Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.39 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ năng lượng mới,…từ cuối những năm 80 của thế kỷ
XX đến nay, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về
cơ cấu, chức năng lẫn phương thức hoạt động. Đây thực sự là một bước
ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại - nền kinh tế đang chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế là
tri thức và tiềm năng tạo ra tri thức, vì thế trên thế giới đang diễn ra
cuộc chạy đua gay gắt giữa các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai
thác nguồn lực trí tuệ. Mặc dù các nước phát triển có ưu thế hơn hẳn
trong cuộc cạnh tranh này, nhưng kinh tế tri thức cũng tạo ra cơ hội cho
các nước đang phát triển vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển. Cơ hội này sẽ trở thành hiện thực nếu họ biết nắm bắt, khai
thác tiến bộ của khoa học – công nghệ, tri thức của nhân loại để phát
huy nội lực, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Nhận thức rõ
điều đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định
“…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức”. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định “đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức”.
Để phát triển kinh tế tri thức, chúng ta không có cách nào khác là
phải nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ
lao động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ - những người trực tiếp
tham gia vào quá trình sáng chế ra những tiến bộ khoa học – công nghệ
và tiếp thu, áp dụng những thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại của
1



thế giới vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều
này đòi hỏi tất yếu phải tập trung phát triển vượt bậc nền giáo dục nước
nhà, đặc biệt là giáo dục đại học vì nó trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực
trình độ cao - lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế tri thức. Bởi thế, Đại
hội Đảng lần thứ X một lần nữa nhấn mạnh vai trò “quốc sách hàng
đầu” của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, và xác định một
trong những nhiệm vụ chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”.
Là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội, giáo dục đại học
ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào,
góp phần đắc lực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, giáo dục đại học
cũng đang bộc lộ những hạn chế, bất cập về mặt lý luận cũng như thực
tiễn, cần được khắc phục. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi giáo dục đại học Việt
Nam phải có sự đổi mới mạnh mẽ và toàn diện trong toàn bộ hoạt động
giáo dục để có được lời giải hữu hiệu cho một câu hỏi tổng quát đầy hệ
trọng là: Giáo dục đại học Việt Nam phải làm gì và làm như thế nào để
tăng nhanh quy mô gắn với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế tri thức? Đây thực sự là một vấn đề
lớn, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được luận giải
thấu đáo. Để góp phần làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại
học Việt Nam”.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thuật ngữ “Kinh tế tri thức” xuất hiện trong các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học Việt Nam chưa lâu, mới chỉ khoảng mười
năm trở lại đây, song do tính chất quan trọng của vấn đề - một vấn đề
có tính thời sự, thời đại và tác động trực tiếp đến sự phát triển của các
nước – kinh tế tri thức đã nhanh chóng trở thành vấn đề được các nhà
khoa học quan tâm. Ở nước ta đã xuất hiện một số công trình nghiên
cứu tìm hiểu về kinh tế tri thức dưới những góc độ khác nhau và được
trình bày dưới dạng các bài báo khoa học, sách hoặc đề tài nghiên cứu
khoa học. Chẳng hạn, “Động lực cho kinh tế tri thức”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 6/2003, của GS.VS Đặng Hữu; “Kinh tế tri thức và những
vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, 2004, của PGS,TS Đoàn Văn Khái; “Kinh tế sáng
tạo”, Tạp chí Tia sáng, 4-12-2005, của Song Ca; “Tìm hiểu vấn đề
“Đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức” trong Văn kiện Đại hội X của Đảng”, Nxb Chính trị Quốc gia,
2007, của GS.TS Chu Văn Cấp; “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Cộng sản 21/2007,
của GS. Vũ Đình Cự; “Quản lý tri thức trong nền kinh tế hiện đại”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 8/2007, của GS. Boris Mil’ner;
“Một số thông tin bước đầu về xã hội tri thức”, nhiệm vụ cấp bộ, 2008,
của PGS,TS Nguyễn Văn Dân; “Diện mạo và triển vọng của xã hội tri
thức”, Nxb Khoa học xã hội, 2008, PGS,TS Nguyễn Văn Dân;...
Về vấn đề giáo dục và giáo dục đại học, cũng có những công trình
nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau xung quanh tình
hình giáo dục nước ta hiện nay; việc đổi mới giáo dục – đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Tiêu biểu như,

