Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Sự hình thành và phát triển của luật Hình sự Việt Nam
Luật hình sự là ngành luật bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do
Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.
Hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền
với lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Điểm mốc trong
lịch sử của hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam là tuyên ngôn độc lập ngày
02/9/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó đến nay, pháp luật nước ta đi
qua rất nhiều bước chuyển đổi và ngày càng hoàn thiện hơn.
Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam gắn liền với
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, với sự ra đời và phát triển của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ những ngày đầu của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, luật hình sự đã được coi là công cụ sắc bén trong cuộc đấu
tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân mới được
thiết lập.
Từ năm 1945 đến năm 1954 những văn bản pháp luật của Nhà nước
được ban hành tập trung vào việc trừng trị những tội phạm phá hoại sự nghiệp
kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc như sắc lệnh số 21 ngày
14/02/1946 về trừng trị bọn phản cách mạng, bọn địa chủ cường bạo ngoan
cố; sắc lệnh số 26 ngày 25/02/1946 về trừng trị tội phá hoại cộng sản; sắc lệnh
số 233 ngày 17/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, biển thủ…; sắc lệnh số 17
ngày 28/02/1946 về trừng trị tội bắt cóc, tống tiền, ám sát; sắc lệnh số 168
ngày 14/04/1948 về trừng trị tội đánh bạc; sắc lệnh 128 ngày 17/07/1950 về
trừng trị tội trộm, ăn cắp hay thủ tiêu công văn của chính phủ hay thư từ của
nhân dân; sắc lệnh 154 ngày 17/01/1950 về trừng trị việc tiết lộ bí mật cơ
quan công tác của chính phủ; sắc lệnh 180 ngày 20/10/1950 quy định những
hình phạt với hành vi đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả…
Nguyễn Văn Bắc
Trang 1
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
Sau khi miền bắc được giải phóng năm 1955 – 1975, nhân dân Việt
Nam phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH ở Miền Bắc
và đấu tranh thống nhất đất nước. Luật hình sự trong thời gian này tập trung
chủ yếu vào việc trừng trị các loại tội phạm xâm phạm vào việc thực hiện các
nhiệm vụ nói trên. Những văn bản pháp luật trong thời gian này bao gồm: Sắc
lệnh số 267 ngày 15/06/1956 về trừng trị âm mưu và hành động phá hoại tài
sản nhà nước, hợp tác xã và tài sản nhân dân; luật ngày 24/01/1957đảm bảo
quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật thư tín của
nhân dân; pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị các tội phản cách mạng; hai
pháp lệnh ngày 21/10/70 trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và xâm
phạm tài sản công dân; pháp lệnh ngày 06/09/1972 quy định việc bảo vệ
rừng…
Năm 1975 kết thúc cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ giải phóng miền
Nam, đất nước Việt Nam thống nhất, nhân dân Việt Nam bắt đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ đầu sau khi thống nhất đất nước, sắc lệnh 03 ngày
25/03/1976 quy định tội phạm và hình phạt nhằm đáp ứng yêu cầu cuộc đấu
tranh chống tội phạm ở miền Nam. Tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản pháp
luật hình sự phục vụ cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong toàn
quốc nhằm giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội như pháp luật
trừng trị tội hối lộ 1981, pháp lệnh chống các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép 1982,…Với mục tiêu bảo vệ Nhà nước XHCN, cuộc
đấu tranh chống tội phạm cần tiến hành đồng bộ, ngày 27/06/1985 Bộ luật
hình sự đầu tiên của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 là sự phát triển cao
trong quá trình xây dựng pháp luật hình sự. Trên tinh thần kế thừa, đổi mới,
Nhà nước ta tiếp tục thực hiện sửa đổi bổ sung khá toàn diện những nội dung
của Bộ luật hình sự năm 1987 nhằm đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp
phòng ngừa và chống tội phạm trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời và được coi là bộ luật hình sự mới
của Nhà nước ta.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 2
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
Hiện nay, Bộ luật Hình sự 1999 giữ vị trí quan trọng trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc có thể áp dụng đối với các vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất xâm phạm
các điều kiện tồn tại và phát triển của Nhà nước, của chế độ, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, luật hình sự góp phần quan trọng vào việc duy trì kỷ
cương xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo cho việc thực hiện
có hiệu quả các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước.
1.2. Cơ cấu của bộ luật hình sự năm 1999:
Bộ luật hình sự của nước CHXHCN Việt Nam là văn bản pháp luật do
cơ quan quyền lực cao nhất (quốc hội) ban hành, quy định về tội phạm, hình
phạt cũng như các chế định khác liên quan đến việc xác định tội phạm và hình
phạt đồng thời quy định nhiệm vụ và những nguyên tắc chung. Luật hình sự
có cấu trúc chia thành hai phần là phần chung và phần các tội phạm:
- Phần chung quy định về nhiệm vụ của luật hình sự, cơ sở trách nhiệm
hình sự, các nguyên tắc chung của luật hình sự, hiệu lực của luật hình sự, về
tội phạm, hình phạt và các chế định liên quan đến việc xác định tội phạm và
áp dụng hình phạt.
- Phần các tội phạm quy định các tội phạm cụ thể cũng như loại và mức
độ hình phạt áp dụng đối với những tội này.
Hai phần nói trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng đều là cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết các vụ hình sự. Cả hai phần được chia thành các
chương. Mỗi chương có thể được chia thành nhiều mục và gồm nhiều điều
luật.
1.3. Hiệu lực của Bộ luật hình sự năm 1999:
- Hiệu lực theo không gian: Bộ luật hình sự có hiệu lực trên toàn lãnh
thổ Việt Nam, bất kỳ ai, bất kỳ tội phạm nào thực hiện trên vùng đất, vùng
trời, vùng nước của nước CHXHCN Việt Nam, kể cả lãnh thổ theo giác độ
chủ quyền quốc gia về diện pháp lý (lãnh thổ mở rộng) đều có thể bị xét xử
theo luật hình sự Việt Nam.
