Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.02 KB, 24 trang )

Tính cấp thiết của đề tài.
Trong vài ba thập kỷ gần đây, do sức ép về dân số và phát triển kinh tế,
hiện tượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường bị
suy thoái nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng bị phá huỷ hoàn toàn. Những
vấn đề môi trường toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzôn, đa dạng
sinh học giảm sút, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt ... đang là thách thức
đối với sự tồn tại của loài người. Do vậy, để duy trì chất lượng môi trường nhằm
hướng tới phát triển bền vững đang là yêu cầu đặt ra đối với toàn thế giới cũng
như mỗi một quốc gia.
Để phát triển bền vững đòi hỏi phải có cơ chế quản lý Nhà nước đồng bộ
và linh hoạt trên cả ba bộ phận cấu thành là: kinh tế, xã hội và môi trường. Hệ
thống quản lý Nhà nước về môi trường ở nước ta đã được thành lập: Bộ Tài
nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ này. Song, hiện
nay, các cơ quan quản lý môi trường cấp địa phương mới chỉ có tính kiêm nhiệm
và phần lớn mới chỉ được triển khai đến cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW và
cấp quận, huyện còn thiếu đi các cơ quan quản lý môi trường ở cấp thấp hơn
như phường, xã, làng ... trong khi đó môi trường cộng đồng thuộc những cấp
này lại là đầu nguồn phát sinh ô nhiễm.
Hiện nay, hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường hướng tới phát triển bền vững vẫn thiên về mệnh lệnh, kiểm soát
theo cách tiếp cận áp đặt các biện pháp hành chính nên ít có hiệu quả về kinh tế
và không khuyến khích được các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tích cực thực
hiện bảo vệ môi trường. Do vậy, đã có một số nghiên cứu đề xuất các giải pháp
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở nhiều góc độ khác nhau. Đây là một
cách tiếp cận phù hợp với xu hướng cải cách nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

1



Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc có diện tích tự nhiên là 803,6 km². Trong một số năm gần đây,
cùng với quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hàng hóa theo nhu cầu cơ chế
thị trường của cả nước, kinh tế của Bắc Ninh có những bước tăng trưởng đáng
khích lệ năm 2005, 2006 là 13,5%, năm 2007 là 15% công nghiệp phát triển với
tốc độ nhanh, thu hút nhiều các doanh nghiệp nước ngoài vào khu công nghiệp.
Trên địa bàn tỉnh có 4 khu công nghiệp tập trung đang hoạt động là: Quế
Võ, Tiên Sơn, Yên Phong, Đại Đồng - Hoàn Sơn, tiếp tục phát triển một số khu
công nghiệp như: Quế Võ II, Nam Sơn- Hạp Lĩnh, Việt Nam Singapo, tập đoàn
Hồng Hải, Yên Phong II, Thuận Thành I, II, III; quy hoạch 29 khu công nghiệp
vừa và nhỏ và có 62 Làng nghề, trong đó có 30 Làng nghề truyền thống đang
phát triển mạnh mẽ, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh công nghiệp và đến
2010 trở thành Thành phố trực thuộc trung ương.
Song, vấn đề quản lý môi trường hướng tới phát triển bền vững ở Bắc
Ninh chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, môi trường trong những năm gần
đây đang xuống cấp nghiêm trọng đặc biệt là môi trường làng nghề, môi trường
các cụm, khu công nghiệp tập trung ... có thể nói ô nhiễm môi trường ở Bắc
Ninh là một điển hình trong cả nước, hay nói cách khác môi trường ở tỉnh Bắc
Ninh đang ở cấp báo động đỏ. Tuy vậy, vẫn còn quá ít những nghiên cứu cơ bản
về lý thuyết cũng như phân tích cụ thể Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
ở tỉnh Bắc Ninh. Với mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực trạng công tác quản
lý Nhà nước về BVMT và trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, giải pháp và một số
kiến nghị để góp phần nhỏ vào việc nâng cao công tác quản lý Nhà nước về bảo
vệ môi trường tỉnh Bắc Ninh hướng tới phát triển bền vững, chúng tôi đã lựa
chọn đề tài: “ Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh .
Trong luận văn này, tác giả kết hợp các phương pháp: phương pháp khảo
sát, thu thập tài liệu, thông tin; phương pháp thống kê phân tích; phương pháp so
sánh; phương pháp chuyên gia để nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong công

2



tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm
1997 đến năm 2008.
Trong đó, chương I tác giả đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên
quan đến quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đó là:
Chương I: Một số vấn đề lý luận có liên quan đến quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường.
1.1. Nhận thức về môi trường: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên
và yếu tố vật chất nhân tạo, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
1.2. Bảo vệ môi trường là tất yếu khách quan nhằm hướng tới phát
triển bền vững:
- Phát triển bền vững: Định nghĩa của Liên Hợp Quốc ( UNEP): “Phát
triển bền vững là một sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá
nhân này không làm thiệt hại tới lợi ích của cá nhân khác, sự phát triển của cá
nhân không làm thiệt đến lợi ích cộng đồng, sự phát triển của cộng đồng người
này không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng người khác, sự phát triển của
thế hệ hôm nay không xâm hại đến lợi ích của các thế hệ mai sau và sự phát
triển của loài người không đe dọa sự sống còn hoặc làm suy giảm nơi sinh sống
của các loài khác trên hành tinh (các loài cộng sinh).
Hình: 2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.