“Vấn đề kết hợp truyền thống và hiện đại trong đổi mới giáo dục đào
3


tạo đại học ở Việt Nam hiện nay”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ,
2006, của PGS,TS. Đoàn Văn Khái; “ Đổi mới giáo dục và người lãnh
đạo: Thế giới thay đổi – giáo dục thay đổi”, Tạp chí Tia sáng, số 17, 59-2006, của Ngô Việt Trung; “Khởi đầu chấn hưng đại học bằng “tinh
hoa””, Tạp chí Tia sáng, số 17, 5-9-2007, của GS.Bùi Trọng Liễu;
“Giáo dục đại học: Luận bàn vài điều cấp thiết”, Tạp chí Tia sáng, số
18, 20-9-2007, của GS.Pierre Darriulat; “ Xây dựng một đại học “hoa
tiêu””, Tạp chí Tia sáng, số 19, 5- 10-2007, của GS. NGND Nguyễn
Văn Chiển; “ Tiêu chuẩn của trường đại học đẳng cấp quốc tế”, Tạp
chí Tia sáng, số 19, 5-10-2007, của Nguyễn Văn Tuấn; “Đổi mới, nâng
cao năng lực vai trò, trách nhiệm, đạo đức của đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế Việt Nam hội nhập quốc tế”, Nxb
Lao động – Xã hội, 2007; “Phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong
bối cảnh mới”, Tạp chí Cộng sản, số 5/2007, của Phạm Đỗ Nhật Tiến ;
“Vài suy nghĩ về giáo dục đại học trong thời đại mới”, Tạp chí Tia
sáng 2-5-2008, của TS. Nguyễn Kim Dung; “Dạy và học theo quan
điểm học suốt đời”, Tạp chí Tia sáng, 4-8-2008, của GS. Đỗ Đăng Giu;
“Cải cách giáo dục đại học theo hướng tiếp cận các trường đại học
đẳng cấp quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 24/2008, của TS. Ngô Tứ
Thành; “Giải pháp phát triển giáo dục: Từ góc nhìn nghiệp vụ sư
phạm”, Tạp chí Tia sáng, 25-5-2009, của GS. Hồ Ngọc Đại ; “Làm gì
để giáo dục đại học nâng cao thứ hạng?”, báo Giáo dục thời đại, 2-72009, của Sông Hồng;“Xã hội hóa giáo dục và vai trò của Nhà nước”,
Thời báo kinh tế Sài Gòn, 11-8-2009, của GS,TS. Nguyễn Vân Nam;
“Hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam”,
Tạp chí Tia sáng, 19-08-2009, của Ths. Phạm Văn Luân;...
Tóm lại, xung quanh vấn đề kinh tế tri thức và vấn đề giáo dục và
giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay đã có những công trình nghiên

cứu ở những góc độ và mức độ khác nhau. Tuy vậy, chưa có chuyên
khảo nào luận bàn một cách có hệ thống về vị trí, vai trò của giáo dục
4


đại học trong kinh tế tri thức, những vấn đề mà kinh tế tri thức đặt ra
đối với giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế và những việc
cần phải làm để đổi mới, phát triển giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng
yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ bản chất của kinh tế tri
thức và những đòi hỏi của nó đối với giáo dục đại học Việt Nam; trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, phát triển
giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh
tế tri thức.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn là:
Thứ nhất, luận giải những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức, qua đó
góp phần làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm, quá trình hình thành và phát triển
của kinh tế tri thức.
Thứ hai, lý giải vai trò của giáo dục đại học trong kinh tế tri thức,
phân tích thực trạng giáo dục đại học Việt Nam, từ đó làm rõ những
vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học trước yêu cầu phát triển kinh tế
tri thức.
Thứ ba, trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, phát
triển giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu từng bước phát triển
kinh tế tri thức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế tri thức và giáo dục đại học Việt
Nam