- Hiệu lực theo thời gian: Bộ luật hình sự có thể hiệu lực thi hành sau
khi đạo luật ấy chính thức được công bố hoặc được xác định thời điểm theo
Nguyễn Văn Bắc
Trang 3
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
những quyết định riêng biệt của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Bộ
luật hình sự Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1999 có hiệu lực
từ ngày 01/07/2000 theo Nghị quyết số 32/1999/QH10 về việc thi hành bộ
luật hình sự của Quốc hội khóa 10 của nước CHXHCN Việt Nam và chỉ có
hiệu lực đối với những hành vi phạm tội xảy ra khi bộ luật hình sự đang có
hiệu lực thi hành; không có hiệu lực hồi tố trong trường hợp việc áp dụng
không có lợi cho người bị áp dụng; trong trường hợp mà áp dụng có lợi cho
họ thì luật hình sự Việt Nam có hiệu lực hồi tố.
1.4. Những nguyên tắc cơ bản của luật Hình sự Việt Nam
Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự chính là những tư tưởng chỉ đạo
toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng quy định của luật hình sự. Đó là những
nguyên tắc được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
XHCN và có sự quán triệt những yêu cầu, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước. Bộ luật hình sự năm 1999 không qui định rõ cụ thể hệ
thống các nguyên tắc như trong Bộ luật TTHS nhưng căn cứ vào các qui định
trong Bộ luật hình sự có thể rút ra các nguyên tắc chủ yếu sau:
1.4.1. Nguyên tắc pháp chế XHCN:
Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các
hoạt động xây dựng cũng như áp dụng luật hình sự. Đây là nguyên tắc của
Hiến pháp, là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh, chỉ đạo mọi hoạt động của toàn
bộ bộ máy nhà nước. Nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện rõ việc Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN;
các cơ quan nhà nước phải tuân thủ pháp luật khi ra quyết định cưỡng chế
hình sự; việc qui tội đối với một cá nhân phải dựa trên cơ sở của Bộ luật hình
sự, chỉ một người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự qui định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.
1.4.2. Nguyên tắc dân chủ XHCN
Pháp luật hình sự bảo vệ và tôn trọng quyền làm chủ của công dân;
kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của công dân; quyền
lợi của công dân được pháp luật bảo vệ như nhau, không phân biệt dân tộc,
thành phần xuất thân, địa vị xã hội, tình trạng tài sản; xử lý nghiêm minh các
Nguyễn Văn Bắc
Trang 4
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
hành vi phạm tội, các thành phần phạm tội có tổ chức, các phần tử ngoan cố
không chịu cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhân
đạo khoan hồng đối với người nhất thời phạm tội, phạm tội vì hoàn cảnh đặc
biệt…
1.4.3. Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân
Người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi do chính mình
thực hiện hoặc thực hiện với người đồng phạm, không ai phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội là do người khác hoặc do
pháp nhân gây ra.
1.4.4. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong áp dụng
cơ sở của trách nhiệm hình sự, bình đẳng trong việc vận dụng quyết định hình
phạt, bình đẳng trong thi hành hình phạt, không buộc ai phải chịu trách nhiệm
hình phạt hai lần đối với một hành vi phạm tội.
1.4.5. Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
quốc tế vô sản
Luật hình sự Việt Nam trừng trị các hành vi phá hoại hòa bình gây
chiến tranh xâm lược, chống loài người và can thiệp vào các nội bộ của nước
khác; đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống các
hành vi gây chiến tranh, chống các tội ác diệt chủng, diệt sinh cũng như các
tội phạm có tính chất quốc tế khác.
1.4.6. Nguyên tắc nhân đạo XHCN
+ Khái niệm chủ nghĩa nhân đạo XHCN
- Chủ nghĩa nhân đạo XHCN là thể hiện thái độ có thiện chí, có sự cảm
thông, có tình yêu thương sâu sắc của con người đối với con người, sự tận tụy
phục vụ lợi ích của con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.
Chủ nghĩa nhân đạo XHCN là thái độ, khát vọng và hành động tận tụy vì con
người là tình yêu đối với con người, đòi hỏi phải có sự công minh, rõ ràng, có
trách nhiệm cao với con người cũng như trách nhiệm đối với xã hội, nó thể
hiện đậm nét bản chất tốt đẹp của CNXH là vì hạnh phúc con người, phù hợp
với trào lưu tiến hóa của lịch sử.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 5
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
- Chủ nghĩa nhân đạo XHCN không chỉ bó hẹp trong việc tạo ra cho
con người những điều kiện sinh hoạt vật chất mà còn phải quan tâm đến
quyền lợi tinh thần của con người, biết bảo vệ những phẩm giá và phát huy tài
năng của con người. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm, chà đạp lên phẩm
giá và tài năng của con người.
+ Nội dung của chủ nghĩa nhân đạo XHCN
- Nhân đạo là bản tính vốn có của con người, thể hiện tính người.
Trong mỗi con người luôn có tình thương yêu, đó là đặc tính nổi bật vì tình
thương yêu đối với con người là ngọn nguồn của hạnh phúc chân chính, là
điều thanh cao nhất, đồng thời là một phương tiện là điều kiện hạnh phúc cho
cá nhân.
- Chủ nghĩa nhân đạo có quá trình lịch sử lâu dài và trở thành truyền
thống cao quý của đạo đức: từ xa xưa chủ nghĩa nhân đạo đã làm nên truyền
thống tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc Việt Nam, đó là sợi dây để bảo đảm trật tự
xã hội không cần bạo lực, gươm đao mà dùng tấm lòng bao dung, mang lại
cuộc sống yên ổn, xã hội hòa thuận.
