Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

NHỮNG lý LUẬN CHUNG về vấn đề TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ văn hóa TRUYỀN THỐNG các dân tộc THIỂU số tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.41 KB, 28 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Văn hóa
Nói về văn hóa đó là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của
một xã hội, thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm,
biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của một dân tộc. Ta có thể thấy ở văn hóa
nổi lên những đặc trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh, tính giá trị, tính hệ
thống và tính lịch sử.
Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy
những năng lực, bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con
người, hoàn thiện xã hội .Do đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản
chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của hoạt động văn hóa là khát vọng
hướng tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Có thể coi đó là ba trụ cột
vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào cái cái
chân, cái thiện, cái mỹ bị lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống
dốc… [ 35, tr.12].
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “Văn hóa” được những nhà nhân loại học
phương tây sử dụng như là một danh từ chính. Những học giả này cho rằng
văn hóa (văn minh) thế giới cơ thế giới có thể chia ra từ trình độ thấp nhất
đến trình độ cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho
rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo
thành văn minh, E.B Taylo là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là toàn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được, với tư
cách là một thành viên của xã hội.


Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo (F.Boas) ý nghĩa văn
hóa được qui định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ


liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc
cũng không phải theo tiêu chuẩn trí, lực. Đó cũng là “tương đối luận của
văn hóa. Văn hóa không xét ở góc độ cao thấp mà xét ở góc độ khác biệt
[66, tr.18].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền
với con người và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn
hóa là ở hoạt động sáng tạo của con người. V.I.Lênin, người kế tục sự
nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen từ quan điểm xem xét văn hóa với tư
cách là sự phát triển bản chất của con người đã nhấn mạnh, phân tích sâu
thêm mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người
nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai cấp, tính kế thừa của văn hóa. Đặc biệt
xem cách mạng văn hóa như một bộ phận hữu cơ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Khi tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin,
tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, từ năm 1943 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát ý nghĩa của
văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương pháp sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa” [28, tr.17]. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:
“Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao
gồm những gì không phải là của thiên nhiên mà liên quan tới con người
trong quá trình tồn tại, phát triển quá trình con người làm nên lịch sử…”
[66, tr.21].


Hoặc theo định nghĩa của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất,
Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của

một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy
xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những
sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân
một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn
thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công
trình vượt trội lên bản thân [66, tr.23-24].
Văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau, trên cơ sở phân tích những
định nghĩa về văn hóa PGS. TSKH: Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa
về văn hóa như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật được bốn
đặc trưng quan trọng của văn hóa: Tính hệ thống, tính giá trị, tính
lịch sử và tính nhân sinh [66, tr.22].
Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, Văn hóa là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn
hóa là chìa khóa của sự phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã


hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Chăm lo văn hóa là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội…” [28, tr.212].
Cho đến nay, mọi người chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất
cả về định nghĩa văn hóa. Từ năm 1952, một số nhà dân tộc học người Mỹ
đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa về văn hóa của các tác giả

khác nhau trên thế giới phát ra từ trước đó cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay
chắc chắn số định nghĩa đã tăng lên rất nhiều tuy nhiên không phải lúc nào các
định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hòa hợp, bổ sung cho nhau, nhưng
tựu chung các định nghĩa đều khẳng định rằng, văn hóa là một nhân tố cực kỳ
quan trọng cho sự phát triển của con người và của loài người. Thiếu nó, loài
người không phát triển. Và khi đó xã hội loài người sẽ vĩnh viễn chỉ là một bầy
đàn những con vật biết đứng trên hai chân mà thôi. Như vậy, trong khi có nhiều
định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa, các nhà nghiên cứu, nhà khoa
học, nhà văn hóa lại cùng khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển, coi
văn hóa là yếu tố cơ bản, là động lực của phát triển.
Từ “Văn hóa” trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa ta
có thể qui về hai cách hiểu chính. Theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn
hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử...văn hóa
được xem là bao gồm những gì do con người sáng tạo ra. Văn hóa hiểu theo
nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn...
Cái đặc trưng cốt lõi của văn hóa, cái làm cho văn hóa có sức mạnh
phục vụ phát triển là bản sắc riêng có của mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc.
Chính bản sắc riêng ấy mới tạo ra sự đa dạng, phong phú của các nền văn
hóa trên thế giới, mới kích thích nhu cầu tìm hiểu, tiếp thu, hòa nhập lẫn
nhau giữa các nền văn hóa, nhằm làm cho mình giàu có hơn, phong phú hơn.
Và nhờ vậy nền văn hóa thế giới từ đó càng đa dạng và phong phú. Quá
trình này là quá trình sáng tạo – sáng tạo ra những giá trị mới phục vụ đời


sống con người. Nhờ sáng tạo mà các nền văn hóa có sức mạnh chi phối sự
phát triển, tạo ra sự phát triển. Một nền văn hóa đồng phục sẽ giết chết sự
sáng tạo, mà cũng vì thế mà giết chết sự phát triển.
Văn hóa chính là kết tinh của nhiều giá trị vật chất và tinh thần trong
xã hội. Một năm, một thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ không dễ tạo nên cơ sở của
một nền văn hóa dân tộc. Mỗi dân tộc có thể có những sức mạnh riêng về