3


Kinh tế

Xã hội


Phát triển
bền vững

Môi trường

- Cực môi trường: Trong bất kỳ phương án quy hoạch phát triển nào theo
hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối tác động qua lại giữa con người
và thiên nhiên sao cho sự phát triển kinh tế - xã hội không làm suy thoái hoặc
hủy diệt môi trường, ngăn chặn ô nhiễm.
- Cực kinh tế: Theo quan điểm phát bền vững thì sinh lực kinh tế của một
xã hội tùy thuộc vào khả năng giải quyết vấn đề giá trị thặng dư bằng cách sử
dụng giá trị thặng dư để trao đổi và bù đắp những thiệt hại do phát triển kinh tế
đơn thuần gây ra. Giá trị thặng dư có thể được tạo ra bằng cách nâng cao năng
suất, đổi mới công nghệ …
Cực xã hội: Sự phát triển kinh tế phải đi đôi phát triển xã hội, nghĩa là
nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người.
Tóm lại: Phát triển bền vững là một sự phát triển cân đối giữa ba cực tăng
trưởng kinh tế, xã hội và môi trường không được xem nhẹ cực nào.
Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển phát triển bền vững.
Mối quan hệ ngày càng phát triển sâu rộng;
Mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên, lâu dài và qua lại;
Giải quyết sự lựa chọn giữa phát triển và bảo vệ môi trường hướng tới
phát triển bền vững.

4


1.3. Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.
Bản chất quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường : Quản lí Nhà nước
về bảo vệ môi trường là quá trình Nhà nước bằng các cách thức, công cụ và

phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con người nhằm làm hài
hoà mối quan hệ giữa môi trường và phát triến sao cho vừa thoả mãn nhu cầu
về mọi mặt của con người vừa đảm bảo được chất lượng của môi trường sống.
Ngoài bản chất quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường còn có nhiều nội
dung liên quan đã được làm rõ như:
Tính tất yếu khách quan của quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường;
Ô nhiễm môi trường đe dọa đến sự sống của con người;
Sở hữu tài nguyên và môi trường thuộc Nhà nước;
Vai trò quản lý Nhà nước nhằm khắc phục những khiếm khuyết của
thị trường;
Các công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường: Công cụ chính
sách và pháp luật; Công cụ kinh tế; Công cụ kỹ thuật sử dụng cho quản lý bảo
vệ môi trường; Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.
1.4. Kinh nghiệm Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở một số
tỉnh của Việt Nam như: Tỉnh Hải Dương, Tỉnh Nghệ An, Tỉnh Hà Tây (trước
khi sát nhập về Hà Nội) từ đó rút ra bài học quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường ở tỉnh Bắc Ninh.
2. Thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc
Ninh.
2.1. Tác giả đi vào nghiên cứu tìm hiểu vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và chỉ ra những vấn đề môi trường cần phải
giải quyết ở tỉnh Bắc Ninh.
2.2. Thực trạng năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở
tỉnh Bắc Ninh.

5


Một là: Hệ thống quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc

Ninh.
Công tác quản lý Nhà nước về BVMT ở cấp tỉnh chịu trách nhiệm chính
là UBND tỉnh. Trong đó Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng
chuyên môn về quản lý Nhà nước, ngoài ra các Sở, Ban, Ngành theo chức năng
nhiệm vụ chuyên môn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác BVMT.
Trong đó, một số Sở thành lập phòng quản lý môi trường hoặc Thanh tra Sở làm
công tác quản lý Nhà nước về BVMT mang tính kiêm nhiệm theo ngành dọc.
Về ưu điểm: Sự phối kết hợp của các tổ chức, đoàn thể và các ngành chức
năng trong công tác bảo vệ môi trường đã được lồng ghép vào các hoạt động
chuyên môn.
Tổ chức, phối hợp thanh tra công tác quản lý bảo vệ môi trường liên
ngành đạt kết quả bước đầu.
Tồn tại : Đối với các cơ quan khác ngoài sở Tài nguyên và Môi trường,
hầu hết các Sở không có bộ phận chuyên trách làm công tác quản lý bảo vệ môi
trường. Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường, đội ngũ làm công tác chuyên
môn còn quá mỏng trong khi đó Bắc Ninh lại là tỉnh có rất nhiều làng nghề, khu
công nghiệp. Thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Sở, Ban, Ngành.
Tổ chức và nhân lực của các đơn vị thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về BVMT của các Sở, Ban, Ngành còn thiếu và chưa được đào tạo chuyên
môn; chức năng nhiệm vụ chồng chéo, phân công trách nhiệm giữa các cơ quan
chưa rõ ràng, cơ chế phối hợp chưa cụ thể. Công tác nghiên cứu khoa học, ứng
dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, công nghệ thân thiện với môi trường chưa
được quan tâm đúng mức.
Đầu tư cho BVMT còn thấp …
Hai là: Thực hiện chính sách, chiến lược và kế hoạch hoá bảo vệ môi
trường.