- Chủ nghĩa XHXN là chủ nghĩa nhân đạo cao cả nhất: trong xã hội có
đối kháng giai cấp trước CNXH thì giai cấp thống trị gần như không nhân đạo
với ai cả vì bản chất của chúng là bóc lột không hề quan tâm đến cuộc sống
của người dân. Giai cấp chủ nô coi nô lệ là những công cụ biết nói để phục vụ
lợi ích của chúng; vua quan phong kiến coi người lao động là tầng lớp đáy xã
hội, làm ra nhiều của cải vật chất nhưng được hưởng rất ít, phần lớn nộp cho
gia cấp thống trị.
- Chủ nghĩa nhân đạo cũng chính là cần phải đấu tranh lâu dài đối với
các hành vi phi đạo đức, không tôn trọng và giúp đỡ con người, thì ở với số
phận của người khác, bóc lột lừa gạt lẫn nhau… để con người bớt đi đau khổ,
bớt đi những thói ích kỷ và mọi người biết sống vì nhau.
+ Thể hiện của nguyên tắc XHCN trong bộ luật hình sự Việt Nam:
Nguyên tắc nhân đạo XHCN luôn được thể hiện rõ nét trong chính sách
hình sự của Nhà nước:
Nguyễn Văn Bắc
Trang 6
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
- Đối với người phạm tội việc áp dụng hình phạt chủ yếu nhằm mục
đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, không phải là sự trả thù hành vi phạm
tội. Hình phạt trong bộ luật hình sự Việt Nam không nhằm gây đau đớn về thể
xác và không nhằm hạ thấp phẩm giá của con người. Tạo điều kiện cho người
phạm tội ( trừ trường hợp bị phạt tử hình) lao động, học tập để trở thành
người có ích cho xã hội, tạo điều kiện cho người phạm tội thực hiện các
quyền mà pháp luật không cấm.
- Khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn,
lập công chuộc tội, an năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại.
- Luật hình Việt Nam có quyền quy định nhằm tạo điều kiện cho người
phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện ( án treo).
- Trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt Nam có nhiều loại
hình phạt không tước tự do. Hình phạt tù chung thân và tử hình chỉ được phép
áp dụng cho những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi áp dụng
cũng có giới hạn nhất định; Hình phạt áp dụng nhẹ hơn đối với trường hợp tội
phạm là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, hình
phạt chung thân và tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội…
- Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải quán triệt tính nhân văn,
đạo lý dân tộc. Vận dụng những quy định của pháp luật có lợi cho bị can, bị
cáo nhất là người chưa thành niên, người già, phụ nữ có thai và những người
được hưởng khoan hồng.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 7
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHỦ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG
CÁC CHẾ ĐỊNH CỦA PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999:
2.1 Nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện trong các quy định về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án, về
trường hợp loại trừ - miễn – giảm trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành
hình phạt, hoãn đình chỉ chấp hành hình phạt:
2.1.1 Nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện trong các quy định về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án:
- Về nguyên tắc thì mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời,
xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế
vẫn có một số trường hợp vì lý do nào đó mà cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
đã bỏ quên mà không truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp này nếu
trong thời gian nhất định người phạm tội đã tự hối cải, làm ăn lương thiện
không phạm tội mới, không trốn tránh sự trừng trị của pháp luật thì người
phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện,
bởi vì hành vi nguy hiểm cũng như bản thân người phạm tội lúc đó đã không
còn nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án là thời hạn nhất định do BLHS quy
định mà khi hết thời hạn quy định đó thì người phạm tội không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, không phải chấp hành bản án. Việc quy định thời hiệu
đòi hỏi khách quan và hết sức cần thiết, khuyến khích người đã thực hiện tội
phạm muốn được hưởng chính sách khoan hồng nhân đạo của nhà nước thì
phải thực sự hối cải, tự cải tạo giáo dục mình, sống lương thiện ngoài xã hội
cũng như buộc các cơ quan chức năng phải thực thi nhiệm vụ theo đúng thời
gian quy định.
2.1.2 Trong các quy định về trường hợp loại trừ - miễn – giảm
trách nhiệm hình sự, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt, hoãn đình chỉ chấp hành hình phạt:
+ Trong các quy định về trường hợp loại trừ TNHS:
Nguyễn Văn Bắc
Trang 8
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
Khi một người thực hiện hơi có dấu hiệu tội phạm thì người ấy bị coi là
có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng trong thực tế có những trường
hợp hảnh vi về hình thức mang đầy đủ dấu hiệu phạm tội, song xét về bản
chất hành vi đó đã mất đi tính nguy hiểm cho xã hội nên không bị coi là tội
phạm và người thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm hình sự mà
trái lại những hành ci đó còn coi là có ích cho xã hội, được xã hội khuyến
khích. Khoa học hình sự gọi những trường hợp trên là những trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự. Pháp luật hình sự hiện hành thì có hai trường hợp
được loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội cùa hành vi là phòng vệ chính
đáng và tình thế cấp thiết quy định tại điều 16 Bộ luật hình sự 1999.
- Điều 15 BLHS quy định: “ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác mà chống trả một cách cần thiết người đang có
hành vi xâm hại những lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội
phạm”. Chế định về phòng vệ chính đáng nói trên là cơ sở khoa học thống
nhất để xác định một loại hành vi được loạt trừ tính chất nguy hiểm cho xã
hội và là cơ sở pháp lý để công dân được tự mình bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, của tổ chức hay Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm. Phòng vệ chính đáng không phải là hành vi nguy
hiểm cho xã hội mặc dù thực tế nó gây ra những thiệt hại nhất định, bởi vì nó
phù hợp với lợi ích xã hội và là sự trợ giúp Nhà nước trong việc duy trì trật tự,
kỷ cương xã hội. Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân, nhưng không
phải là nghĩa vụ pháp lý của họ. Việc sử dụng hay không sử dụng quyền này
phụ thuộc vào quyền người bảo vệ, phòng vệ chính đáng không những tạo
điều kiện cho mọi công dân kịp thời ngăn ngừa thiệt hại do hành vi trái pháp
luật đang diễn ra, mà còn có tác dụng động viên tích cực họ tham gia đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Điều 16 BLHS quy định: “ tình thế cấp thiết là tình thế cùa người vì
muốn tránh một nguy cơ đang diễn ra đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ
chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn
cách nào khác là giải pháp là phải gây một thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi
Nguyễn Văn Bắc
Trang 9
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm”. Tình thế cấp
thiết là tình thế của trước một lợi ích được pháp luật bảo vệ đang đe dọa gây
thiệt hại, không còn cách nào khác đã phải gây thiệt hại nhỏ hơn cho một lợi
ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích lớn hơn, cần thiết hơn. Hành động trong tình
thế cấp thiết là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho công dân chủ động tích cực
tham gia vào việc ngăn ngừa thiệt hại xảy ra trong xã hội.