kinh tế, quân sự, tài nguyên, môi trường, nhưng sức mạnh về văn hóa có ý
nghĩa đặc biệt. Nó tác động trực tiếp và lâu dài đến nhiều hoạt động xã hội.
Theo một nhà nghiên cứu nước ngoài, Liên hợp quốc có 193 quốc gia thì chỉ
có 34 dân tộc có nền văn hóa có bản sắc trong đó có Việt Nam. Sức mạnh
của văn hóa được tổng hợp từ nhiều nhân tố, nhiều điều kiện chính trị, xã
hội nội tại không thể vay mượn được. Có thể một dân tộc chịu những ảnh
hưởng của một nền văn hóa, văn nghệ của một dân tộc khác nhưng ở một
mức độ nhất định, nhưng không thể áp đặt. Văn hóa qui luật của nó là trao
đổi. Khuynh hướng đóng cửa hạn chế giao lưu văn hóa là trái qui luật. Tuy
nhiên, văn hóa là yếu tố nội sinh, không thể chuyển giao như chuyển giao
công nghệ từ nước này, dân tộc này sang dân tộc khác được.
Như vậy, “Văn hóa đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội,
văn hóa là nền tảng, là mục tiêu, là động lực và là hệ điều tiết của sự phát
triển xã hội” [61, tr.160].
1.1.2. Văn hóa truyền thống
Cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ngàn đời của dân
tộc
Chúng ta đã có một nền văn hóa lâu đời, độc đáo, đa dạng, là
thành quả nghìn năm đấu tranh, lao động sáng tạo của các dân tộc
Việt Nam. Khi nói tới văn hóa truyền thống, chủ yếu chúng ta
muốn nói đến thành quả văn hóa do cha ông chúng ta đã xây đắp


và phát triển trong quá khứ và nó đã làm nên cái bản sắc, cái độc
đáo, cái đặc trưng của văn hóa dân tộc ta [28, tr.105].
Như vậy, giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là
những gì tinh túy nhất, quí báu nhất. Có thể nói bản sắc văn hóa truyền
thống dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc,
biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó,
giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính nhất quán so với

chính mình trong quá trình phát triển, đặc biệt trong quá trình giao lưu và
hội nhập văn hóa.
Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc cũng chính là những
nét riêng có của tinh thần, bản lĩnh, tâm hồn, tính cách dân tộc, là tâm lý, là
sức mạnh nội sinh của từng nền văn hóa của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa
truyền thống còn là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình thường
xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo, tự điều chỉnh và tự tiếp nhận, từ đó
tạo cho dân tộc mình có những giá trị văn hóa riêng mà nền văn hóa khác
không có.
Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đó được hình
thành trong sự chi phối của những qui luật văn hóa chung của nhân loại,
nhưng mang những nét riêng có của mỗi dân tộc, làm cho nó trở thành hấp
dẫn, độc đáo cần học hỏi, tiếp thu. Bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc thể
hiện trong truyền thống của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc hình thành
và phát triển theo những điều kiện xã hội và kinh tế, chính trị và thể chế. Nó
cũng phát triển theo quá trình xâm nhập văn hóa, theo xu hướng tiến hóa
chung của nhân loại chủ yếu trên hai mặt mang tính thống nhất vừa giữ
vững phát huy cái hay, cái đẹp vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
nhân loại. Đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa “Phương Đông
hay phương Tây, có cái gì hay, có cái gì tốt phải học lấy để tạo ra nền


văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn
hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt
Nam” [28, tr.22].
1.2. TÂY BẮC - MỘT VÙNG ĐẤT GIÀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.2.1. Tây Bắc - Vùng đất có tầm quan trọng về
địa lý - Kinh tế - Chính trị

Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào
Cai, Điện Biên có đường biên giới giáp với các nước bạn Lào và Trung
Quốc, Với gần 30 dân tộc anh em: Kinh, Thái, H’Mông, Mường, LaHa,
Tày, Dao, Kháng, Sinh Mun, Khơ mú, Lào, Hoa, … cùng sinh sống, là
một vùng rộng lớn có địa chính trị, kinh tế- văn hóa độc đáo, có vị trí
chiến lược đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh -quốc phòng
- kinh tế, xã hội và văn hóa. Đây là cửa ngõ đường bộ và các tỉnh biên
giới cũng là án ngữ các quốc gia phương Bắc tiến xuống Đông Nam Á.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phản động, từ trước tới nay
luôn lợi dụng vị trí hiểm trở, những khó khăn tạm thời về kinh tế - xã hội
để thực thi các thủ đoạn chia rẽ dân tộc, thực hiện “ diễn biến hòa bình”
nhằm chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, vị trí quan trọng này luôn
được các nhà cầm quân trong lịch sử và được Đảng xác định là then chốt
trong cuộc đấu tranh cách mạng dành độc lập dân tộc cho đến công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày hôm nay.
Trong sự nghiệp đổi, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để Tây Bắc phát triển đồng
đều và vững chắc, cùng đất nước tiến lên công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Bên cạnh sự phát triển chung của đất nước, thực hiện chủ trương của


Đảng, Nhà nước về mở cửa, giao lưu hội nhập kinh tế quốc tế, Khu vực
Tây Bắc cũng đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nên sự
chuyển biến mạnh mẽ về đời sống văn hóa trong đời sống đồng bào các
dân tộc Tây Bắc. Từ chủ trương và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà
nước sự cố gắng nỗ lực của chính quyền địa phương và nhân dân, đời
sống kinh tế văn hóa, xã hội của người dân Tây Bắc đã có nhiều khởi