- Phạm vi nghiên cứu: Đây là một đề tài rộng nên luận văn giới hạn
ở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên. Trong từng vấn đề cụ thể,
5


luận văn cũng không thể đề cập tất cả mọi khía cạnh mà chỉ tập trung
vào những khía cạnh mà tác giả cho là quan trọng nhất.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên các tác phầm của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài. Luận văn cũng kế thừa các
công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước trong và ngoài nước có
liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng là: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, lôgíc và lịch sử
với tinh thần lý luận kết hợp với thực tiễn trên cơ sở phương pháp luận
biện chứng duy vật.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm, quá trình hình
thành và phát triển của kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay trước yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức.
- Góp phần làm rõ thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, phát triển
giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài tài liệu tham khảo, phần mở đầu và phần kết luận, luận văn
gồm 3 chương với 10 tiết.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức

Chương 2: Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức
6


Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển giáo dục đại
học Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Khái niệm kinh tế tri thức
Sau khi trình bày và nhận xét một vài định nghĩa về kinh tế tri thức,
luận văn giới thiệu định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) về kinh tế tri thức. Theo OECD, “Kinh tế tri thức là một nền
kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức”
hoặc “Kinh tế tri thức là kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội loài người”. Đây là những định
nghĩa có tính khái quát cao, tuy nhiên trong hai định nghĩa đó, theo
chúng tôi, định nghĩa thứ nhất chuẩn hơn. Bởi vì, định nghĩa này đã chỉ
ra được những thuộc tính cơ bản quy định nội hàm của khái niệm kinh
tế tri thức, đó là: nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối
và sử dụng tri thức. Đây cũng chính là những thuộc tính phản ánh bản
chất của nền kinh tế tri thức, thiếu những thuộc tính này nền kinh tế
không được gọi là nền kinh tế tri thức. Và với một nền kinh tế mang
bản chất như vậy, thì yếu tố tri thức có vai trò then chốt đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội của loài người là điều đương nhiên, nó chính là hệ
quả của nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử

dụng tri thức.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển kinh tế tri thức
Sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức là kết quả của một quá
trình phát triển lâu dài về khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh tế thị
trường. Quá trình này có thể được chia thành 5 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1, từ năm 1770 đến 1825, bắt đầu từ nước Anh; máy
móc ra đời, đặc biệt là việc phát minh ra máy hơi nước của Jame Watt
năm 1784 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của nhân
loại. Phát minh này là điểm mốc đầu tiên của cuộc cách mạng khoa học
8


- kỹ thuật lần thứ nhất, cuộc cách mạng có công chuyển nền kinh tế thế
giới từ thời kỳ thủ công sang thời kỳ cơ khí hóa.
Giai đoạn 2, từ năm 1826 đến 1875, phát sinh chủ yếu ở Anh,
Pháp, Đức. Kinh tế thị trường phát triển dựa trên thành tựu của cuộc
cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học kỹ thuật thời kỳ trước.
Nhờ đó, giao thông thủy, bộ và ngành chế tạo đã phát triển mạnh.
Ngành cơ khí chế tạo ra đời, mở đầu thời kỳ có thể dùng máy để chế
tạo ra máy.
Giai đoạn 3, từ năm 1876 đến năm 1935, phát sinh chủ yếu ở Mỹ
và Đức. Ở thời kỳ này, điện và hơi đốt là nguồn năng lượng chủ yếu
thay thế cho hơi nước. Song song với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật là sự xuất hiện của nhiều ngành công nghiệp mới như ngành điện,
ngành khai thác và chế biến dầu lửa, ngành hóa chất, ngành cơ khí chế
tạo ô tô mới ra đời. Đặc trưng cơ bản nhất của những ngành mới nổi
này so với những ngành truyển thống là hàm lượng cơ khí, máy móc
trong sản phẩm chiếm tỷ lệ cao nhất.
Giai đoạn 4, từ năm 1936 - 1982 xuất hiện chủ yếu ở Mỹ. Đây là
thời điểm diễn ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ 2. Cuộc

cách mạng này đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới xu hướng và tốc độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi năm thế giới có khoảng 1 triệu
phát minh mới, làm xuất hiện 30 vạn mặt hàng mới. Chính những phát
minh này đã chuyển nền kinh tế thế giới từ thời kỳ cơ khí hóa sang thời
kỳ tự động hóa. Bên cạnh những ngành kinh tế truyền thống gắn với
nền đại công nghiệp, các ngành kinh tế mới đã phát triển với tốc độ rất
nhanh (điện tử - bán dẫn, máy tính, viễn thông,…), trong đó các dịch vụ
liên quan đến thông tin (ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm,…) phát
triển mạnh. Đây chính là thời điểm đánh dấu sự gia nhập của một yếu tố
sản xuất mới trong nền kinh tế, đó là thông tin.

