Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT trong lĩnh vực này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.54 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng đề ra trong giai đoạn 2011 – 2020
là phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính
trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao
hơn trong giai đoạn sau. Muốn thực hiện được chiến lược trên thì Nhà nước ta phải có một chính
sách thuế GTGT hợp lý đặc biệt là chính sách thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu.
Trong nội dung bài tiểu luận của mình em xin trình bày vấn đề số 10: “Phân tích những yếu tố
ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu và đề xuất
ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT trong lĩnh vực này”

NỘI DUNG

I.

Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế giá trị gia tăng (GTGT)
1. Khái niệm thuế GTGT
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người
chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế GTGT 2008 quy định : “Thuế giá trị gia tăng là thuế
tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông
đến tiêu dùng”.
Như vậy, bản chất của thuế GTGT là một loại thuế gián thu ( được hiểu là thuế mà người
chịu thuế và người nộp thuế không phải là một). Nghĩa là các nhà sản xuất, kinh doanh và cung
cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông qua
giá cả hàng hóa, dịch vụ.
2. Đặc điểm của thuế GTGT
Là một loại thuế độc lập nên thuế GTGT cũng có những đặc điểm riêng để phân biệt nó với


các loại thuế khác như sau:
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Đó là mọi đối tượng tồn tại trong xã
hội, kể cả cá nhân và tổ chức đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất

1


kinh doanh tạo ra cho xã hội. Mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế
phải trả một phần thu nhập cho hành vi tiêu dùng. Việc đánh thuế trên phạm vi lãnh thổ với mọi
đối tượng thể hiện sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các
loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với trường hợp cần khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế việc trả
tiền thuế của người tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất
thấp nhất.
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, việc
đánh thuế GTGT vào hàng hóa, dịch vụ đó không gây ra những đột biến giá cả cho người tiêu
dùng. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác. Nếu
như thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ đánh một lần ở khâu sản xuất hay khâu nhập khẩu hàng hóa, dịch
vụ; thuế xuất khẩu chỉ đánh ở khâu xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ đánh ở khâu nhập khẩu thì
thuế GTGT lại đánh ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa.
Thứ ba, dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ thì số thuế GTGT phải nộp không
thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá
trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, nhập khẩu và lưu thông hàng hóa nhập khẩu
nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với
khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ
đã xác định trước và không thay đổi các phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh
thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị
hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu.

3. Pháp luật thuế GTGT
Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp cac quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh

các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lí cà quyết toán thuế
GTGT.
Theo đó, pháp luật thuế GTGT có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật thuế giá trị gia tăng có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả đối tượng
trong xã hội. Xuất phát từ nội dung được pháp luật điều chỉnh cho thấy pháp luật thuế giá trị gia
tăng áp dụng đối với mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống.
Phạm vi áp dụng pháp luật thuế GTGT có tính phổ biến so với pháp luật thuế tiêu dùng khác.
Thứ hai, pháp luật thuế giá trị gia tăng chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng
đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện chủ yếu ở đây là các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ
chứng từ, hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế GTGT.

2


Ban hành Luật thuế GTGT được coi là bước đột phá trong quá trình cải cách, hoàn thiện về
hệ thống pháp luật thuế. Để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật thuế GTGT cần đáp ứng một số
yêu cầu như sau:
Thứ nhất, đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi.
Thứ hai, đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng. Tính đơn giản được thể hiện ở

-

nhiều khía cạnh khác nhau:
Đơn giản về cách hiểu, áp dụng đối với cơ quan quản lý, thu thuế;
Đơn giản về cách hiểu, tuân thủ đối với đối tượng nộp thuế GTGT;
Đơn giản về trình tự thủ tục trong suốt quá trình quản lý và chịu sự quản lý về thuế GTGT.
Thứ ba, pháp luật thuế GTGT cần hướng tới người nộp thưế. Thể hiện yêu cầu này, những
quy định về việc kê khai, nộp thuế phải thể hiện sự tôn trọng người nộp thuế: tối đa hóa cơ hội tự
kê khai, tự nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, đối với trường hợp vi phạm, quy định
các chế tài thực sự nghiêm khắc: bao gồm chế tài hành chính với mức phạt cao; chế tài hình sự