sắc. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ mang tính tự cung, tự cấp đã chuyển
sang hàng hóa sản xuất khá phổ biến ở các vùng gắn với thị trường trong
nước và quốc tế, cơ cấu cây trồng, chăn nuôi đã được chuyển đổi ở nhiều
địa phương. Sự đầu tư của nhà nước vào các công trình kinh tế trọng
điểm như: Nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy thủy điện Sơn La hiện
có công xuất lớn nhất Đông Nam Á, hệ thống giao thông nối liền các
tỉnh vùng Tây Bắc, giao thông tới các trung tâm huyện, thị xã, thành
phố. Hệ thống bưu điện, chợ, trường học được mở rộng đến từng cụm xã,
bản. Nhiều thôn, bản đã có đội văn nghệ quần chúng, nhiều bản đã trở
thành bản văn hóa có sức hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và
quốc tế. Trình độ dân trí của các đồng bào các dân tộc được nâng lên.
Để đi khảo sát vào những thành tựu phát triển kinh tế xã hội vùng
Tây Bắc, tác giả luận văn xin đi sâu vào Sơn La, đây là một tỉnh trung
tâm của miền núi Tây Bắc. Trong những năm đổi mới, nhất là từ khi có
nghị quyết 22- Bộ chính trị “ Về một số chủ trương chính sách lớn phát
triển kinh tế xã hội miền núi” (Ngày 27 tháng 11 năm 1989), chỉ thị
39/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh công tác
văn hóa thông tin ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, cùng hàng
loạt các chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực


hiện tốt chính sách dân tộc, Sơn La đã có những bước tiến đáng kể về
phát triển kinh tế- xã hội. Hiện nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm
(GDP) của Sơn La đạt 7,8%. Bình quân lương thực đầu người đạt 400kg,
chăn nuôi gia súc, tăng trưởng từ 2-5% năm Sản xuất lượng thực giữ
vững được thế ổn định và tiếp tục phát triển. Tổng sản lượng lương thực
có hạt đạt 25,5 vạn tấn năm 2008. Thế trận cây công nghiệp hàng hóa
chủ lực hiện nay của Sơn La được củng cố và phát triển, tạo vùng
nguyên liệu chế biến và xuất khẩu. Độ che phủ của rừng năm 1996 là
21,5% tăng lên 50% năm 2008, giá trị xuất khẩu công nghiệp tăng bình

quân hàng năm là 33,5%. Mạng lưới điện quốc gia đã đến được 99% cơ
sở xã, phường, thị trấn, thành phố.
Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, các dân tộc Tây Bắc nói
chung Sơn La nói riêng đang có những bước tiến đáng kể về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Các cơ sở kinh tế mới, hệ thống trường phổ
thông nội trú được quan tâm thỏa đáng. Vì thế, các dân tộc đã khẳng
định tính vững chắc, niềm tin tuyệt đối vào con đường đổi mới của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Sơn La đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi, chống mù chữ và đang củng cố kết quả đó. Về y tế
hiện nay đã loại trừ bệnh phong trong toàn tỉnh, trên 2200 bản có cán bộ
y tế. Trên lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản phát triển về cả chiều sâu
và bề rộng, góp phần tích cực vào việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, củng
cố khối đại đoàn kết cổ vũ thực hiện công cuộc đổi mới. Hiện nay Sơn
La có 450 bản văn hóa, gần 60.000 gia đình văn hóa, có trên 650 đội văn
nghệ quần chúng, 70% dân số được xem truyền hình, 80% dân số được
nghe hệ thống Đài phát thanh Trung ương và địa phương.
Từ những nét cơ bản về kinh tế, xã hội của Sơn La cho thấy, đời
sống văn hóa, xã hội của đồng bào các dân tộc Sơn La cũng như miền


núi Tây Bắc hôm nay đã có sự thay đổi đáng kể. Những gì đạt được từ
chiến lược phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước
hôm nay là do “Đảng bộ các tỉnh Tây Bắc không chỉ quan tâm đến mặt
kinh tế mà còn đặc biệt quan tâm chăm lo đến đời sống tinh thần của
đồng bào các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, phát huy
văn hóa dân tộc và tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh
em” [53, tr.39], đây chắc chắn sẽ là động lực để đồng bào Tây Bắc nói
chung, Sơn La nói riêng vững bước phát triển, đi lên.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tỉnh miền núi Tây Bắc
thực chất cũng là quá trình hình thành và phát triển con người - nguồn lực cơ

bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của bà con các dân tộc Tây Bắc.
1.2.2. Tây Bắc vùng đất của những trang sử anh hùng
Tây Bắc, là địa bàn miền núi, nhiều dân tộc, có truyền thống văn hóa
lâu đời từ thời dựng nước và giữ nước. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, trừ
một bộ phận cư trú ở vùng thấp, còn phần lớn sống ở vùng núi cao, biên giới
nơi không chỉ có nhiều tiềm lực to lớn về kinh tế mà còn có vị trí chính trị
xung yếu, là tiền đồn quan trọng cho bảo vệ tổ quốc. Người dân Tây Bắc với
bản chất chịu thương, chịu khó, cần cù lao động sáng tạo, yêu quê hương đất
nước. Do phải thường xuyên đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt, chống
kẻ thù ngoại xâm, tinh thần đoàn kết cộng đồng đã tạo nên sức mạnh của
thiết chế xã hội truyền thống.
Xưa kia ông cha ta đã dựa vào địa thế hiểm trở và tinh thần chiến đấu
của các dân tộc mà dựng cờ tụ nghĩa hay chiến đấu lâu dài chống lại các thế
lực bành trướng và xâm lược nước ngoài và trong các cuộc kháng chiến sau
này miền núi vẫn luôn là địa bàn chiến lược quan trọng trong công cuộc
dành tự do và thống nhất tổ quốc.