6



Thực hiện Nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ Tài chính, Sở Tài nguyên và
Môi trường đã phối hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ tham mưu cho Ban thường
vụ Tỉnh uỷ xây dựng Chương trình số 80- CTr/TU ngày 27/5/2005 của Tỉnh uỷ
về thực hiện Nghị quyết số 41 – NQ/TW của Bộ Chính trị.
Đã xây dựng đề án “Quy hoạch môi trường tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 20062020 và kế hoạch bảo vệ môi trường giai đoạn 2006 - 2010 trình UBND tỉnh
phê duyệt tại quyết định số 2218/QĐ- CT ngày 11/11/2005” Đây là một tài liệu
tương đối đầy đủ về quy hoạch bảo vệ môi trường giai đoạn 2006- 2010 cho các
ngành: Giao thông, Du lịch, Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, các khu công
nghiệp, môi trường nông thôn, các làng nghề và cụm Làng nghề tập trung.
Hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường: Trong thời gian 2001-2006, dự án
môi trường Việt Nam – Canada giai đoạn 2 về tăng cường năng lực Nhà nước về
môi trường đã được triển khai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, Sở Tài
nguyên và Môi trường đang tiếp tục triển khai giai đoạn 3 của dự án từ năm
2008-2013.
Ba là: Thực hiện quan trắc môi trường và kiểm soát ô nhiễm, giám
sát môi trường, giáo dục môi trường.
Bốn là: Thực hiện các công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường như: Công cụ kinh tế, Công cụ pháp luật, Công cụ giáo dục tuyên
truyền, Công cụ kỹ thuật.
Năm là: Đánh giá năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.
Cơ cấu tổ chức:
Ngày 2/4/2003 Thủ Tướng Chính Phủ đã ra quyết định số: 45 /2003/ QĐ TTg về việc thành lập các Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND tỉnh trên
cơ sở hợp nhất tổ chức của Sở Địa chính hoặc ( Sở Địa chính- Nhà đất ) và các
tổ chức thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, môi trường,
khí tượng thuỷ văn, đo đạc bản đồ trên địa bàn tỉnh.
Hình: 2.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Tài nguyên và Môi trường:

7



Giám Đốc
Các phòng chức năng

Các Phó Giám Đốc

Đơn vị sự nghiệp
TT kỹ thuật và
TNMT

Văn phòng Sở
Thanh tra Sở

Văn phòng ĐK
Quyền SD Đất.

Phòng QLKH

TT Phát triển Quỹ
Đất

Phòng ĐKĐĐ
Phòng Môi trường

TT Quan trắc và
Phân tích MT

Phòng KS nước và Khí
Tượng TV

Nguồn: Báo cáo đánh giá thể chế các sở Tài nguyên và Môi trường năm 2008

Từ cơ cấu tổ chức quản lý, số nhân lực hiện có cho ta thấy: Các điều kiện
thuận lợi như diện tích tỉnh nhỏ, dân số ít, . . mang lại cho Bắc Ninh rất nhiều lợi
thế để có được cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, dễ triển khai thực hiện việc kiểm soát
các hoạt động môi trường. Số dân có mức thu nhập cao hơn bình quân của cả
nước là 1.5 lần ( số liệu ĐH Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII năm 2010) tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đào tạo, tuyên truyền về nhận thức môi trường, đồng thời dân
chúng có khả năng trả và sẵn lòng chi trả các chi phí bảo vệ môi trường.
Bên cạnh những thuận lợi, việc quản lý BVMT gặp không ít khó khăn: số
lao động được biên chế thấp so với nhân lực hiện có chỉ bằng 25,3% , (tỷ lệ so
sánh giữa lao động được biên chế và số lao động hợp đồng) hiệu quả công việc,
trách nhiệm của những người làm hợp đồng không được cao.
Thực tế nhiều làng nghề hiện tại chưa có cán bộ chuyên trách làm công
tác quản lý BVMT, nếu có thì số lao động này chưa được đạo tạo, năng lực còn
hạn chế.

8


Năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ nhân viên và bộ máy quản lý.
Thực tế hiện nay, Năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường của
đội ngũ cán bộ nhân viên còn nhiều hạn chế về phương pháp, cách thức thực
hiện quản lý dẫn tới việc ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục bị
xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt ở các khu vực làng nghề như làng nghề như
sản xuất giấy Đống Cao- Phong Khê; đúc Nhôm, Chì ở Văn Môn; sản xuất rượu
ở Đại Lâm; sản xuất thép ở Đa Hội …
Năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường không đáp ứng kịp với
việc phát triển kinh tế như phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị hóa …
Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý hạn chế. Bởi vì, họ không được
đào tạo lại kịp thời, thường xuyên. Hơn nữa tinh thần trách nhiệm của cán bộ
quản lý cấp thôn, xã đối với công tác bảo vệ môi trường chưa cao .

Việc thực hiện nhiệm vụ Nhà nước về công tác quản lý bảo vệ môi
trường.
Kết quả đạt được
Hàng năm Sở, Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện và hướng dẫn thực
hiện được nhiều văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý bảo vệ môi
trường.
Về xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường:
Sau khi thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường, bên cạnh việc tăng
cường và hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường thuộc sở, hệ thống
quản lý Nhà nước về môi trường đã được hình thành đến cấp huyện một số
huyện đã bố trí cán bộ giúp UBND cấp xã quản lý môi trường.
Bên cạnh việc thực hiện các chủ trương, chính sách, việc tổ chức triển
khai thực thi các văn bản này đã được các cấp, các ngành chú trọng. Một số đề
án, dự án, mô hình nhằm ngăn ngừa, ứng phó khắc phục ô nhiễm, suy thoái và
sự cố môi trường đã được triển khai thực hiện.