áp dụng đối với nhiều loại hành vi vi phạm khác nhau.
4. Thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều đánh thuế đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ. Việc đánh thuế GTGT đối với hoạt động nhập nhẩu tạo sự bình đẳng giữa hàng hóa,
dịch vụ được tạo ra trong nước và hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, mặc dù, trong những chừng mực
nhất định có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu.
Thuế GTGT là loại thuế tiên tiến chỉ “tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch
vụ” nên nếu xét trong mối quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế với chủ thể nộp thuế, đối tượng
hướng tới của quan hệ pháp luật thuế GTGT là phần giá trị tăng thêm được tạo ra bởi chủ thể nộp
thuế; trong đó, đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu thì phần giá trị gia tăng là toàn bộ giá trị
nhập khẩu của hàng hóa đã bao gồm các khoản thuế ở khâu nhập khẩu chưa có thuế giá trị gia
tăng. Thuế GTGT cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng hóa, dịch vụ nhập
khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
Hiện nay chúng ta đã trở thành một thành viên của WTO, các cam kết hội nhập mà chúng ta
đã ký kết sẽ được thực hiện ở mức độ cao hơn. Chẳng hạn, theo hiệu định CEPT/AFTA đến năm
2006 chúng ta phải hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hơn 80% dòng thuế xuống
mức 0% và đến năm 2015 sẽ áp dụng chung cho tất cả các mặt hàng, trừ một số mặt hàng có thể
linh hoạt nhưng thời hạn cuối cùng không được quá năm 2018. Còn theo hiệp định Việt Nam –
Hoa Kỳ thì 224 dòng thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân 30%. Điều này tất yếu sẽ làm giảm thuế
nhập khẩu. Trước tình hình đó, để đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước thì thuế
GTGT và bên cạnh đó là thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ đóng vai trò quan

3


trọng.Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm kể trên, việc thực thi pháp luật thuế GTGT nói chung và
đối với hàng hóa nhập khẩu nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết.

II.


Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT đối với hàng hóa nhập
khẩu và ý kiến đề xuất nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT trong lĩnh vực này

1. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT đối với hàng hóa nhập
khẩu
a) Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu
Trước hết, với diện chủ thể chịu thuế và đối tượng chịu thuế rộng; thuế GTGT là loại thuế
gián tiếp không gây tác động lớn đến sự biến đổi giá cả . Thuế GTGT đã tạo ra nguồn thu thường
xuyên và ổn định cho ngân sách nhà nước. Có thể nhận thấy những loại thuế như thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất khẩu – nhập khẩu…trong thời kỳ kinh tế suy
thoái thường bị tác động rất lớn. Tuy nhiên, đối với thuế giá trị gia tăng thì ngay cả trong thời kỳ
kinh tế đi xuống, nhà nước vẫn thu được cho tới khi nào người tiêu dùng vẫn còn tiêu dùng. Trên
thực tế, nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng tăng. Do đó, nguồn thu ngân sách nhà nước từ
thuế giá trị gia tăng rất thường xuyên và ổn định.
Thuế GTGT được tính toán trên cơ sở các hóa đơn, chứng từ hợp pháp và hiện nay công tác
hạch toán, kế toán của các doanh nghiệp cũng đã hoàn thiện và ổn định dần.Đây là cơ sở để việc
áp dụng thuế GTGT nói chung và trong lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nói riêng được dễ
dàng, thuận lợi, minh bạch, hạn chế được gian lận về thuế.
Hiện nay, Chính phủ, ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các
Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội,
của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện luật Thuế GTGT.
Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát và
phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT đối với hàng
hóa, dịch vụ nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự phấn đấu nỗ lực của ngành thuế quan và ngành Hải
Quan từ việc chuẩn bị đến việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT cũng là một trong những
yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu.
Với quy định mọi chủ thể có hành vi sản xuất, kinh doanh các mặt hàng, các loại hình dịch
vụ thuộc diện chịu thuế và có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam nên thuế GTGT có
thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Với mức thuế suất cơ bản 10%, thuế GTGT cùng với

thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu đã làm tốt nhiệm vụ bảo hộ có hiệu quả nền sản xuất
trong nước.

4


b) Những yếu tố gây vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế GTGT đối với hàng
hóa nhập khẩu.
• Thuế suất thuế GTGT khá cao
Yếu tố đầu tiên gây vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế GTGT đối với hàng
hóa nhập khẩu là thuế suất thuế GTGT hiện nay khá cao. Mức thuế suất thuế GTGT tính cho các
hàng hóa, dịch vụ thông thường cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua; tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Mức thuế suất 10% được quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật thuế
GTGT năm 2008. Mặc dù theo lý luận, thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán
của hàng hóa, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận dẫn đến việc tiêu thụ sẽ gặp khó
khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Như vậy, lượng
hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống. Do đó, các doanh nghiệp nhập khẩu muốn tăng lượng hàng nhập
khẩu có thể sẽ tìm những kẽ hở của pháp luật để trốn thuế, tránh thuế vì việc làm này sẽ đem lại
doanh thu lớn hơn cho doanh nghiệp.