+Trong các trường hợp miễn – giảm TNHS:
- Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật
hình sự Việt Nam là được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do cơ
quan điều tra, viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình
sự tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật
định.
- Bên cạnh hàng loạt chế định khác như: các trường hợp loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, thời hiệu (bao gồm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời
hiệu thi hành bản án), miễn chấp hành hình phạt, án treo, xóa án tích…thì
miễn trách nhiệm hình sự cũng là một trong chế định phản ánh rõ rét nhất
nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự
Việt Nam nói riêng.
- Miễn trách nhiệm hình sự do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, cơ quan điều tra ra quyết định
đình chỉ điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng văn bản) khi có căn cứ
qui định tại điều 19, Điều 25 và khoản 2 điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 164
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003); Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án
(bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ qui định trong các căn cứ qui định
tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 169 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003) hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ
vụ án (Điều 181 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Nguyễn Văn Bắc
Trang 10
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
- Việc qui định chế định miễn giảm trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự Việt Nam có ý nghĩa quan trọng không ngừng động viên, khuyến
khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, mà còn tạo cơ sở pháp lý cho sự kết
hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác
động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành
người có ích trong xã hội, qua đó cũng là “một cách hiệu nghiệm của việc
thực hiện tốt nguyên tắc không để lọt tội phạm và người phạm tội”, giảm nhẹ
cường độ áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt khi có căn cứ pháp lý và
những điều kiện cho phép.
- Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã thực hiện. Như vậy đối với người được
miễn trách nhiệm hình sự trên thực tế hành vi họ thực hiện đã bị coi là tội
phạm, người phạm tội miễn trách nhiệm hình sự là vì những lí do nhất định.
Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, BLHS hiện hành qui định những trường
hợp được miễn trách nhiệm hình sự đó là:
Miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội (Điều 19);
Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do đã hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 23).
Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do sự chuyển biến của
tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nửa (khoản 1
Điều 25).
Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội nếu trước khi bị phát
giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc; góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả
của tội phạm (khoản 2 Điều 25);
Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi có quyết định đại xá
(khoản 3 Điều 25);
Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội nếu họ
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình
Nguyễn Văn Bắc
Trang 11
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhân giám sát, giáo dục
(khoản 2 Điều 69).
+ Các trường hợp miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt, hoãn chấp hành, đình chỉ chấp hành hình tù:
Đây là trường hợp ma Tòa án áp dụng đối với người đã thực hiện tội
phạm, người đang chấp hành hình phạt khi xét thấy áp dụng hình phạt đối với
họ không có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và
không phù hợp với quan điểm nhân đạo của luật hình sự: người phạm tội có
thể được miễn chấp hành hình phạt trong các trường hợp có nhiều tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 16 BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt
nhưng chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự (Điều 54 BLHS); người bị kết
án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập
công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không còn nguy hiểm cho xã hội thì có
thể được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá (Điều 57);
người bị kết án phạt tù đang chấp hành án nếu có nhiều tiến bộ thì được giảm
xét thời hạn chấp hành hình phạt; một người có thể được xét giảm nhiều lần
(Điều 58, 59).
2.2. Nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện trong các quy định về
hình phạt và các biện pháp tư pháp, về án treo và về xóa án tích:
2.2.1. Trong quy định về hình phạt
Hình phạt vừa thể hiện tính nghiêm khắc ở chỗ khi áp dụng hình phạt
thì có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền, lợi ích về tài sản và nhân thân
của con người bị kết án như các quyền tự do, quyền về cư trú, quyền về tài
sản, quyền về chính trị thậm chí cả quyền sống. Hình phạt luôn để lại hậu quả
pháp lý cho người bị kết án; vừa thể hiện sâu sắc tính nhân đạo đó là hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục, cải tạo họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cụ thể: Thể hiện
mục đích giáo dục, phòng ngừa chung: áp dụng hình phạt thể hiện sự phản
ứng của Nhà nước xã hội, nhưng sự phản ứng không nhằm trả thù mà hướng
Nguyễn Văn Bắc
Trang 12
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
tới mục đích cao hơn là giáo dục và cải tạo. Nội dung cải tạo là làm chuyển
biến nhận thức của người bị kết án, tạo những tiền đề vật chất để người bị kết
án làm quen với cuộc sống lao động, sống bằng lao động để có thể tái hòa
nhập cộng đồng.
2.2.2. Trong các quy định về hệ thống hình phạt và các biện pháp
tư pháp
Khi quy định về hệ thống hình phạt, nhà làm luật nước ta đã cân nhắc
những điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo đức, truyền thống, trong
những điều kiện về lịch sử cụ thể, có tham khảo kinh nghiệm lập pháp hình sự
của các nước xã hội chủ nghĩa. Điều 28 BLHS đã quy định một cách chung
nhất, khái quát nhất hệ thống hình phạt, trong đó chỉ rõ hình phạt chính và
hình phạt bổ sung được sắp xếp theo một trật tự nhẹ đến nặng. Hệ thống hình
phạt đó được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển các hình phạt được
quy định trong các văn bản pháp luật về hình sự từ cách mạng tháng tám đến
nay và trên cơ sở những nguyên tắc pháp luật hình sự XHCN nói chung và
nguyên tắc nhân đạo XHCN nói riêng.