9


Công tác quan trắc và giám sát môi trường đã đặt trọng tâm vào các khu
công nghiệp như khu công nghiệp Quế Võ I, II, Yên Phong, Từ Sơn, các lưu vực
sông bị ô nhiễm nặng như sông Ngũ Huyên Khê và các làng nghề. Qua đó cung
cấp các thông tin cần thiết cho công tác giáo dục truyền thông, xây dựng các
chương trình, dự án khắc phục ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước thuộc
khu vực sông Ngũ Huyện Khê.
Công tác hướng dẫn lập báo cáo đánh giá ĐTM đối với các dự án đầu tư
đã cơ bản được hoàn thành việc lập và tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác
động môi trường. Từ năm 2006 đến nay Sở Tài nguyên và Môi trường đã tổ
chức hội đồng thẩm định và phê duyệt 235 báo cáo đánh giá tác động môi
trường của các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đảm bảo chất lượng và

đáp ứng tiến độ thời gian của các dự án đầu tư.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường cũng được đẩy mạnh, đã tổ chức các cuộc thanh tra trên toàn diện rộng
(thanh tra liên ngành) về bảo vệ môi trường mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc
bảo đảm thực thi pháp luật về môi trường xã hội, đặc biệt là trong các doanh
nghiệp.
Việc tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thiết lập.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhân thức và ý thức về bảo vệ môi
trường được đặc biệt coi trọng.
Hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường đã không ngừng được củng cố
và phát triển. Trong giai đoạn 2001- 2006, dự án môi trường Việt Nam – Canada
giai đoạn II về tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về Bảo vệ môi trường đã
được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay Sở Tài nguyên và Môi
trường đang tiếp tục triển khai giai đoạn III của dự án 2008- 2013.

10


Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đã tiếp cận với các tổ chức chính phủ
và phi chính phủ của các nước Cộng Hoà Séc, Canada, Hàn Quốc, Đức… về
nghiên cứu mô hình quản lý môi trường cộng đồng tại các làng nghề.
Hạn chế và nguyên nhân:
Hạn chế: Bên cạnh những việc đã làm được, công tác quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém và đang tồn tại nhiều vấn đề cần được
giải quyết một cách tích cực trong thời gian tới.
Tình trạng suy thoái môi trường đang có chiều hướng gia tăng, một số nơi
tình trạng ô nhiễm môi trường đất, mặt nước, nước ngầm, không khí đã ở mức
báo động. Đặc biệt là ở các làng nghề và cụm công nghiệp làng nghề.
Nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường có chuyển biến, song

nhìn chung còn rất hạn chế. Công tác truyền thông môi trường của các ngành,
các cấp và các tổ chức đoàn thể đã được triển khai nhưng hiệu quả chưa cao.
Nội dung, hình thức, phương pháp truyền thông chưa phong phú. Các hoạt động
truyền thông mới chỉ dừng lại ở các đợt kỷ niệm, các chiến dịch
Việc sắp xếp kinh phí cho các dự án đầu tư cho công tác bảo vệ môi
trường còn thấp, kể cả khu công nghiệp chưa đầu tư theo dự án được duyệt. Hầu
hết các khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề không được
đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Một số khu, cụm công nghiệp có quy hoạch và đầu tư hạ
tầng trong quá trình tổ chức thi công đã không xây dựng đồng bộ các công trình
xử lý nước thải tập trung, khu vực trung chuyển chất thải rắn.
Việc áp dụng các công nghệ xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường của
các doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc. Trách nhiệm xử lý chất thải của
chủ doanh nghiệp chưa cao. Một số doanh nghiệp đã đầu tư hoặc được các dự án
hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống xử lý môi trường nhưng không vận hành, vận
hành không thường xuyên hoặc đã bị tháo dỡ nên hiệu quả xử lý môi trường
thấp.

11


Quản lý môi trường chưa được đánh giá đúng mức cho nên trong quá
trình thực hiện còn bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực
tiễn. Cụ thể là chậm có chiến lược dài hạn, kế hoạch giải quyết cho từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quản lý môi trường chưa trở thành một
công tác có tính kế hoạch hoá, đây chính là nguyên nhân cơ bản làm cho công
tác quản lý môi trường gặp nhiều khó khăn, phải thường xuyên đối phó tình
huống, và cũng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư công tác quản lý môi trường
không hiệu quả.
Sự chậm chễ trong quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch và phát triển
kết cấu hạ tầng, quy hoạch xây dựng khu dân cư và đặc biệt là quy hoạch xây

dựng các công trình về bảo vệ môi trường. Tình trạng phát triển tự phát của các
hộ, cơ sở ngành nghề và các loại hình ngành nghề ở hầu hết các xã nghề, làng
nghề. Việc lựa chọn ngành nghề, mặt hàng sản xuất kinh doanh cũng như việc
sử dụng công nghệ, nguyên liệu, nhiên liệu… hoàn toàn do các hộ, cơ sở ngành
nghề quyết định. Đây là một trong những nguyên nhân làm tăng ô nhiễm môi
trường, đồng thời là một trở ngại lớn cho việc quản lý, kiểm soát, giảm thiểu tác
hại môi trường.
Kinh tế ngày càng phát triển, ô nhiễm môi trường là điều tất yếu, trong
khi bộ máy quản lý về môi trường ở cấp vĩ mô và vi mô không hề thiếu nhưng
còn thiếu kiến thức khoa học - công nghệ tiên tiến, thiếu phương tiện, thiết bị
máy móc hiện đại để nghiên cứu, các trạm thông tin, xử lý thông tin.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về
bảo vệ môi trường chưa thường xuyên.
Sự phối kết hợp của các ngành, các cấp trong công tác quản lý bảo vệ môi
trường chưa chặt chẽ và không thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở cấp huyện, cấp xã còn nhiều hạn
chế, chưa kiên quyết.