9


Giai đoạn 5, bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX. Giai đoạn
này cũng mở đầu tại nước Mỹ, khi quốc gia này muốn khôi phục vị trí
bá chủ thế giới của mình nhưng không phải qua công nghiệp mà qua
công nghệ cao. Mỹ đã sẵn sàng cho cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ; kinh tế thế giới chuyển từ thời kỳ tự động hóa sang thời kỳ công
nghệ cao. Theo các nhà nghiên cứu, đây chính là thời điểm nền kinh tế
tri thức hình thành và phát triển với các mũi nhọn công nghệ cao: công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới,
công nghệ hàng không vũ trụ…
Nói tóm lại, kinh tế tri thức đã được manh nha từ cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần 1, lần 2; nhưng phải đến những năm 80 của thế
kỷ XX khi diễn ra cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thì nó mới
xuất hiện và cũng chỉ mới xuất hiện ở một vài nước phát triển nhất
(Mỹ, Nhật Bản). Như đã khẳng định, sự xuất hiện này không phải là đột
biến mà là kết quả phát triển lâu dài trên cơ sở kế thừa những thành tựu
của nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Đồng thời, đó

cũng là kết quả của một quá trình hai trăm năm phát triển khoa học, kỹ
thuật, công nghệ với sự gia tăng hàm lượng tri thức trong sản phẩm
cũng như tỷ trọng của nó trong GDP đến ngưỡng để được coi là kinh tế
tri thức. (Theo OECD, tỷ trọng các ngành tri thức chiếm trên 70% GDP
thì nền kinh tế mới được gọi là kinh tế tri thức). Những kết quả ấy có
thể tóm tắt lại bằng những nhân tố sau:


Tự động hóa cao độ;



Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ;


Một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình thành,
sản xuất và tiêu thụ tri thức;

Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị
trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu;
10



Một hệ thống giáo dục và đào tạo tốt tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng.
1.3. Đặc điểm của kinh tế tri thức
- Nền kinh tế tri thức coi tri thức là lực lượng sản xuất hàng đầu, là
nhân tố quyết định sự phát triển.
- Xã hội trong nền kinh tế tri thức là xã hội học tập.

- Nền kinh tế lấy thông tin và công nghệ thông tin làm chỗ dựa để
phát triển.
- Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững, rất nhạy
cảm và thân thiện với môi trường.
- Nền kinh tế tri thức lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động
chính.
- Sáng tạo là yếu tố sống còn với nền kinh tế tri thức.
Từ những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức nói trên cho thấy
muốn bước vào nền kinh tế tri thức phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mà khi nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao thì biểu hiện cơ bản chính là
năng lực trí tuệ, trình độ chuyên môn và khả năng sáng tạo. Điều này phụ
thuộc chủ yếu vào vai trò quyết định của nền giáo dục quốc dân, trong đó
trực tiếp và quyết định nhất là giáo dục đại học. Vai trò của giáo dục đại học
đối với phát triển kinh tế tri thức thể hiện ở những nét khái quát sau:

Giáo dục đại học cung cấp kiến thức, trang bị trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp cho người lao động ở mức cao.

Giáo dục đại học thực hiện chức năng phổ biến, truyền bá tri
thức (hoạt động đào tạo) và thu nhận, sáng tạo tri thức (hoạt động nghiên cứu
khoa học).

Giáo dục đại học tạo môi trường kích thích sự sáng tạo, dạy
người ta làm quen với nghiên cứu khoa học, với sáng tạo; trang bị những cơ

11


sở, nền tảng (kiến thức nền, phương pháp luận và những định hướng), qua
đó giúp người học hình thành năng lực sáng tạo.