• Sự yếu kém trong quản lý của các cơ quan chức năng

Sự lúng túng của các cơ quan chức năng được thể hiện rõ nét ở chỗ chỉ trong một khoảng

thời gian ngắn mà có quá nhiều văn bản được ban hành. Điều này gây ra nhiều vấn đề mâu thuẫn
trong điều hành và thực hiện. Tiếp đến, cơ chế “xin - cho” xuất hiện: xin được hưởng thuế suất
thấp hơn, xin được nộp thuế 0% xin mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá mua không có
hóa đơn GTGT, v.v…
Bên cạnh đó là sự yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách. Việc này

làm nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT và
gây ra những hậu quả nặng nề, dân chúng mất niềm tin vào chính sách thuế mới, doanh nghiệp
nghi ngờ cách thức và năng lực điều hành nền kinh tế của chính phủ.
Không chỉ dừng lại ở đó, sự thiếu quyết liệt trong xử phạt cũng là một vấn đề đáng kể đến.
Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm
tỷ đồng. Nếu không có biện pháp xử lý quyết liệt thì luật pháp không còn khiến người ta sợ. Do
đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã được cảnh báo, vẫn tiến triển nhanh,
đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
• Phương pháp tính thuế
Việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn
kém và cản trở sự vận hành của GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế - xã hội. Việc áp dụng
đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hóa đơn trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay

5


là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và
các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được
khấu trừ đâu vào khi mua hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp,
gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra,
những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng hóa lưu
thông trên thi trường cũng gây nhiều khó khăn cho công các thu của ngành thuế.
• Hoàn thuế GTGT
Hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế GTGT đã nộp vượt
quá của chủ thể nộp thuế. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hóa đơn. Do
vậy, nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng
chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và
hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc hoàn thuế.
Thực trạng hoàn thuế hiện còn một số điểm vướng mắc như sau: Luật thuế GTGT khái quát
đến mức sơ sài, khó áp dụng, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT quá

nhiều, lại luôn thay đổi kéo theo sự không ổn định của bản thân Luật thuế GTGT. Bên cạnh đó,
các văn bản hướng dẫn thi hành lại không phù hợp với quy định của văn bản luật hoặc nội dung
các văn bản này vượt quá thẩm quyền của cơ quan ban hành. Nội dung hướng dẫn cũng chỉ là
giải pháp tình thế, chắp vá mà không được nghiên cứu, không dựa trên một cơ sở lý luận nào
làm cho sắc thuế GTGT dần dần bị nhào nặn bóp méo là nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định
của thuế GTGT.
• Cơ chế áp dụng, thực hiện pháp luật thuế GTGT
Cơ chế áp dụng, thực hiện pháp luật thuế GTGT nói chung và trong lĩnh vực pháp luật thuế
GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu nói riêng còn nhiều yếu kém, chưa tạo dựng được
một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ và thật khoa học để chuyển tải pháp luật thuế GTGT
như là một sắc thuế đơn giản và tiên tiến vào cuộc sống. Với những chủ trương đổi mới theo
hướng thông thoáng hơn trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh song
các cơ quan nhà nước lại bị bó tay, vô hiệu hóa trước những hành vi lạm dụng sự thông thoáng
đó để trục lợi trong việc hoàn thuế GTGT. Mặt khác, sự thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra
thật hữu hiệu quy trình đăng ký nộp thuế, kê khai, khấu trừ hoàn thuế, với chủ trương “tiền thoát
hậu kiểm” tạo không ít thuận lợi cho các doanh nghiệp song không phải tất cả các đối tượng
được hoàn thuế đều có thể áp dụng cơ chế này.
• Trình độ quản lý và sử dụng chứng tư, hóa đơn:

6


Thuế GTGT gắn với nghiệp vụ kinh doanh của chủ thể nộp thuế. Nhà nước thực hiện thu
thuế theo kết quả kinh doanh của đối tượng nộp thuế. Điều này có nghĩa chứng từ hóa đơn là
chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với Nhà nước. Do đó,
trình độ quản lý và sử dụng chứng từ, hóa đơn của chủ thể nộp thuế cũng như các cơ quan quản
lý nhà nước sẽ ảnh hưởng lớn tới việc thực thi pháp luật thuế GTGT nói chung cũng như trong
lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nói riêng. Với tư cách là những giấy tờ và vật mang tin
phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã phát sinh và đã hoàn thành, Luật thuế GTGT quy định
chi tiết về các loại chứng từ hóa đơn, áp dụng cho các đối tượng nộp thuế theo phương pháp