12


Chính quyền địa phương các cấp chưa tham gia tích cực vào công tác
quản lý môi trường. Số lượng và trình độ cán bộ làm công tác quản lý môi
trường cấp huyện, xã chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về công tác bảo vệ
môi trường tại địa phương.
Việc chỉ đạo, kiểm tra công tác thực hiện quy hoạch đầu tư hạ tầng phát
triển khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề còn nhiều bất
cập. Nhiều công trình xây dựng nhà ở, văn phòng đại diện trong các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp không tuân thủ theo đúng quy định.
Các khu, cụm công nghiệp làng nghề đang hoạt động không có bộ máy

quản lý chuyên trách. Ban quản lý cụm công nghiệp các địa phương hoạt động
theo chế độ kiêm nhiệm, không kiểm soát được hoạt động phát thải của các
doanh nghiệp.
Kinh phí sự nghiệp môi trường từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp để thực
hiện các dự án không đáng kể.
Nguyên nhân khách quan : quá trình hình thành và phát triển hệ thống
làng nghề tỉnh Bắc Ninh mang tính lịch sử, lâu đời.
Một số lượng lớn các làng nghề sản xuất các sản phẩm hàng hóa từ nguồn
nguyên liệu tái sử dụng. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm gia
tăng nguồn ô nhiễm tại các làng nghề.
Các cơ sở sản xuất và hộ gia đình trong các làng nghề phát triển một cách
tự phát theo nhu cầu của cơ chế thị trường, không tuân theo quy hoạch, chủ yếu
sử dụng diện tích đất ở của gia đình và sử dụng lực lượng lao động tại chỗ,
không qua đào tạo, chủ yếu thông qua phương thức truyền nghề nên không nắm
được kỹ thuật và công nghệ hiện đại ít ảnh hưởng tới môi trường..
Việc thực hiện và hướng dẫn cấp dưới thực hiện các văn bản bảo vệ môi
trường ban hành còn chậm, chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế, xã hội
trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thị trường.

13


Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường ở tỉnh Bắc Ninh.
Sự bất cập giữa tốc độ phát triển kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật cho bảo vệ môi trường.
Việc tăng dân số nhanh là áp lực cho việc giải quyết các vấn đề chung
như nhu cầu về lương thực, tư liệu tiêu dùng đặc biệt là vấn đề về nước sạch, xử
lý và thu gom rác thải sinh hoạt…
Quá trình đô thị hoá nhanh chóng đã biến thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ

Sơn, và một số huyện như Quế Võ, Yên Phong … thành một công trường xây
dựng khổng lồ. Người dân đổ phế thải, vật liệu bừa bãi xuống ao hồ, thậm chí
xuống sông, kênh làm hạn chế dòng chảy trong thời gian qua khá trầm trọng, đã
gây ra những hậu quả nghiêm trọng tới môi trường.
Vốn ngân sách cấp cho quản lý bảo vệ môi trường còn thiếu.
Đến nay các chất thải rắn chưa được phân loại trước khi đem đi để xử lý.
Quy trình xử lý ở các bãi rác vẫn là chôn lấp.
Nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường có chuyển biến, song nhìn
chung còn hạn chế…
3. Quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh.
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp.
Thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường tại tỉnh Bắc Ninh.
Nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường của tỉnh Bắc Ninh.
3.2.Quan điểm và định hướng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường.
Một là: Thường xuyên giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và bảo vệ môi trường – một trong những điều kiện tiên quyết cho phát
triển bền vững.

14


Biết tôn trọng các quy luật tự nhiên. Áp dụng các công nghệ tiên tiến,
thay thế và sử dụng tổng hợp các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng, …
Bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách
rời của quá trình phát triển. Đồng thời, tích cực và chủ động ngăn chặn, phòng
ngừa những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra.
Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu
của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.

Thế hệ hiện nay cần phải tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt
đẹp cho những thế hệ mai sau, đồng thời cố gắng sử dụng tiết kiệm những tài
nguyên không thể tạo ra được.
Để phát triển vững chắc và bền vững, chúng ta cần ưu tiên thực hiện một
số vấn đề sau:
Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không
ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Thay đổi mô hình sản xuất và mô hình tiêu dùng theo hướng thân thiện
với môi trường, dựa trên cơ sở tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo
được, giảm tối đa việc thải các chất độc hại và khó phân huỷ vào môi trường,
duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hoà với thiên nhiên.
Thực hiện quá trình “Công nghiệp hoá sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu
phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ,
thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử
lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “Công nghiệp xanh”.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản
xuất ngày càng nhiều hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, phải bảo đảm an
toàn thực phẩm…

15


Tiếp tục thực hiện chính sách tăng dân số nhằm giảm bớt sức ép của tăng
trưởng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, chăm sóc sức khoẻ, học hành và
đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái.
Nâng cao năng lực quản lý, giám sát môi trường, phục vụ mục tiêu phát
triển bền vững.
Hai là: Hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở cấp
cơ sở cấp phường, xã.

Tạo lập cơ quan chuyên môn để giúp UBND cấp xã, phường thực hiện có
kết quả chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn hành
chính theo Pháp luật bảo vệ môi trường quy định và trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn
xử lý những vấn đề môi trường thực tế đặt ra.
Trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây dựng, triển khai các chương
trình, dự án, đề tài nghiên cứu các ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống, xử lý các vấn đề môi trường và bảo vệ môi
trường trên địa bàn.
Đối với cấp xã, phường, do tính chất, đặc điểm của chính quyền xã,
phường, là cấp chính quyền cơ sở – trực tiếp liên quan đến môi trường, nhất là
vấn đề giác thải, nước thải, vệ sinh môi trường đặt ra ngày càng bức bách và nan
giải. Vì vậy, yêu cầu tăng cường công tác quản lý Nhà nước về môi trường ở cấp
phường, xã trong thời kỳ CNH- HĐH là hết sức cần thiết.
Về tổ chức: Theo hướng dẫn của thông tư liên tịch số 01/2003/TTLTBTNMT – BNV; phân công 1-2 cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm về môi
trường và có một thành viên UBND hoặc tốt nhất là 01 phó chủ tịch phụ trách.
Tuy nhiên, theo tôi cần phải thống nhất về mô hình tổ chức cơ cấu quản
lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở cấp xã, phường như sau: toàn bộ chính
quyền xã, phường thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về môi trường trên địa
bàn hành chính của mình gồm cả HĐND và UBND phường, xã làm chức năng