Đặc điểm của hệ thống hình phạt ở nước ta:
- Trong hệ thống hình phạt có nhiều loại hình phạt thể hiện tính đa dạng
cho phép trong mọi trường hợp thực hiện được nguyên tắc công bằng, nguyên
tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, hình phạt, tạo thuận lợi, chính xác trong áp
dụng, bảo đảm được sự công bằng hợp lý khi áp dụng;
- Hệ thống hình phạt nước ta thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Trong hệ
thống hình phạt không có những hình phạt mang tính trả thù, không nhằm
khủng bố, nhục hình gây đau đớn hoặc đầy đọa, chà đạp phẩm giá con người.
Bên cạnh đó quy định, và cho phép áp dụng trên thực tế nhiều loại hình phạt
không buộc người kết án phải cách ly khỏi xã hội, tạo cơ hội để họ tự cải tạo
dưới sự giám sát giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân
như hình phạt cảnh cáo (điều 29 BLHS), phạt tiền (điều 30), cải tạo không
giam giữ (điều 31), trục xuất (điều 32). Đối với các hình phạt nặng hơn như từ
có thời hạn (điều 33), tù chung thân (điều 34) để cách ly người phạm tội khỏi
xã hội trong thời gian nhất định nhưng họ vẫn được phép học văn hóa, học
Nguyễn Văn Bắc
Trang 13
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
nghề, tham gia lao động, được tạo điều kiện để tự cải tạo, tù chung thân
không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội;
- Hình phạt tử hình quy định trong hệ thống hình phạt là hình phạt đặc
biệt, thể hiện mức độ trừng trị nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội: tước
bỏ quyền sống của người bị kết án, chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, xét thấy không có khả năng giáo dục, cải tạo được hoặc vì
mục đích phòng ngừa chung; loại bỏ người kết án khỏi đời sống xã hội nhằm
loại bỏ hoàn toàn khả năng thực hiện tội phạm ở họ, đồng thời răn đe những
người khác, ngăn ngừa họ phạm tội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống
tội phạm trong nhân dân. Do tính chất đặc biệt của hình phạt này nên được
quy định chặt chẽ các mặt tác dụng, nội dung phạm vi áp dụng và thủ tục thi
hành. Hình phạt tử hình được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, gây hậu quả lớn cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh và trật tự
chung, bị dư luận xã hội đặc biệt căm phẫn, không có những tình tiết giảm
nhẹ. Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của người chưa thành niên, phụ nữ
có thai, cân nhắc khả năng giáo dục, cải tạo đối với người thành niên phạm tội
và xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy định không
áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; đối với
phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét
xử, trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Người bị
áp dụng hình phạt tử hình có thể xin ân giảm án chuyển thành tù chung thân.
- Quy định hình phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt
chính có tác dụng lớn trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm. Hình phạt bổ sung trực tiếp tác động vào những điều kiện, hoàn cảnh
khách quan làm cho người bị kết án mất đi các điều kiện xã hội để có thể tiếp
tục phạm tội. Các điều kiện xã hội đó là chức vụ, nghề nghiệp chuyên môn,
nơi cư trú, phạm vi đi lại, tài sản hay tiền bạc. Hình phạt bổ sung còn có ý
nghĩa tiếp tục việc giáo dục, cải tạo người bị kết án sau khi đã chấp hành xong
hình phạt chính. Việc áp dụng có sự kết hợp giữa hình phạt chính và hình phạt
bổ sung một cách đúng đắn có ý nghĩa quan trọng trong việc làm tăng thêm
Nguyễn Văn Bắc
Trang 14
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
hiệu quả của hình phạt, là điều kiện quan trọng thực hiện mục đích của hình
phạt.
Ngoài ra, BLHS còn quy định bốn biện pháp tư pháp là các biện pháp
cưỡng chế do cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm
cho xã hội, áp dụng các biện pháp tư pháp có ý nghĩa cao trong hiệu quả
phòng ngừa tội phạm, bảo đảm lợi ích và an toàn cho toàn xã hội.
2.2.3. Thể hiện trong việc quyết định hình phạt, chế định án treo và
xóa án tích
+ Trong quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là hành động áp dụng pháp luật hình sự, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Chỉ khi hình phạt được quyết định một cách chính
xác và công bằng thì mục đích của hình phạt mới đặt được. Hình phạt được
quyết định quá nặng hoặc quá nhẹ so với tính chất mức độ nguy hiểm của tội
phạm đã được thực hiện đều dẫn đến hậu quả làm giảm ý nghĩa phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. Quyết định hình phạt đúng sẽ góp
phần tăng cường pháp chế XHCN trật tự và kỷ cương xã hội và là cơ sở quan
trọng để nâng cao hiệu quả của hình phạt.
Quyết định hình phạt còn đòi hỏi phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc
của luật hình sự trong đó có nguyên tắc nhân đạo XHCN. Trong quyết định
hình phạt, nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo
để áp dụng và tuân thủ luật để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng
như quyết định hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện trước hết là
thái độ khoan hồng, là việc đặt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội lên
mục đích hàng đầu, là việc cân nhắc tất cả những đặc điểm tốt về nhân thân
người phạm tội trong phạm vi luật định, là việc xem xét những đặc điểm tâm,
sinh lý cũng như những hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định
một hình phạt với mức cần thiết thấp nhất vừa đủ nghiêm khắc để trừng trị,
giáo dục cải tạo người phạm tội cũng như ngăn ngừa người khác thực hiện tội
phạm và giáo dục quần chúng nhân dân về ý thức chấp hành pháp luật, ý thức
tuân thủ những quy tắc của cuộc sống, ý thức tham gia tích cực vào cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 15
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
Khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ vào:
- Các quy định của BLHS: quy định cơ sở trách nhiệm hình sự, nguyên
tắc xử lý, nguyên tắc quyết định hình phạt, quy định về trách nhiệm hình sự
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, các trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự, hình phạt, thời hiệu…để đặt ra trách nhiệm hình sự,
hình phạt cho người thực hiện tội phạm hay không, có miễn giảm trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt hay không? Có thể áp dụng khung nào, hình phạt nào
cho người phạm tội.
- Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đó là: tính chất
hành vi, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội, mức độ thực hiện tội phạm,
hậu quả gây ra, thái độ chủ quan của người phạm tội, hoàn cảnh, điều kiện
phạm tội…
- Nhân dân người phạm tội.
- Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự: nêu lên
các tình tiết có ảnh hưởng đáng kể đến tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội, có những tình tiết phản
ánh khả năng giáo dục cải tạo học hoặc phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ.
Việc quyết định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng có ý nghĩa cho phép cụ thể
hóa hai mặt nghiêm trị và khoan hồng, nhân đạo của chính sách hình sự nước
ta có tác dụng tích cực trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Điều 46
BLHS không những quy định các tình tiết giảm nhẹ cụ thể mà còn cho phép
Tòa án có thể coi các tình tiết khác làm tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình
phạt; điều 47 BLHS cho phép Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức
thống nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định khi có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ trở lên; điều 48 BLHS quy định cụ thể các tình tiết tăng nặng và
không xem các tình tiết khác ngoài quy định là tình tiết tăng nặng.
+ Trong chế định án treo:
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù trong trại giam có
điều kiện sau:
- Về mức hình phạt tù không quá ba năm, người bị bất cứ tội gì cũng có
thể được xem xét cho hưởng án treo, người bị xét xử một lần về nhiều tội
Nguyễn Văn Bắc
Trang 16
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
hoặc có nhiều bản án mà hình phạt được tổng hợp. Không quá ba năm tù thì
cũng có thể cho hưởng án treo.
- Về nhân thân người được hưởng án treo phải là người chấp hành đúng
chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, không có tiền án.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà luật hình sự quy định.
Án treo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam có tác
dụng khuyến khích người bị kết án tu dưỡng và lao động tại cộng đồng, với
sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu
phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù
đã tuyên.
+ Trong chế định xóa án tích:
Xóa án tích là trường hợp bị kết án sau khi đã chấp hành xong hình
phạt qua một thời gian nhất định và có những điều kiện bắt buộc cụ thể được
coi như chưa bị kết án và được cấp giấy chứng nhận. Khi một người được xóa
án tích phạm tội mới thì Tòa án không được căn cứ vào tiền án đã được xóa
án tích để xác định là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.
Chế định xóa án tích được quy định trong điều 63 BLHS thể hiện rõ
chính sách nhân đạo của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với người
phạm tội, nó khuyến khích người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh bản án và
sau án, giúp cho người bị kết án không còn mặc cảm với xã hội về tội lỗi của
mình đã gây ra trước đó và sớm hòa nhập với cộng đồng, để trở thành công
dân có ích cho xã hội.
2.3. Nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện trong những quy định
đối với người chưa thành niên phạm tội
Khái niệm người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ
bao gồm những người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành
niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình
độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu những điều
kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao.
Họ có xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng,
dễ tự ái, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, nhiều hoài bảo, thiếu tính thực tế, dễ bị
Nguyễn Văn Bắc
Trang 17
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn
thương, dễ thay đổi thích nghi, dễ uốn nắn. Do các đặc điểm tâm lý nói trên,
người chưa thành niên dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc
thực hiện tội phạm nhưng do ý thức phạm tội của họ chưa cao, chưa chắc
chắn nên cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội.
Bộ luật hình sự quy định những nguyên tắc đặc thù để xử lý và các biện
pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục
họ, làm cho học thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp
luật và bản chất nhân đạo của Nhà nước ta; chỉ trong những trường hợp phạm
tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao, ý thức phạm tội của
người chưa thành niên sâu sắc mới cần thiết phải áp dụng các biện pháp trừng
trị đối với họ:
- Điều 12 BLHS quy định:
“1.Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
- Người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu
người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn,
có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát giáo dục.
- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và
áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những điểm nhân thân và
yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình
phạt thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp quy định riêng cho
người chưa thành niên (giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa vào trường
giáo dưỡng) để cải tạo họ thành công dân có ích.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 18
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
- Không áp dụng các hình phạt nghiêm khắc như tù chung thân hoặc tử
hình đối với người chưa thành niên phạm tội vì việc xử lý người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, cải tạo họ; không áp dụng hình phạt bổ
sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính đối với người chưa thành niên ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16.
- Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm
tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên
phạm tội tương ứng. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 khi phạm tội, nếu
điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều
luật quy định; đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy
định (điều 74 BLHS).
- Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16
tuổi không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (khoản 6
điều 69 BLHS).
- Người chưa thành niên bị phạt tù có thể được giảm mức hình phạt đến
bốn năm hoặc có thể miễn chấp hành hình phạt còn lại nếu cải tạo tốt, nhiều
tiến bộ, lập được công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (điều 76 BLHS).
- Thời hạn để xóa án tích đối với người chưa thành niên là 1/2 thời hạn
đối với người thành niên (điều 77 BLHS).