Giáo dục đại học dạy cách học, cách sáng tạo, qua đó giúp
người học hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu và thực hiện việc học
tập suốt đời.

Giáo dục đại học còn dạy người ta cách làm việc trong nền
kinh tế tri thức.
Tóm lại, nói một cách tổng quát, vai trò của giáo dục đại học là cung
cấp nguồn nhân lực trình độ cao, có khả năng sáng tạo tri thức, truyền
bá tri thức và khai thác, sử dụng tri thức trong hoạt động khoa học và
thực tiễn. Bởi vậy, với bất kỳ một nước nào muốn phát triển kinh tế - xã
hội nói chung, nhất là bước vào nền kinh tế tri thức, đều phải tập trung
phát triển nền giáo dục quốc dân, đặc biệt là giáo dục đại học.

12


Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
2.1. Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam
2.1.1. Những thành tựu cơ bản của giáo dục đại học Việt Nam
Thứ nhất, về mặt tư tưởng, quan điểm, nền giáo dục đại học Việt
Nam đã kế thừa và phát triển lên một tầm cao với tư tưởng coi trọng
giáo dục. Đó là quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu,
phát triển giáo dục đại học cũng như giáo dục nói chung chính là nhằm
tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Thứ hai, mục tiêu giáo dục - đào tạo trong đó có giáo dục đại học
đã dần được điều chỉnh theo yêu cầu phát triển của đất nước trong thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế. Mục tiêu tổng quát được Đại hội Đảng lần thứ IX
xác định là: Giáo dục – đào tạo phải nhằm phục vụ cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức; còn
mục tiêu về mặt xã hội là cả nước trở thành một xã hội học tập, học tập
suốt đời.
Thứ ba, trong tổ chức giáo dục đại học trong những năm gần đây
chúng ta đã đa dạng hóa các loại hình trường đại học.. Theo số liệu
thống kê về giáo dục đại học Việt Nam năm học 2007 – 2008, cả nước
ta có 369 trường đại học và cao đẳng thì số trường công lập là 305, số
trường ngoài công lập là 64. Như vậy, mặc dù số trường công lập vẫn
chiếm số đông, vẫn là chủ đạo, song các trường dân lập đã ngày càng
được chú trọng, được phát triển, mở ra nhiều cơ hội cho đông đảo
người dân Việt Nam được theo học ở bậc đại học và tiếp tục học ở các
bậc cao hơn.
13


Thứ tư, nội dung chương trình và hình thức đào tạo đại học có sự
đổi mới. Bên cạnh những ngành, chuyên ngành đào tạo truyền thống,
nhiều ngành, chuyên ngành đào tạo mới được hình thành để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học – công nghệ. Từ
đó, nhiều chương trình đào tạo mới, nhiều môn học mới, chủ yếu được
tiếp thu, tham khảo từ các nước phát triển, được xây dựng và triển khai
giảng dạy. Hình thức đào tạo mới theo học chế tín chỉ bắt đầu được áp
dụng vào các trường đại học trong những năm gần đây. Đây là một
chương trình đào tạo mềm dẻo, cùng với các học phần bắt buộc còn có
các học phần tự chọn, cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh ngành
nghề đào tạo; đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, đánh giá chặt

chẽ, tiết kiệm và hiệu quả, thuận lợi cho người học khi muốn chuyển
đổi ngành học hoặc học liên thông lên cao hơn.
Thứ năm, hoạt động đảm bảo chất lượng giáo dục đã được hình
thành và đi vào hoạt động: thành lập cơ quan đảm bảo chất lượng cấp
quốc gia; xây dựng các quy định về kiểm định chất lượng các trường
đại học; bước đầu thiết lập và tiếp tục hoàn thiện hệ thống dọc cho hoạt
động đảm bảo chất lượng quốc gia; xây dựng và áp dụng việc kiểm
định chất lượng các trường đại học cho toàn hệ thống giáo dục đại học
của Việt Nam vào năm 2010;…
Thứ sáu, Nhà nước tăng đầu tư cho giáo dục đại học. Ngân sách
Nhà nước đầu tư cho giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục đại học,
đã tăng từ 15% năm 2000 lên 16.5% năm 2005. Năm 2008, Bộ Giáo
dục và Đào tạo ước tính chi 76.200 tỷ đồng cho giáo dục, chiếm 20%
tổng chi Ngân sách Nhà nước. Năm 2009, vốn trong nước đầu tư xây
dựng cơ bản cho các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng là 648 tỷ đồng,
tăng 12,7% so với năm 2008.