16


quản lý Nhà nước về môi trường theo quy định của luật bảo vệ môi trường,
trong đó chủ yếu và trực tiếp là UBND.
Để UBND thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các lĩnh vực nói chung
thì vấn đề cơ bản là sử dụng bộ máy cộng đồng làm công tác bảo vệ môi trường
trên địa bàn.
Về cán bộ phụ trách: bộ phận này có thể thuộc Ban văn hoá, xã hội và
môi trường hoặc lồng ghép với y tế, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư do 1

phó chủ tịch UBND xã, phường phụ trách lĩnh vực văn hoá xã hội và môi trường
trực tiếp chỉ đạo. Hoặc nếu chưa có đủ khả năng có cán bộ chuyên trách thì cán
bộ kiêm nhiệm về công tác môi trường cấp xã, phường và được hưởng suất phụ
cấp trách nhiệm đó.
Đối với cán bộ kiêm nhiệm làm công tác môi trường cấp xã, phường:
được hưởng định suất phụ cấp trách nhiệm theo mức hiện hành, do ngân sách
Nhà nước cấp, hoặc có thể được hưởng 1-2 định suất sinh hoạt 09/CP của Chính
phủ.
Về nội dung hoạt động: Theo hướng dẫn thông tư liên tịch số
01/2003/TTLT – BTNMT – BNV, cán bộ địa chính xã, phường giúp UBND xã,
phường thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi xã,
phường chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở
Tài nguyên và Môi trường và cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp huyện quản
lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Ba là: Coi trọng và sử dụng đúng mức các công cụ quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một nội dung quan trọng của
phát triển bền vững. Ý nghĩa và vai trò của công tác quản lý, bảo vệ môi trường
ngày càng tăng lên cùng với đà tăng của các hoạt động kinh tế. Tác dụng và hiệu
quả của công tác quản lý, bảo vệ môi trường phụ thuộc chủ yếu vào hành vi của
các chủ thể hoạt động kinh tế. Để điều chỉnh hành vi này trong quản lý, người ta

17


thường sử dụng phối hợp các công cụ quản lý môi trường. Tựu chung lại có 4
công cụ chính: công cụ pháp luật, công cụ kinh tế, công cụ giáo dục và truyền
thông, công cụ kỹ thuật.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh.

Một là: Sắp xếp hợp lý công tác cán bộ quản lý bảo vệ môi trường.
Cũng giống như nhiều địa phương khác trong cả nước, tỉnh Bắc Ninh
chưa thành lập được mạng lưới cơ quan quản lý môi trường ở cấp phường, xã
đến các thôn/ làng nghề hoặc chưa có cán bộ chuyên trách quản lý môi trường
mà vẫn mang tính chất kiêm nhiệm. Do vậy, công tác quản lý môi trường của
các phường, xã và làng nghề vẫn còn hoạt động chưa có hiệu quả, nhất là những
huyện, thị có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh như TP Bắc Ninh, huyện Từ
sơn, Tiên Du và Quế Võ. Việc tăng cường biên chế cán bộ quản lý bảo vệ môi
trường, thậm chí nếu có thể còn quy định bố trí cán bộ chuyên trách quản lý bảo
vệ môi trường tại các phường, xã và các làng nghề với những yêu cầu, nhiệm vụ
cụ thể là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng đến việc phát triển
mạng lưới quản lý tại các xã có làng nghề đang hoạt động.
Vậy việc sắp xếp đội ngũ cán bộ quản lý một cách hợp lý mang tính chất
quyết định đến công tác quản lý bảo vệ môi trường địa phương.
Hai là: Tăng cường vai trò, nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn.
Chủ động giải quyết những vấn đề môi trường phát sinh ở địa phương và
phối hợp với địa phương lân cận cùng giải quyết nếu xẩy ra những vấn đề môi
trường có liên quan. Trong trường hợp phức tạp quá khả năng của địa phương
phải báo cáo với cơ quan quản lý bảo vệ môi trường quốc gia phối hợp cùng giải
quyết.
Do còn một số bất cập trong quá trình quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường nhất là sự chồng chéo trong vấn đề quản lý, phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp và các làng nghề truyền thống giữa các Bộ, Ngành như

18


: Bộ NN và PTNT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường …
Các hệ thống chính sách và kế hoạch chưa được thống nhất dưới một cơ quan
quản lý Nhà nước chuyên trách. Với việc phân công này thì vai trò chính của Sở