Thời kỳ chống Bắc thuộc, Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, người dân vùng
Tây Bắc đã cùng nhau đoàn kết với người miền xuôi đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của
nhân dân ta, đồng bào các dân tộc Tây Bắc luôn đoàn kết một lòng theo
Đảng, theo Bác chống thực dân Pháp, vùng Tây Bắc đã trở thành căn cứ
cách mạng quan trọng của Trung ương và của Chính phủ ta. Thời kỳ này
phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở đây, thu hút đông đảo đồng bào các
dân tộc Tây Bắc khẩn trương chuẩn bị đón thời cơ dành chính quyền.
Ngược dòng lịch sử, năm 1943, tại nhà ngục Sơn La, người thanh niên cách
mạng dân tộc Thái Lò Văn Giá, đã cùng với chi bộ nhà tù tổ chức cuộc vượt
ngục thành công đưa nhiều đồng chí là tù chính trị trở lại hoạt động, lãnh
đạo phong trào cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công khởi nghĩa toàn

quốc. Trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng. Sau khi trở về người
thanh niên này đã hy sinh anh dũng.
Cũng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, các dân
tộc miền núi đã hết lòng ủng hộ và hy sinh quên mình cho kháng chiến đi
đến thắng lợi. Trong chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu” năm xưa đã có sự góp sức, góp của không nhỏ của đồng bào
các dân tộc Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (19541975), nhân dân các dân tộc Tây Bắc lại đồng lòng đứng lên, dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng. vượt qua muôn vàn khó khăn, ra sức lao động sản xuất,
góp phần là hậu phương lớn của Miền Nam ruột thịt. Ở Tây Bắc chỉ trong
bốn năm từ năm 1965-1968 Tây Bắc đã có 159.818 thanh niên các dân tộc
lên đường tòng quân ra mặt trận, trong đó có 2% là nữ và nhiều con em các
dân tộc thiểu số. Trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bàn
chân của con em các dân tộc thiểu số đã in khắp các chiến trường, trong số
đó có rất nhiều người đã không bao giờ trở về.


Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, song các thế lực thù địch vẫn lợi dụng
địa bàn hiểm trở, cư dân thưa thớt, đặc biệt lợi dụng dân tộc Tây Bắc có
những mối quan hệ láng giềng và quan hệ họ hàng thân thiết với đồng bào
dân tộc ngoài biên giới hoạt động chống phá cách mạng nước ta, mục đích
nhằm vô hiệu hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, trước “Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta đã từng
bước cảm hóa mạnh mẽ và thu hút được tất cả các dân tộc thiểu số Tây Bắc
đi theo con đường đấu tranh và xây dựng để có dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [53, tr.45].
Với truyền thống yêu nước và lòng tin vững chắc vào sự nghiệp cách
mạng của Đảng, tiếp bước cha, anh, “Các dân tộc, tộc người sống trên vùng
Tây Bắc đã tìm thấy sức mạnh của mình, con đường phát triển của mình
trong sức mạnh và con đường phát triển chung của cả cộng đồng các dân
tộc nước ta,” [53, tr.43] luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước,

định canh, định cư, xóa bỏ cây thuốc phiện truyền thống, thực hiện nhận đất,
nhận rừng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên
tiến, đưa các giống mới vào gieo trồng, tích cực xóa đói, giảm nghèo, xóa
nạn mù chữ, mở mang y tế, phát triển giao thông, vận tải, phát thanh - truyền
hình, thông tin văn hóa…Đảng bộ các dân tộc Tây Bắc đặc biệt quan tâm
phát triển nền văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số làm cho nó thực sự nở
hoa kết trái góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân
tộc. Nền văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc không chỉ
tồn tại, đứng yên mà đã và đang luôn luôn vận động phát triển trong sự giao
lưu, tác động lẫn nhau. Quá trình giao lưu ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự xích
lại gần nhau, tăng thêm mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc ở nước ta.
1.2.3. Tây Bắc vùng đất giàu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số


Văn hóa Tây Bắc là trầm tích lịch sử kéo dài và nối liền từ tiền - sơ sử
cho đến ngày nay. Các đặc điểm địa lý tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng
đất này đã tạo nên một vị thế và đặc điểm văn hóa riêng, có những đóng góp
quan trọng vào tiến trình văn hóa dân tộc. Nói đến Tây Bắc là nói đến một
vùng văn hóa đa dạng, phong phú, giàu hương sắc và đậm đà bản sắc dân
tộc, bởi mảnh đất này là nơi hội tụ sinh sống từ lâu đời của hàng chục dân
tộc anh em, mỗi dân tộc đều có một kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái
riêng và hết sức quý giá. Đến Tây Bắc, dễ dàng được chứng kiến cách sống
đặc trưng của văn hóa nhà sàn, đắm mình trong những điệu múa nón, múa
chuông, múa Cống Tốp, Au eo… và các làn điệu dân ca trữ tình đằm thắm
hòa quyện cùng tiếng đàn tính, đàn môi, khèn bè, Pí thiu, Pí ót… Đêm đêm,
bên bếp lửa nhà sàn, trong hương vị rượu cần ngây ngất, sẽ được nghe
những bản trường ca, tình ca bất hủ, giàu chất sử thi và thấm đẫm tính nhân
văn về quá trình tạo mường lập bản, chống giặc ngoại xâm, về tình yêu quê
hương đất nước, tình yêu đôi lứa và đạo lý làm người. Tây Bắc nổi tiếng với
kiến trúc nhà sàn Thái độc đáo, thơ mộng bằng chất liệu gỗ, nứa, tranh tre,