14


2.1.2. Những hạn chế chủ yếu của giáo dục đại học Việt Nam
Một là, quy mô giáo dục đại học chưa đáp ứng yêu cầu cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức (mới chỉ 10%
thanh niên trong độ tuổi được học đại học); mất cân đối lớn về cungcầu.
Hai là, chất lượng, hiệu quả đào tạo thấp, học chưa gắn chặt với
hành, nhân lực được đào tạo yếu về năng lực và phẩm chất; chưa bình
đẳng về cơ hội tiếp cận.
Ba là, cơ cấu hệ thống trường đại học bất hợp lý. Mạng lưới trường,
viện và các trung tâm nghiên cứu tách biệt đã làm giảm hiệu quả đầu tư
và chất lượng đào tạo, nghiên cứu. Chưa có phân tầng các trường về

chức năng, nhiệm vụ; quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các
trường không cao. Công tác nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm
đúng mức; chưa gắn kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ đời
sống xã hội.
Bốn là, nguồn lực cho giáo dục đại học hạn hẹp, chủ yếu dựa vào
nguồn ngân sách nhà nước, học phí nhỏ bé.
Năm là, chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành, chậm hội nhập. Cơ cấu ngành nghề đơn điệu;
phương pháp dạy và học rất lạc hậu; quy trình đào tạo đóng kín, cứng
nhắc, thiếu mềm dẻo, liên thông.
Sáu là, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý hẫng hụt, không đáp ứng
yêu cầu đổi mới cả về số lượng và chất lượng.
Bảy là, quản lý vĩ mô hệ thống đại học còn bao biện, ôm đồm, quan
liêu, hành chính bao cấp.
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam
trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển giáo dục đại
học để đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
15


phát triển kinh tế tri thức với những điều kiện thực thi yêu cầu này,
nghĩa là phải giải quyết vấn đề nguồn lực cho phát triển giáo dục đại
học.
Thứ hai, xử lý mối quan hệ giữa quy mô số lượng và chất lượng giáo
dục đại học.
Thứ ba, nhanh chóng khắc phục sự bất cập giữa chất lượng, cơ cấu
ngành nghề và nội dung chương trình đào tạo với yêu cầu của thị trường
lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế
tri thức và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, đổi mới công tác quản lý giáo dục đại học theo hướng đề
cao hiệu quả; xây dựng hệ thống giáo dục đại học hợp lý; hiện đại hóa
giáo dục đại học; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong giáo dục
đại học.
Từ thực trạng giáo dục đại học Việt Nam và những vấn đề bức xúc
đang đặt ra mà giáo dục đại học phải nhận rõ, khắc phục và xử lý để
hoàn thành sứ mệnh cao cả là cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, vấn đề đổi mới và phát triển mạnh mẽ, toàn diện giáo dục đại học
Việt Nam như một đòi hỏi bức bách hiện nay, cần được thực hiện quyết
liệt với một hệ thống các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi.

16


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
3.1. Nhận thức đúng bản chất, đặc điểm của kinh tế tri thức, vai
trò của giáo dục đại học đối với phát triển kinh tế tri thức và thực
trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần nhận thức rõ kinh tế tri thức là gì, bản chất và đặc
điểm của nó như thế nào, cần những điều kiện tiền đề vật chất và tinh
thần gì, thực trạng nền kinh tế Việt Nam đang đứng ở đâu, chúng ta đã
và đang chuẩn bị những gì để tiếp cận, để tiến vào kinh tế tri thức,…
Thứ hai, nhận thức thấu đáo hơn vai trò của giáo dục đại học trong
việc tiếp cận, tiến tới thực hiện kinh tế tri thức ở nước ta.
Thứ ba, phải đánh giá đúng thực trạng giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay.