khấu trừ, phương pháp tính trực tiếp theo phần giá trị tăng thêm. Hóa đơn, chứng từ là căn cứ
pháp lý cực kỳ quan trọng trong quá trình vận hành của thuế GTGT và có thể nói sự thành công
hay thất bại của quá trình này phụ thuộc rất lớn vào chế độ ghi chép quản lý chứng từ, hóa đơn.
Thực tiễn áp dụng ở nước ta cho thấy trong mấy năm qua, nạn hóa đơn giả đã phát triển tới
mức báo động và được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Dạng thứ nhất là hóa đơn in giả hoàn
toàn. Nhìn bề ngoài thì loại hóa đơn này giống như hóa đơn GTGT do bộ tài chính phát hành và
chỉ có thể phát hiện bằng máy soi nghiệp vụ còn đối với người mua và bán hàng thì không mấy
dễ bị phát hiện. Có những trường hợp mua phải hàng lậu được cấp hóa đơn giả nhưng khi phát
hiện thì người bán hàng đã biến mất nên vừa thiếu cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý vừa
không được quyền khấu trừ thuế. Dạng thứ hai là hóa đơn thật do bộ tài chính phát hành được
bán cho một đơn vị nhất định nhưng tuồn ra thị trường mua bán một cách bất hợp pháp. Thủ
đoạn này có thể thực hiện bằng cách bán hàng không cấp hóa đơn cho khách hàng sau đó dùng
liên trống (lẽ ra phải cấp cho khách hàng) đem bán trên thị trường chợ đen, hoặc báo cáo giải thể
doanh nghiệp nhưng không thanh toán nộp lại hóa đơn mà đem bán; hoặc lợi dụng cơ chế thông
thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp, sau khi được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, đăng kí thuế, cấp mã số thuế và mua hóa đơn GTGT tại cơ quan thuế
nhưng không tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà sử dụng chính các hóa đơn đó để kinh
doanh bằng cách mua bán vòng vèo để hợp thức hóa số thuế đầu vào sau đó thực hiện khấu trừ
thuế hoặc hoàn thuế. Dạng thứ ba cũng là hóa đơn do bộ tài chính phát hành được sử dụng khi
mua bán hàng hóa nhưng ghi giá thanh toán giữa các liên không đồng nhất hoặc cố tình ghi sai
mã số của người bán gây khó khăn cho sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Với thủ đoạn
này số thuế đầu ra thu được ở người bán thì ít mà số thuế đầu vào phải khấu trừ ở người mua thì

7


nhiều. Đây là một hiểm họa kép do cơ chế liên hoàn thuế GTGT tạo ra. Thứ tư, cạo sửa hóa đơn
mua hàng ghi số tiền cao hơn số thực tế để khấu trừ, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán thuế.

2. Một tố ý kiến đề xuất nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu

Việt Nam chúng ta đang từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Năm 2015, chúng
ta phải hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với tất cả các mặt hàng của các nước tham
gia hiệp định CEPT/AFTA xuống mức thuế suất 0%; hay theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ
thì 224 dòng thuế nhập khẩu cũng sẽ giảm bình quân 30%. Điều này sẽ khiến cho nguồn thu
ngân sách giảm đáng kể. Trước tình hình đó, chúng ta phải hoàn thiện hệ thống thuế sao cho vừa
bảo hộ được nền kinh tế trong nước, vừa bảo đảm tuân thủ những thỏa thuận đã cam kết. Đồng
thời, cơ hội tiếp xúc với nền pháp luật thế giới cũng cho chúng ta nhiều cơ hội học tập kinh
nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật thuế nói chung, pháp luật thuế GTGT trong lĩnh vực nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ nói riêng.

a) Về phương pháp tính thuế GTGT
Các văn bản về thuế đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và
phương pháp tính thuế trực tiếp trên thuế GTGT. Tương ứng với hai phương pháp tính thuế là hai
loại hóa đơn GTGT và hóa đơn bán hàng thông thường. Qua thực hiện thuế GTGT cho thấy, sử
dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu vào. Không
mang lại hiệu quả cho thu ngân sách nhà nước. Vì vậy chỉ nên áp dụng một phương pháp tính
thuế là phương pháp khấu trừ thuế.
b) Về thuế suất GTGT.
Để khắc phục được những vướng mắc về thuế suất, ta nên chỉ sử dụng hai mức thuế suất:
0% cho hàng hóa xuất khẩu và 10% cho mọi loại hàng hóa bán nội địa. Thuế suất thống nhất sẽ
góp phần bịt được những kẽ hở do chênh lệch thuế suất gây ra. Để giảm số lượng thuế suất con
hai mức thì phải đảm bảo các yêu cầu sau : Một là, xác định mức thuế suất phải đảm bảo không
làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của Ngân sách nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn
thu cho Ngân sách Nhà nước. Hai là, Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước. Ba là,
mức thuế suất phải bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo
ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời
sống nhân dân.