mà điển hình là “khau cút” sinh động vươn cao ở hai đầu chái nhà và các
họa tiết hoa văn hình thoi, hình trám thể hiện ở hàng lan can hay trên các
khung cửa sổ, tạo nên sự hài hòa tinh tế và phù hợp với cảnh quan thiên
nhiên miền núi. Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Sơn La có từ
lâu đời, điển hình là nghề dệt thổ cẩm với các hình trang trí hoa, thú, chim
rất trang nhã và sinh động; Nghề đan lát mây tre, sản xuất gốm của đồng bào
Thái, Mường, Dao, Khơ mú; Luyện sắt làm vũ khí và các dụng cụ sản xuất
của đồng bào Mông. Trong các dịp lễ tết, ngày hội, cộng đồng các dân tộc
Tây Bắc có nhiều trò chơi dân gian rất thú vị như ném còn, kéo co, đua
ngựa, bắn nỏ, chơi quay, ném Pa pao… Những phong tục tập quán, lễ hội
của cộng đồng các dân tộc Tây Bắc như : “sên bản, sên mường”, “lên nhà
mới”, “lễ hội gội đầu”, “mừng cơm mới”, “cầu mưa”…cũng rất độc đáo và


hấp dẫn. Tất cả những giá trị văn hóa truyền thống đó đã tạo nên bản sắc
riêng và là hành trang quý giá của các dân tộc Tây Bắc cần phải được bảo vệ
gìn giữ và phát huy, bởi văn hóa của mỗi dân tộc chính là “phần hồn” của
dân tộc ấy, nó là thứ không thể thay thế được, nếu để mất bản sắc văn hóa
thì không còn chính dân tộc đó nữa. Ý thức rõ điều đó, nhiều năm qua Đảng
bộ và nhân dân các tỉnh Tây Bắc đã chủ động xây dựng và thực hiện chiến
lược bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bước đầu đã thu
được những kết quả khả quan. Để đi khảo sát những kết quả đạt được trong
công tác bảo tồn và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số của các tỉnh vùng Tây Bắc, chúng tôi xin đi sâu vào tỉnh Sơn La,
đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây Bắc. Trong những năm đổi mới,
đặc biệt là từ khi thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ V khóa VIII của
Đảng, Sơn La đã tổ chức kiểm kê, điều tra, khảo sát, lập hồ sơ đề nghị xếp
hạng các di tích lịch sử và văn hóa, đến nay đã kiểm kê được 37 di tích lịch
sử cách mạng, 36 di tích khảo cổ học, 14 di tích danh thắng, 3 di tích kiến
trúc nghệ thuật, trong số này, đến nay có 10 di tích được xếp hạng Quốc gia,

29 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Công tác nghiên cứu khoa học, đề xuất
các phương án bảo tồn được đẩy mạnh, các đề tài nghiên cứu cấp tỉnh về bảo
tồn di sản văn hóa đã được thực hiện như: Đề tài nghiên cứu “Văn hóa thời
tiền- sơ sử Sơn La”; Đề tài “Nghiên cứu bổ sung và viết thuyết minh giới
thiệu một số di tích lịch sử văn hóa dọc Quốc lộ 6 tỉnh Sơn La”. Những kết
quả nghiên cứu này đã được áp dụng vào thực tiễn, kịp thời bảo tồn, tôn tạo
các di sản văn hóa, tiêu biểu là Khu di tích Nhà tù Sơn La, Di tích lịch sử
văn hóa Quế Lâm Ngự Chế- Đền thờ Vua Lê Thái Tông, Di tích lịch sử Ngã
ba Cò Nòi, Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Mường Và, Tháp Mường Bám,
Thắng cảnh Hang Dơi Mộc Châu. Các di tích này đang được bảo tồn và khai
thác rất hiệu quả, hàng năm thu hút được hàng nghìn lượt người tham quan,
học tập góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc


văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội của người dân Sơn La,
đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa với các vùng miền trong cả nước.
Công tác sưu tầm, gìn giữ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
cũng luôn được quan tâm, chú trọng. Hàng trăm di vật thời Tiền sử, sơ sử đã
được tìm thấy tại nhiều địa phương như Mường Chanh (Mai Sơn); Thôm
Mòn (Thuận Châu) và một số xã thuộc các huyện ven sông Đà như Mường
La, Bắc yên, Phù Yên, Quỳnh Nhai. Gần 2000 bản sách được ghi chép bằng
chữ Thái cổ thuộc nhiều thể loại như Sử thi, Trường ca, Truyện thơ dân
gian… Nhiều hiện vật của nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống đã được
sưu tầm, trưng bày, khai thác. Đặc biệt, nhằm bảo vệ các di sản vùng lòng
hồ Thủy điện Sơn La, những năm qua Sơn La đã phối hợp với Viện Khảo
cổ học Việt Nam tiến hành điền dã, khảo sát thực địa phát hiện được 27 di
tích, bước đầu đã xác định được tính chất, niên đại của các di tích, di chỉ
khảo cổ, đó là: 03 di tích thời kỳ Phong kiến; 07 di chỉ khảo cổ học thời
đại kim khí; 09 di chỉ thời đại đá mới; 08 di chỉ thời đại đá cũ. Tất cả

những di tích và di chỉ này đang được khẩn trương xây dựng phương án
bảo tồn và phát huy. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc
Sơn La tưởng chừng như đã bị thất truyền hoặc đang có nguy cơ thất
truyền và biến dạng, đã và đang được sưu tầm, phục dựng, gìn giữ và phát
huy. Tuy nhiên, khôi phục các lễ hội truyền thống nhưng phải biết lựa
chọn để nâng niu, bảo tồn những giá trị tinh thần, những nét đẹp văn hóa
trong các lễ nghi, sửa đổi những yếu tố không còn phù hợp, mở rộng quy
mô các lễ hội để cho các lễ hội trở thành điểm hội tụ văn hóa của cộng
đồng. Cho đến nay, Sơn La đã có 01 lễ hội với quy mô Khu vực, đó là
Ngày hội Văn hóa các dân tộc Tây Bắc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc
sắc, tiêu biểu như các lễ hội: Lễ hội Hoa Ban, Lễ hội Cầu mưa của dân tộc