Tài nguyên và Môi trường sẽ được xác lập. Từ đó việc xây dựng các quy định về
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường sẽ được Sở Tài nguyên và Môi trường
soạn thảo trình UBND tỉnh phê duyệt. Cũng theo đó việc phân cấp quản lý đến
cấp huyện, thị xã và phường sẽ được dễ dàng hơn.
Tăng cường vai trò của UBND các cấp ở địa phương trong việc điều phối
các hoạt động quản lý bảo vệ môi trường làng nghề. Định hướng này xuất phát
từ chỗ làng nghề có quan hệ trực tiếp với các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương.
Ba là: Nâng cao năng lực cán bộ quản lý môi trường cấp tỉnh, huyện, xã.
Trên cơ sở các vấn đề môi trường đặc thù của địa phương, cơ quan quản
lý bảo vệ môi trường các cấp tiếp tục nghiên cứu, vận dụng luật bảo vệ môi
trường, nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ Chính trị, chương trình số 80- Ctr/TU
ngày 27/5/2005 của tỉnh ủy Bắc Ninh và các văn bản khác có liên quan đồng
thời chú trọng hướng dẫn cơ quan cấp huyện, thị, phường và xã thực hiện quản
lý trên địa bàn.
Hơn nữa, để nâng cao năng lực cán bộ quản lý bảo vệ môi trường ở các
cấp địa phương (cấp tỉnh, huyện và xã) cần quan tâm tới các nội dung sau:
Kiện toàn và nâng cao chất lượng của hệ thống bộ máy tổ chức quản lý
môi trường của các ngành, các cấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
công tác bảo vệ môi trường.
Bằng nhiều hình thức khác nhau trang bị những kiến thức bảo vệ môi
trường cho cán bộ quản lý.
Một trong những khó khăn, hạn chế của nhiều cán bộ, quản lý hiện nay là
bận rộn nhiều việc, thiếu thời gian, vật chất. Do vậy, ngoài những kiến thức về
bảo vệ môi trường được trang bị ở các khóa, các lớp đào tạo, bồi dưỡng hoặc

19


thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cán bộ cần được trang bị

những kiến thức cập nhật, chọn lọc chuyên sâu về vấn đề bảo vệ môi trường.
Điều này giúp cho cán bộ quản lý bảo vệ môi trường thường xuyên có kiến thức
cần thiết về bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao năng lực để xử lý kịp thời
những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong quá trình quản lý ở địa phương.
Mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý bảo vệ môi trường
cho cán bộ quản lý. Cần tổ chức các lớp học riêng chuyên đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ các kiến thức về bảo vệ môi trường. Các cơ quan quản lý môi trường
tư vấn cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể về nội dung chương trình.
Tùy từng đối tượng, đặc điểm địa bàn hoạt động mà lớp học đi sâu vào các vấn
đề khác nhau. Trong quá trình học, nên tổ chức cho họ vừa học vừa đi dã ngoại,
tham quan về môi trường.
Có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ làm tốt công tác
quản lý bảo vệ môi trường.
- Xác định vai trò chính yếu của UBND địa phương trong việc ban hành
và tổ chức, phối hợp thực hiện, kiểm tra, giám sát các nội quy, quy chế bảo vệ
môi trường.
Bốn là: Hoàn thiện các công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
hướng tới phát triển bền vững:
Chuyển dần quản lý môi trường từ các biện pháp điều hành kiểm soát
sang các biện pháp kinh tế, các chính sách khuyến khích đầu tư cho quản lý bảo
vệ môi trường:
Xã hội hóa bảo vệ môi trường. Nhà nước định ra các chính sách để huy
động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức dân sự và doanh nghiệp tham gia
bảo vệ môi trường.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường phải tuân theo nguyên tắc phát
triển bền vững.

20



Trên cơ sở nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững, quản lý Nhà
nước cần triển khai phát triển bền vững vào trong mọi hoạt động của đời sống xã
hội, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội.
Trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường sử dụng tổng hợp
các công cụ, các biện pháp. Việc sử dụng các công cụ kỹ thuật, công nghệ trong
quản lý bảo vệ môi trường là vô cùng quan trọng. Vì nhờ công cụ này chúng ta
mới có thể đánh giá được thực lực, thực trạng về bảo vệ môi trường.
Trong quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, việc sử dụng các công cụ
và kèm theo các chính sách xã hội là điều kiện tất yếu. Bởi vì chỉ có luật pháp
mới cho phép quản lý Nhà nước thực hiện một cách công bằng và bình đẳng các
nguyên tắc phát triển bền vững.
Việc sử dụng công cụ pháp luật trong quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường cũng đồng nghĩa với việc cưỡng chế, bắt buộc.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường cần quán triệt sâu sắc vai trò của
môi trường, mối quan hệ giữa con người với xã hội và tự nhiên, từ đó phát huy
tính tự giác và nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Có cơ chế để hoàn thiện hệ thống quan trắc, phân tích môi trường, cơ chế
giám sát thanh tra việc tuân thủ quy trình bảo vệ môi trường.
Mỗi một công cụ quản lý chỉ có một số chức năng và phạm vi hoạt động
nhất định. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải liên kết chúng lại với nhau một cách
thích hợp, để chúng có thể hỗ trợ nhau. Muốn vậy, trước hết phải hoàn thiện các
công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường sao cho kịp với đà phát triển
kinh tế ngày một nhanh và ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp.
Năm là: Tăng cường vai trò công tác quản lý Nhà nước BVMT ở các Sở,
Ban, Ngành ngoài sở Tài nguyên và Môi trường.
Vai trò của các Sở, Ban, ngành trong quản lý BVMT là hết sức quan trọng
trong việc chỉ đạo chấp hành nghiêm chỉnh Luật BVMT thuộc các Sở, Ban,

