao nhận thức pháp luật, tăng cường phổ biến pháp luật về sở hữu
công nghiệp nói chung, kiểu dáng công nghiệp nói riêng cho các doanh nghiệp.
Cần phải tiến hành phổ biến, tuyên truyền kiến thức sở hữu trí tuệ cho các doanh
nghiệp, nhất là việc doanh nghiệp phải xác lập cơ sở vững chắc quyền sở hữu công nghiệp
cho doanh nghiệp mình bằng việc đăng kí bảo hộ. Đăng kí bảo hộ kịp thời các đối tượng
SHCN nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp trong lĩnh vực SHTT.
Chủ sở hữu KDCN cần nhận thức được vai trò của mình trong việc bảo hộ và thực thi
quyền của chủ sở hữu đối với KDCN. Chủ sở hữu KDCN phải chủ động nắm các quy định
của pháp luật để phòng chống các hành vi xâm phạm quyền.
- Thứ hai, tăng cường, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung, kiểu dáng công nghiệp nói riêng.
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng, trình độ pháp luật cho lực lượng
chuyên trách về sở hữu công nghiệp. Tổ chức hội thảo, mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng,
đào tạo nghiệp vụ, phổ biến pháp luật, kiến thức về sở hữu công nghiệp cho các Quản lí các
9


Bộ, các ngành, các địa phương về tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ trong việc xác lập quyền
và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp.
Tiếp tục tổ chức các khóa đào tạo thẩm định KDCN cho các cán bộ thẩm định viên của
Cục SHTT, tổ chức Khóa đào tạo về Kỹ năng giảng dạy cho các bộ Cục tham gia giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn.
Hạn chế những bất cập trong cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ trong các cơ quan thực thi
và cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp. Tăng cường hoàn thiện cơ sở vật chất

– kỹ thuật nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu hoạt động của các cá nhận, cơ quan, tổ chức tham
gia hoạt động bảo hộ pháp luật sở hữu công nghiệp.
- Thứ ba, đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi bảo hộ sở hữu công
nghiệp nói chung, kiểu dáng công nghiệp nói riêng.
Xây dựng hệ thống cơ chế giám sát mang tính liên ngành nhằm phòng, ngừa một cách
hiệu quả hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Cần phải có cơ chế phối hợp thích hợp, hiệu quả giữa các cơ quan thực thi, cơ quan
quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu KDCN. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chức
năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện tội phạm, xử lý kịp
thời, đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân được
biết.
Kết hợp chặt chẽ công tác bảo hộ với công tác chống buôn lậu, đặc biệt là chống buôn
lậu các mặt hàng giả, vi phạm quyền sở hữu KDCN.
Nhà nước cần đa dạng hóa hình thức thông tin về KDCN được bảo hộ tới các doanh
nghiệp để nhận biết sản phẩm nào đã được bảo hộ kiểu dáng, tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong quá trình bảo hộ sản phẩm, hàng hóa. Để làm tốt điều này, đòi hỏi
có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Nhà nước và các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về quy trình xin cấp bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp, chúng ta hiểu rõ hơn cách thức để các doanh nghiệp bảo vệ
quyền lợi của mình cũng như phòng chống các hành vi gian lận. Tuy nhiên cũng cần phải
hoàn thiện hệ thống bảo hộ KDCN vì một hệ thống bảo hộ hiệu quả đem lại rất nhiều lợi
ích cho xã hội.
10



×