Thái; Lễ hội Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Lễ hội Mương A Ma
của dân tộc Xinh Mun; Lễ hội Xen Pang Ả của dân tộc Kháng… Các làng
nghề truyền thống như: Dệt Thổ cẩm Thèn Luông- Chiềng Đông- Yên
Châu; Gốm Mường Chanh - Mai Sơn, cũng được phục hồi và phát
triển.Việc tích cực sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của các dân tộc trong tỉnh đã góp phần làm cho các thế hệ
con em các dân tộc Sơn La hiểu biết thêm về truyền thống lịch sử - văn
hóa của vùng đất mà cha ông đã khai phá và dựng xây, từ đó thêm tự hào,
gắn bó với quê hương.
Có thể nói ý thức tộc chính là đặc điểm, trình độ mức sống của mỗi
dân tộc, được kết tinh thành những giá trị văn hóa. Văn hóa truyền thống của
các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc là kết quả giao lưu của nhiều dân tộc ở
nhiều vùng đất khác nhau, ngoài những nét đặc trưng tiêu biểu và tiếp thu
tinh hoa văn hóa, các dân tộc Tây Bắc vẫn giữ được bản sắc của vùng núi
Tây Bắc nơi tuyến đầu tổ quốc, góp phần giữ gìn giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa đó trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.

1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN TÂY BẮC

1.3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước tác động tới Tây Bắc
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc hoạch định hệ thống chính sách đồng bộ, trong đó có chính sách
dân tộc, các văn bản chính sách có ý nghĩa lớn đối với miền núi phía Bắc,
nói riêng là nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (ngày 27-11-1989) về một số chủ
trương chính sách lớn về phát triển kinh tế miền núi, các văn kiện đại hội
Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, lần thứ X vừa qua.


Thông qua hệ thống các văn bản từ văn kiện của Đảng, Chính Phủ,
cũng như các văn bản dưới luật, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta ngày càng được quan tâm cả trong phương diện hoạch định chính sách,
đến việc thể chế hóa và thực hiện trong đời sống chính sách dân tộc.
Về kinh tế, nội dung nhiệm vụ trong chính sách dân tộc miền núi phía
chính là chủ trương phát triển kinh tế xã hội miền núi và các vùng dân tộc
thiểu số nhằm tạo điều kiện cho các dân tộc phát huy tiềm năng và nguồn
lực, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế hàng hóa, từng bước
rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa miền núi và miền xuôi.
Về phương diện chính trị, thực hiện chính sách bình đẳng đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển. Đồng bào các dân tộc thiếu
số cũng như đa số đều có quyền làm chủ, có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ
công dân, có quyền lợi và trách nhiệm xây dựng thể chế chính trị, phát huy
vai trò hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số. Dân chủ hóa đời sống
chính trị đã được thực hiện ở các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc
thiểu số. Ý thức chính trị, văn hóa chính trị mà trước hết là những thông tin,
tri thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân được chú ý quan tâm trong chính sách dân

tộc.
1.3.2. Nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng với vấn đề
phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Bắc
Trong lịch sử phát triển của xã phát triển xã hội của loài người nói
chung và của Việt Nam nói riêng đã chứng minh và khẳng định bất cứ một
triều đại nào, một chế độ chính trị nào, một Đảng nào muốn giữ được vai trò
thống trị và lãnh đạo toàn xã hội đều đặc biệt quan tâm đến văn hóa.
Nền văn hóa chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chủ đạo. Nền văn hóa


ấy bắt nguồn từ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Phương châm phát triển văn hóa
Việt Nam phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản: nền văn hóa của chúng ta là
của nhân dân.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc bao
hàm các nội dung bảo tồn, phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của các
dân tộc thiểu số tạo nên sự thống nhất trong sự đa dạng của nền văn hóa Việt
Nam.
Với Hồ Chí Minh, nền văn hóa của chúng ta phải đặt lợi ích của dân
tộc và nhân dân là trên hết. Đó là nền văn hóa thấm đầy tính nhân văn.
Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ phải chủ động đa dạng hóa
phương pháp và phong cách sáng tác, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để tạo nên
những tác phẩm nghệ thuật đáp ứng được mong đợi của nhân dân. Các nghị
quyết của Đảng khuyến khích các nhà văn hóa và các nghệ sĩ tìm tòi nhiều
hơn nữa, sáng tạo nhiều hơn nữa trong hoạt động nghệ thuật, đồng thời, phải
ngăn chặn những xu hướng văn hóa nghệ thuật suy đồi, phi đạo đức. Mọi
hoạt động văn hóa đều phải hướng về nhân dân, vừa góp phần nâng cao thị
hiếu thẩm mĩ cho nhân dân, vừa phải lắng nghe nhân dân để tiếp tục có
những sáng tạo văn hóa nghệ thuật mới.
Từ nhận thức tầm quan trọng và vị trí vai trò của văn hóa truyền thống