Nguyễn Văn Bắc
Trang 19
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRÊN THỰC TẾ VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ KHÁC
3.1. Thực hiện hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự:
Bộ luật hình sự năm 1999 tính đến nay mới ban hành được 14/24 văn
bản hướng dẫn thi hành, nhiều chương của bộ luật còn chờ hướng dẫn thi
hành, nhiều chương của bộ luật còn chờ hướng dẫn hoặc vẫn phải áp dụng các
hướng dẫn trước khi có BLHS. Ví dụ: Tình tiết: “gây hậu quả nghiêm trọng”
là tình tiết định tội trong 86 tội danh nhưng chưa được giải thích đầy đủ…nên
việc vận dụng để xử hình sự người vi phạm gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó
việc phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải hoàn thiện hơn chính
sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình
phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm giảm
bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm khắc phục tình
trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự và bỏ lọt tội phạm; quy định là tội
phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá
trình phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế; cần
quy trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm do người
có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội (tội phạm để tham nhũng); xây cơ chế phát huy sức mạnh của
nhân dân, cơ quan, tổ chức quần chúng, khen thưởng người có công trong
công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng bảo vệ người trung thực phát
hiện, tố cáo người điều tra, truy tố xét xử hành vi tham nhũng; đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa kiểm soát
các hành vi tham nhũng; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức trong việc ngăn ngừa kiểm soát các hành vi tham nhũng.
3.2. Thực hiện từng bước cải cách và hoàn thiện công tác quản lý
hành chính Nhà nước:
Nguyễn Văn Bắc
Trang 20
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
Công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực còn nhiều bất cập, phân
cấp quản lý chồng chéo, sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước chưa đồng
bộ, còn nhiều sơ hở, hành lang pháp lý còn nhiều điểm chưa sát, chưa theo
kịp với phát triển kinh tế xã hội, mức xử lý vi phạm không đủ sức răn đe, giáo
dục nên hiệu lực quản lý Nhà nước còn nhiều hạn chế dẫn đến tình hình tệ
nạn xã hội diễn biến phức tạp, bọn tội phạm lợi dụng ẩn núp để hoạt động.
Tiếp tục cải cách và hoàn thiện công tác quản lý hành chính, biện pháp chế tài
các vi phạm hành chính sẽ góp phần đáng kể trong việc phát hiện, phòng
ngừa, đấu tranh và hạn chế, tội phạm.
3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về chất và
lượng:
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật hình
sự nói riêng, tuy đã phát động phong trào phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm rộng khắp với số lượng người tham gia tuy đông nhưng chưa sâu, chưa
nhuần nhuyễn, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, vai trò của các ngành,
đoàn thể, các tổ chức xã hội trong phối hợp thực hiện chưa thường xuyên liên
tục, có nơi còn mang tính hình thức, thiếu việc tổ chức sơ kết, tổng kết, đúc
kết kinh nghiệm một cách hiệu quả. Cần tiếp tục xây dựng, củng cố, phát huy
hiệu quả của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của
Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền, chủ động, huy động toàn xã hội
tham gia thực hiện tốt các chính sách pháp luật hình sự để khuyến khích
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong nhân dân.
3.4. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
của các cơ quan chuyên trách (Công an, Kiểm sát, Tòa án)
Torng phạm vi chức năng, quyền hạn của mình các cơ quan chuyên
trách phải chủ động phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội để xử lý đúng
pháp luật, đồng thời phải bảo đảm tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân khi thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực tế hiện nay còn
tồn tại một số cán bộ các cơ quan chuyên trách phòng chống tội phạm, thiếu
bản lĩnh, ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, không kiên quyết đấu tranh với
bọn phạm tội, cá biệt một số người còn bắt tay với bọn tội phạm để tư lợi cá
Nguyễn Văn Bắc
Trang 21
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
nhân; trong công tác điều tra, truy tố, xét xử còn để xảy ra oan sai trực tiếp
xâm phạm đến quyền tự do dân chủ, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến sự công bằng xã hội và tính
nghiêm minh của pháp chế XHCN, gây mất lòng tin vào chính sách nhân đạo
và uy tín của Nhà nước (như cán bộ điều tra còn sử dụng nhụn hình, bức
cung, mớm cung…để khu thập chứng cứ; từ năm 2002 đến 2004 các cơ quan
tiến hành tố tụng đã bắt, khởi tố, xét xử oan sai khoảng 60 người vô tội trên
toàn quốc). Chế độ chính sách đối với cán bộ chuyên trách phòng chống tội
phạm chưa được quan tâm đúng mức, cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó
khăn. Công tác cán bộ còn nhiều bất cập (chú ý đến tiêu chuẩn chính trị, độ
tuổi…để sử dụng, bổ nhiệm mà chưa chú trọng đúng mức đến năng lực), hiện
tưởng mua chức, chạy quyền, mua bằng cấp, sử dụng cán bộ yếu kém về đạo
đức lẫn chuyên môn làm lãnh đạo, chỉ huy…còn áu nhiều. Do vậy cần thực
hiện tốt hơn nữa công tác kiểm tra, xử lý các tin báo về vi phạm pháp luật của
quần chúng nhân dân, cần có những biện pháp cụ thể để nâng cao đời sống
vật chất cũng như trình độ pháp luật nghiệp vụ cho cán bộ điều tra, kiểm sát
viên, thẩm phán thường xuyên thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện những
sai phạm để uốn nắn xử lý, việc xử lý sai phạm cũng phải kiên quyết, không
nể nang, qua loa đại khái; công tác tuyển chọn cán bộ, bổ nhiệm cán bộ phải
chặt chẽ, đảm bảo có đạo đức lẫn nghiệp vụ chuyên môn.
3.5. Thực hiện sửa đổi chính sách trong công tác thi hành án tử
hình
Thực tiễn cho thấy việc áp dụng hình phạt tử hình và công tác thi hành
án này đã thực hiện nghiêm túc thận trong đúng pháp luật có tác dụng răn đe
chung góp phần tích cực nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc như: án tử hình còn áp dụng ở
nhiều tội danh (trong đó có tội phạm trong lĩnh vực kinh tế) không phù hợp
với xu thế nhân đạo hóa và dân chủ, việc thi hành án còn bị tồn đọng gây khó
khăn cho công tác giam giữ, việc thi hành hình phạt tử hình bằng hình thức xử
bắn tạo nên tâm lý căng thẳng phức tạp đối với người trực tiếp bắn phạm
nhân, trong khi chế độ chính sách đối với người này còn nhiều hạn chế, việc
Nguyễn Văn Bắc
Trang 22
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
xử lý xác của phạm nhân sau khi thi hành có nhiều bất cập, thân nhân phạm
nhân không được mang xác về mai táng nên chưa thể hiện được tính nhân
đạo. Cần có sự nghiên cứu dư luận xã hội, tham khảo kinh nghiệm các nước
để sửa đổi chính sách hình sự trong việc áp dụng hình phạt tử hình và hình
thức thi hành án tử hình, có chế độ cho những người trực tiếp thi hành hình
phạt tử hình.