8



c) Về khấu trừ thuế
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào phát sinh những vướng mắc như: có nhiều tỉ lệ khấu trừ khác
nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện là không khuyến khích sử dụng hóa đơn chứng
từ. Đối với hàng hóa nông, lâm, hải sản không cần hóa đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có tường hợp
cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh
nghiệp không lấy hóa đơn bán hàng, tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom
trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được
khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu thì lại không được trừ thuế đầu vào. Do đó, giải pháp cho vấn
đề này là: cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung
ứng dịch vụ bị hủy bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá,
các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.

d) Vấn đề hoàn thuế GTGT
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn
thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua
sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh
nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa
rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước kiểm tra
sau và phải xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Các văn bản này để cao trách nhiệm và
quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, vấn
đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bất cập về thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế. Ta cần phải đề cao
hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế và tăng cường kiểm tra,
thanh tra của cơ quan thuế.
đ) Hình thành và phát triển nhóm tư vấn thuế.
Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế, nộp
thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ
tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu
biết về lĩnh vực thuế. Vì vậy, ở nước ta nên sớm hình thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ


9


chức bộ máy ngành thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý
thu thuế. Đồng thời, để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, đề nghị có
quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế.

e) Cải cách hành chính thuế
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hóa thủ tục, các văn
bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy mạnh công tác
cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên chú ý những vấn đề sau: Rà soát lại
toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế; nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích,
từ ngữ và nội dung, tính thống nhất và kế thừa của các văn bản. Mẫu kê khai thuế, nộp thuế cần
thống nhất với chế độ kế toán, thống kê, đơn giản hóa các mẫu biểu quy định trong thu, nộp,
hoàn thuế.

f) Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế, cán bộ hải quan có đạo đức và trình độ nghiệp vụ.
Quá trình thu và quản lý thuế đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ bởi việc thu thuế ở
khâu trước còn được kiểm tra ở khâu sau. Cần đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ thuế,
cán bộ hải quan không chỉ đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ thuế, hải quan đơn thuần mà còn phải
có khả năng phát hiện ra các thủ đoạn gian lận tinh vi của các đối tượng nộp thuế. Bởi lẽ, dù
pháp luật có hoàn thiện đến đâu đi chăng nữa mà người thi hành pháp luật không có đạo đức
nghề nghiệp, không có năng lực chuyên môn thì cũng khó có thể đưa pháp luật vào đời sống một
cách hiệu quả. Khi xem xét các vụ án kinh tế điển hình mà có liên quan đến việc hoàn thuế, có
thẻ thấy hầu như đều có sự móc ngoặc của các cán bộ thuế cũng như cán bộ hải quan với các đối
tượng vi phạm. Bởi thế, đạo đức nghề nghiệp là vấn đề rất đáng được quan tâm trong việc đào
tạo cán bộ ngành thuế hiện nay. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng còn phải tăng cường các biện
pháp kiểm tra, kiểm soát nội bộ cơ quan một cách thường xuyên, xử lý nghiêm minh các trường
hợp thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc tiêu cực, thông đồng, tiếp tay cho đối tượng nộp thuế để
gian lận thuế của Nhà nước. Cùng với đó là thực hiện chế độ khen thưởng, biểu dương cán bộ có

tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ là hai mục tiêu song song trong công tác đào tạo đội ngũ cán bộ thuế, cán bộ hải quan. Đây là

10


cơ sở để những quy định pháp luật về thuế GTGT trên văn bản đi vào cuộc sống và đáp ứng
được mục tiêu đề ra khi xây dựng luật thuế này.

KẾT LUẬN
Tuy còn nhiều bất cập trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam nói chung và
trong lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nói riêng nhưng không một ai có thể phủ nhận được
tính tích cực của thuế GTGT đối với toàn bộ nền kinh tế. Muốn thực thi tốt pháp luậ tthuế GTGT
cần có sự nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luậ thuế GTGT để từ đó nó
thể đưa ra hướng điều chỉnh phù hợp.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân,
2013.
2. />3. />4. />5. Thông tư số 83/2014/TT-BTC quy định về hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng theo
danh mục hàng hóa nhập khẩu Việt Nam.

12




×