của dân tộc ta với tinh hoa văn hóa nhân loại, những sức mạnh tiềm tàng vô
cùng to lớn có thể huy động phục vụ hiệu quả cho công cuộc xây dựng và
phát triển đất nứớc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng trong kháng chiến
cũng như xây dựng đất nước, Bác Hồ, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng và
phát huy cao độ vai trò của văn hóa. Ngay từ năm 1943 đồng chí Trường
Chinh- lúc đó là Tổng Bí thư của Đảng lúc đó đã viết đề cương văn hóa, với
phương châm “ dân tộc - khoa học - đại chúng”. Hiến pháp năm 1992 có tới
5 điều nói về văn hóa, xác định một lần nữa nguyên tắc phát triển của nền


văn hóa Việt Nam “dân tộc - hiện đại - nhân văn”, nhằm phục vụ sự nghiệp
cách mạng, bình yên cho dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc là mục tiêu cơ bản được đại hội VII của Đảng đề
ra từ năm 1991. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định và nhấn mạnh tại đại
hội VIII năm 1996, tới tháng 7 năm 1998 lại được nghị quyết hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ V nêu lên như một trong những quan điểm
chỉ đạo cơ bản của sự nghiệp xây dựng sự nghiệp văn hóa của đất nước ta
suốt trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Trung ương V khóa
VIII đã chỉ rõ phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như sau:
Một là, phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hai là, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người.
Ba là, phương hướng chung chỉ rõ mục đích của xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm tạo ra.

Trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp.
Trình độ dân trí cao, khoa học phát triển.
Phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa , vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến bước vững
chắc lên Chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa VIII cũng khẳng định 5
quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với văn hóa:


Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ta hiểu chăm lo phát triển văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh
thần của xã hội, nếu thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không
thể có sự phát triển bền vững, dù tiện nghi vật chất dồi dào đến đâu thì xã
hội cũng không thể tránh khỏi suy thoái.
Phát triển kinh tế - xã hội là để đạt được độc lập, tự do, hạnh phúc, đời
sống được ấm no hạnh phúc. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời
sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện, chính trị, kinh tế, xã hội, pháp
luật, kỷ cương, biến thành nguồn nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Hai là, nền Văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong
hình thức biểu hiện, trong phương tiện chuyển tải nội dung.
Bảo vệ bản sắc dân tộc không có nghĩa là đóng cửa thu mình trong
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phải mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có
chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn
bản sắc dân tộc không có nghĩa là giữ mãi, hoặc khôi phục những gì đã lạc
hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Việt Nam có 54 dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc có bản sắc
văn hóa riêng tạo nên tính đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam. Tuy
nhiên, một đặc điểm rất quan trọng của quá trình phát triển các dân tộc Việt
Nam là đoàn kết, thống nhất.
Sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam còn bao gồm
những sáng tạo văn hóa của những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài


luôn hướng về cội nguồn, cố gắng gìn giữ và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của toàn dân mà nền tảng là
khối đại đoàn kết dân tộc và đó cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa.
Bất cứ chế độ nào cũng có đội ngũ tri thức của giai cấp cầm quyền.
Trong nền văn hóa của mỗi chế độ bao giờ cũng có một đội ngũ tri thức. Đội
ngũ những nhà văn hóa. Ông cha ta nói “Thiên tài là nguyên khí của quốc
gia. Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, trước hết là của nhân dân lao động,
trong đó đội ngũ tri thức gắn bó với nhân dân có vai trò quan trọng, nhất là
trong việc sáng tạo ra nền văn hóa đỉnh cao.
Năm là, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên
trì thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho
những giá trị văn hóa ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi
con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một
quá trình đầy khó khăn [31, tr.58].
Người hoạt động văn hóa là chiến sỹ kiên cường trên mặt trận văn

hóa, tư tưởng, trong việc giữ gìn những di sản quí báu của dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới,
tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh với các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao
tính chiến đấu, chống mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “Diễn biến
hòa bình”.


Nghị quyết chỉ rõ 10 nhiệm vụ cụ thể đó là:
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những đức
tính cao đẹp; Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch và lành mạnh; Phát
triển sự nghiệp văn học nghệ thuật; Bảo tồn và phát huy những di sản văn
hóa; Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học -công nghệ; Phát
triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; Bảo tồn, phát huy
và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; Thực hiện chính sách văn hóa đối
với tôn giáo; Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; Củng cố, xây dựng và
hoàn thiện thể chế văn hóa; Nghị quyết còn chỉ rõ: Cùng với “Xây” phải
“Chống”, điều cần làm là kiên quyết loại bỏ những kẻ thoái hóa, biến chất
về đạo đức ra khỏi tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước. Nghiêm trị bọn tội
phạm, ngăn chặn và đẩy lùi những hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm
văn hóa độc hại. Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ
hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật
tự công cộng. Đảng ta luôn đề cao việc bảo tồn và phát huy những di sản tốt
đẹp của dân tộc. Văn kiện hội nghị V Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
nhấn mạnh:
Coi trọng và bảo tồn phát huy những giá trị truyền thống và
xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ
thuật của các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ
viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết
phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc
thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết

của dân tộc mình. Phát hiện bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác,
sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn học nghệ thuật là người dân tộc
thiểu số [31, tr.65-66].