21



Ngành mình theo chức năng chuyên môn, phân công cán bộ có chuyên môn làm
nhiệm vụ chuyên trách về BVMT.
Do tính chất cấp bách của công tác BVMT đồng thời để đảm bảo thực
hiện BVMT ngay từ khâu lập dự án ở mỗi một lĩnh vực (Sở, Ban, Ngành) thì
cần có sự đánh giá tác động môi trường trước khi đưa vào triển khai thực hiện.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về công tác quản lý bảo vệ môi
trường ở cấp địa phương.
KẾT LUẬN
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một nội dung quan trọng trong
chiến lược và kế hoạch phát triển bền vững của mỗi một địa phương. Nếu không
đặt đúng vị trí của bảo vệ môi trường thì không thể đạt được mục tiêu phát triển
và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Thực tế cho thấy quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc sử dụng
các nguồn tài nguyên một cách hợp lý và luôn giữa được môi trường ở trạng thái
cân bằng.
Trong những năm qua hoạt động bảo vệ môi trường ở Bắc Ninh đã từng
bước đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu, góp phần vào những thành tựu to lớn
của thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên vấn đề bảo vệ môi trường ở Bắc Ninh hiện chưa
đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới.
Nhìn chung môi trường ở Bắc Ninh tiếp tục bị ô nhiễm suy thoái, có nhiều làng
nghề, con sông còn bị ô nhiễm nghiêm trọng. Việc kiện toàn cơ quan quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường ở cấp cơ sở là cần thiết, ở tại những địa bàn mà
vấn đề môi trường đang nổi lên một số bức xúc như làng nghề sản xuất giấy
Đống Cao, đúc nhôm, đồng Đại Bái . . .
Chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, khả năng tiếp thu và
vận dụng những kiến thức về việc sử dụng các công cụ trong quản lý bảo vệ môi
trường, đây là khiếm khuyết lớn cần được khắc phục. Khoa học môi trường còn
mới mẻ, sự thiếu hụt của đội ngũ cán bộ này thể hiện ở cả lực lượng hiện có còn


22


rất ít cũng như sự bổ sung trong một số năm tới vì có ít khoa ở các trường Đại
học đào tạo.
Tư tưởng xã hội hóa bảo vệ môi trường còn hạn chế. Vì vậy việc hoàn
thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phải thấm nhuần
tư tưởng xã hội hóa của Đảng. Đặc biệt là công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường
ở cơ sở. Thực hiện xã hội hóa bảo vệ môi trường chính là dựa vào nhân dân,
phát huy sức mạnh của toàn dân để phát triển lĩnh vực này nhằm đáp ứng yêu
cầu của nhân dân được hưởng thụ một môi trường sống trong lành hơn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại trên là do bộ máy
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường hiện nay bất cập, không phù hợp với
điều kiện phát triển hiện tại cũng như phục vụ cho chiến lược đi tắt đón đầu của
Đảng đề ra. Một trong những điều kiện quan trọng để việc bảo vệ môi trường
hiệu quả cần phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ thống nhất và hợp lý có hệ
thống các cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường phù hợp, hữu hiệu để phát
huy hết vai trò rõ ràng, mạch lạc. Chế độ thưởng phạt hết sức nghiêm minh.
Sự phối kết hợp công tác kiểm tra, giám sát môi trường liên ngành trong
công tác quản lý bảo vệ môi trường còn hạn chế.
Với những điều đã trình bày, phân tích và nhận xét ở trên, tác giả xin nêu
một số khuyến nghị cụ thể như sau:
1- Công tác tuyên truyền: Đề nghị Ban tuyên giáo Tỉnh ủy chỉ đạo Đài phát
thanh truyền hình tỉnh Bắc Ninh xây dựng chuyên mục bảo vệ môi trường phát
định kỳ 1 lần/tuần
2- Xây dựng quy chế làm việc với Cảnh sát môi trường nói riêng và quy
chế làm việc liên ngành nói chung trong công tác quản lý BVMT
3- Công tác quy hoạch cần đảm bảo tỷ lệ cây xanh các khu, cụm công
nghiệp, khu đô thị. Sớm đầu tư theo quy hoạch các hộ sinh thái trong thành phố
Bắc Ninh và hệ thống thoát nước đô thị.


23


4- Cần có sự kiểm tra, củng cố bộ máy tổ chức ban quản lý các khu, cụm
công nghiệp và sớm xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng xử lý môi trường.
5- Các huyện, thị, thành phố cần phải tăng cường số lượng cán bộ làm công
tác môi trường cấp huyện/ xã.
6- Tăng cường kinh phí đầu tư cho các dự án xử lý ô nhiễm môi trường tập
trung các làng nghề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cân đối từ đầu năm kinh
phí 1% cho sự nghiệp môi trường để phân bổ thực hiện có hiệu quả.
7- Cần nghiên cứu đề xuất xây dựng cơ chế và trách nhiệm rõ ràng đối với
chủ tịch huyện/ thị, xã/ phường trong chức năng kiểm tra, giám sát, chức năng
ĐTM của các dự án sẽ được sẽ được thực thi trên địa bàn. Kịp thời xử lý ngay vi
phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
8- Nghiên cứu, thử nghiệm thiết lập nhiều hơn nữa mô hình công tác xã
hội hóa công tác tổ chức bảo vệ môi trường, gắn quản lý Nhà nước với các hoạt
động của các tổ chức đoàn thể để tăng cường tuyên truyền vận động nhân dân để
mọi người hiểu và tham gia làm tốt công tác bảo vệ môi trường.
9- Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý bảo vệ môi trường
10-

Nghiên cứu phân cấp mạnh hơn nữa nhiệm vụ cho cấp cơ sở

huyện/thị; xã/phường. Tăng nguồn chi cho việc quản lý bảo vệ môi trường.

24




×