3.6. Thực hiện các công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người
được tha tù, hết hạn tù
Bộ công an đã tổ chức các đợt khảo sát đối với người được đặc xá, tha
tù trở về địa phương. Kết quả cho thấy việc giúp đỡ quản lý giáo dục chưa
thống nhất giữa các địa phương và các ngành, các biện pháp giúp đỡ giáo dục
vòn mang tính hình thức, chưa đồng bộ, mang tính chung chung, chưa có biện
pháp cụ thể trong khi người được tha tù thường có nhận thức xã hội còn hạn
chế, thiếu tay nghề, khó kiếm việc làm, đời sống kinh tế khó khăn nên họ dễ
bị lôi kéo, tác động ảnh hưởng của các phần tử xấu. Nếu không có sự quan
tâm của gia đình và xã hội, họ dễ trở lại con đường phạm tội. Để tạo điều kiện
cho người mãn hạn tù được tái hòa nhập cộng đồng, cần thiết phải xây dựng
văn bản pháp luật quy định cụ thể về công tác hỗ trợ việc làm cho người mãn
hạn tù, phân công trách nhiệm cụ thể của các cấp chính quyền, trại giam, tổ
chức chính trị xã hội, các cơ sở đào tạo tay nghề…Trong việc giúp đỡ, giáo
dục, hỗ trợ người mãn hạn tù trong tuyển dụng lao động; các tổ chức chính trị
xã hội nên đóng vai trò bảo lãnh việc làm cho người mãn hạn tù trong một
thời gian nhất định giúp họ sớm trở thành người có ích cho xã hội.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 23
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
PHẦN KẾT LUẬN
KẾT QUẢ CỦA VIỆC QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
XHCN CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
Con người là thành viên của xã hội và trở thành chủ thể xã hội. Sự tồn
tại và bình yên trong cuộc sống của con người luôn là một vấn đề hết sức
quan trọng. Với tính ưu việt và nhân đạo của xã hội ta, việc bảo vệ, tạo điều
kiện để phát huy các giá trị và các quyền con người là nội dung không thể
thiếu được trong hệ thống chính sách, xã hội và pháp luật nói chung và pháp
luật hình sự nói riêng của Nhà nước ta. Quán triệt áp dụng nguyên tắc nhân
đạo XHCN của Bộ luật hình sự trong thời gian qua, đã đạt được một số kết
quả khả quan, cụ thể:
- Trong quá trình thực thi pháp luật hình sự, các cơ quan công an, kiểm
sát, tòa án, tư pháp, thanh tra và các cơ quan hữu quan khác bên cạnh việc
thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đã hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan
Nhà nước khác, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
- Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ của mình đã chủ động đấu tranh phòng chóng tội phạm, xử lý nhanh
chóng, công minh, đúng pháp luật theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội.
- Quyết định hình phạt đối với người phạm tội đảm bảo được mục đích
là trừng trị và giáo dục người phạm tội nói riêng và mục đích giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, răn đe ngăn ngừa người khác phạm tội nói chung;
đảm bảo nghiêm trị người chủ mưu cầm đầu, chủ mưu, ngoan cố, chống đối,
lưu manh côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội,
người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
- Việc quyết định hình phạt của tòa án ngoài việc căn cứ vào các quy
định của pháp luật cũng đã xem xét đến tính chất của hành vi phạm tội, tính
Nguyễn Văn Bắc
Trang 24
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong các chế định của phần chung BLHS 1999
chất và mức độ của hậu quả, mức độ lỗi của người phạm tội, nhân thân người
phạm tội…, thể hiện tính khoan hồng với người tự thú, thành khẩn khai báo,
tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
- Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng đã hối cải thì áp dụng
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (cho hưởng án trao, cải tạo không giam
giữ…), giao học cho cơ quan hoặc gia đình giáo dục.
- Đối với người bị phạt tù thì ngoài việc buộc họ phải chấp hành hình
phạt trong trại giam, cũng tạo điều kiện cho họ học văn hóa, học nghề, tham
gia lao động do trại giam tổ chức và được tạo điều kiện để hình thành và phát
triển ý thức tuân thủ pháp luật. Khi họ có kết quả cải tạo tốt thì xét giảm án
hoặc miễn chấp hành hình phạt còn lại.
- Đối với người bị phạt tử hình thì Nhà nước loại bỏ hoàn toàn sự tồn
tại của họ trong xã hội vì lợi ích chung của toàn xã hội và vì hộ không còn
khả năng cải tạo giáo dục. Có nhiều trường hợp người bị phạt tử hình được ân
giảm thành tù chung thân.
- Đối với người chưa thành niên phạm tội: áp dụng triện để các nguyên
tắc xử lý trong việc xem xét trách nhiệm hình sự, quyết định các biện pháp tư
pháp, quyết định hình phạt đảm bảo được mua đích giáo dục, cải tạo họ.
- Các trường hợp hưởng án treo đã khuyến khích được người bị án treo
tích cực học tập, rèn luyện bản thân để sớm khẳng định là người có ích cho xã
hội.
- Đối với người đã chấp hành xong hình phạt đã được chính quyền địa
phương, tổ chức xã hội tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập
cộng đồng, được xóa án tích khi có đủ điều kiện luật định.
Nguyễn Văn Bắc
Trang 25