Hiện nay việc thực hiện tốt nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khóa
VIII của Đảng, và học tập triển khai thực hiên nghị quyết của đại hội khóa
IX, khóa X, vấn đề văn hóa các tộc người, nâng cao trình độ dân trí, trình độ
văn hóa, cho cán bộ và nhân dân các dân tộc thiểu số, xây dựng các thiết
chế văn hóa phù hợp, phát triển văn hóa tộc người trong mối quan hệ kết
hợp truyền thống và hiện đại, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa là người dân tộc thiểu số; đấu tranh chống các tệ nạn xã hội,
chống “Diến biến hòa bình’’ dưới nhiều hình thức trong đó có hình thức
“giao lưu” văn hóa, đồng hóa văn hóa.
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và có nhiều chủ trương
chính sách nhằm phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số song
thực trạng đời sống kinh tế - xã hội miền núi và vùng các dân tộc thiểu số
sinh sống hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, các di sản văn hóa dân tộc,
các di tích lịch sử văn hóa miền núi dần dần xuống cấp và bị mai một,
mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thấp. Bên
cạnh đó, việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
đang gặp nhiều trở ngại trước thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Một
bộ phận dân tộc thiểu số, những giá trị văn hóa cũng đã chịu ảnh hưởng
làm mất đi những nét đẹp văn hóa riêng như trang phục, nhà ở, ngôn ngữ,
cưới hỏi, ma chay đã bị “Kinh hóa”...không còn hiếm hiện tượng thanh
niên nam, nữ dân tộc không còn tha thiết với những hình thức âm nhạc
nghệ thuật của dân tộc mình.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cùng lúc bảo tồn vốn cổ, kết hợp cũ, mới,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới
cho dân tộc tức là thực hiện sự định hướng về nhận thức cho đồng bào các

dân tộc thiểu số hiểu được ý nghĩa, vai trò của việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc mình, tiếp thu, kế thừa và truyền lại cho muôn đời sau


những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy. Chính những nhận thức ấy là yếu tố quan
trọng xây dựng lên những định hướng giá trị đúng đắn cho một nền văn hóa
mới hiện đại, dân tộc và nhân văn của Việt Nam.
1.4. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC TUYÊN TRUYỀN NHỮNG
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC

1.4.1. Đặc điểm công chúng báo chí Tây Bắc
* Đặc điểm dân cư, dân số và quan hệ tộc người
Các dân tộc - tộc người ở Tây Bắc cư trú xen kẽ nhau và phân tán ở
nhiều vùng trong mỗi tỉnh. Tình trạng cư trú xen kẽ này tạo điều kiện để các
dân tộc - tộc người xích lại gần nhau, đẩy mạng giao lưu, giao tiếp trên các
lĩnh vực, mặt khác cũng gây những khó khăn trong quản lý xã hội - tộc
người bởi sự khác nhau về phong tục, tập quán, lối sống ...
Tình trạng cư trú xen kẽ và phân tán không đồng đều nhau trên từng
địa bàn cụ thể tạo nên sự đa dạng trong bức tranh phân bố tộc người và cũng
tạo nên những khó khăn phức tạp cần giải quyết trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ... nhất là trong quản lý kinh tế, văn
hóa và quản lý xã hội tộc người. Có thể thấy được số các dân tộc thiểu
số cư trú trên những địa bàn chiếm trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái.
Đặc điểm trong quan hệ dân tộc - tộc người ở Tây Bắc là có truyền
thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong
cộng đồng các dân tộc ở Tây Bắc đã được phát huy cao độ trong các cuộc
đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thống nhất tổ quốc và đang được phát
huy trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
mà nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, hiện nay giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch lớn trên
nhiều phương diện. Về văn hóa: trình độ văn hóa, trình độ dân trí nói chung
còn thấp, có sự chênh lệch lớn giữa các vùng trong một tỉnh, nhất là đồng


bào vùng cao, vùng sâu, xa còn hạn chế nhiều. Phong tục tập quán, luật tục,
tâm lý, lối sống của các tộc người ... bên cạnh những yếu tố tích cực, còn
chiếm giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau.
Những đặc điểm trên đây về dân số, dân cư và mối quan hệ dân tộc
chưa phải là tất cả, song đó là những đặc điểm nổi bật cần được xem xét,
tính đến trong giải quyết các vấn đề dân tộc, và quan hệ dân tộc, hoạch định
và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên con đường
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng là những vấn đề
đòi hỏi các cơ quan thông tin đại chúng cần phải nắm vững và hiểu sâu sắc,
để có được cách thức, phương pháp, chiến lược tuyên truyền “trúng” “đúng”
theo định hướng của Đảng trong thời kỳ mới.
1.4.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Cũng như miền núi phía Bắc, người dân miền núi Tây Bắc ngoài những
đặc điểm chung có những đặc điểm riêng. Về tính cách, lối sống, cư dân ở
Tây Bắc là những người thật thà, chất phác có lòng yêu quê hương đất
nước nồng nàn, có tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, sống cởi mở,
thẳng thắn, chân thành, giản dị. Người dân Tây Bắc cũng có tâm lý sùng
bái các nhân vật thần thánh, những người có công với cộng đồng, có tập tục
thờ cúng gia tiên, có tư tưởng phong phú dệt lên những truyền thuyết đầy
màu sắc huyền thoại và sinh động. Nói như vậy, song đồng bào các dân tộc
Tây Bắc cũng có nhiều hạn chế do việc sử dụng ngôn ngữ riêng ở các tộc
người khác nhau, nên việc giao lưu học hỏi khó khăn, nhất là các dân tộc
lạc hậu ở vùng sâu xa như H’Mông. Một đặc điểm nữa là người dân thích
hoạt động thực tiễn hơn tư duy và nhận thức, khả năng tiếp nhận thông tin
khoa học kỹ thuật, tiếp nhận thông tin báo chí còn nhiều khó khăn. Bản

tính bảo thủ, cố hữu, cục bộ dân tộc địa phương, tự do, lòng tự tôn dân tộc
thái quá đã khiến cho việc tiếp thu cái mới, tiến bộ diễn ra rất chậm, nhiều


×