Thứ tư, phải nhận thức rõ việc đổi mới và phát triển giáo dục đại
học Việt Nam là một tất yếu, một đòi hỏi bức bách do yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
và phải có quyết tâm chính trị để thực hiện điều đó.
Thứ năm, tích cực hiện đại hóa giáo dục đại học nhưng là sự hiện
đại hóa có chọn lọc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu phát
triển của đất nước, xu thế phát triển của thế giới để từng bước chủ động
hội nhập quốc tế.
3.2. Tăng cường nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học
- Vấn đề đầu tư xây dựng cơ chế, chính sách phát triển giáo dục
đại học: cần tăng đầu tư cho việc nghiên cứu xây dựng các cơ chế,
chính sách phát triển giáo dục đại học là một trong những việc làm rất
quan trọng cần thực hiện đầu tiên.
17


- Phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục đại học:
 Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách quan, công
bằng, mang tính cạnh tranh.
 Lựa chọn sinh viên khá giỏi, cán bộ khoa học có năng lực đã
kinh qua công tác tại các cơ sở kinh tế - xã hội để bổ sung cho đội ngũ.
 Sử dụng cơ chế hợp đồng dài hạn (với mọi đối tượng đủ tiêu
chuẩn và điều kiện) để tăng số lượng giảng viên đại học nhằm mau
chóng đảm bảo tỷ lệ sinh viên/giảng viên hợp lý đối với từng ngành đào
tạo.
 Xác định mức lương và các chế độ đãi ngộ phù hợp cho giáo
chức và cán bộ quản lý giáo dục đại học theo hướng coi trọng chất xám,
hiệu quả công việc.
 Đảm bảo được chỗ làm việc đủ tiện nghi tối thiểu tại trường
cho giảng viên đại học để tăng thời gian tiếp xúc của họ với đồng

nghiệp và sinh viên.
 Có chính sách đào tạo đội ngũ giảng viên từ nước ngoài nhờ
các chương trình học bổng nhà nước và các nguồn lực khác.
 Xây dựng cơ chế chính sách để thu hút được nhiều chuyên gia
giỏi từ các cơ sở nghiên cứu và sản xuất kinh doanh trong nước và
ngoài nước để hỗ trợ cho giảng dạy đại học.
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục đại học:

 Nhà nước tăng thêm kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho
giáo dục đại học, còn các địa phương có kế hoạch điều chỉnh quy hoạch,
dành quỹ đất để xây dựng các cơ sở giáo dục đại học mới, hiện đại, đạt
tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.


Thực hiện mạnh mẽ hơn nữa chính sách xã hội hoá giáo dục.

 Các cơ sở giáo dục đại học chủ động thực hiện đa dạng hóa
nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục đại học, khai thác triệt để các
18


nguồn lực từ nghiên cứu và triển khai, nguồn lực từ các dịch vụ tư vấn,
nguồn lực ngoài nước.
 Thực hiện cơ chế nhà trường được tự chủ về hạch toán thu –
chi theo nguyên tắc từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù các khoản chi
hợp lý, có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo
và nghiên cứu.
 Xác lập sự chia sẻ chi phí giáo dục đại học giữa Nhà nước,
người học và cộng đồng trong đó có sự đóng góp của các cơ sở sử dụng
lao động được đào tạo; xây dựng lại hệ thống chính sách học phí, học

bổng, tín dụng sinh viên.
 Đổi mới chính sách tài chính nhằm tăng hiệu quả đầu tư từ
ngân sách và khai thác các nguồn đầu tư khác cho giáo dục đại học.
3.3. Đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy và học tập, phương pháp đánh giá kết quả học tập
theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức
- Về mục tiêu, nội dung chương trình:
Cần xác định rõ mục tiêu giáo dục đại học ở nước ta theo quan
điểm mới. Đó là mục tiêu dạy và học đại học nhằm tạo nên con người
có các loại tiềm năng: thứ nhất, để học tập, nghiên cứu sáng tạo; thứ
hai, để phát triển cá nhân gắn kết với xã hội; thứ ba, để tìm và tạo việc
làm không chỉ cho bản thân mà còn cho những người khác. Đây thực ra
là sự vận dụng lý luận tổng hợp của thế giới về mục tiêu của giáo dục
đại học (là đào tạo ra nguồn nhân lực có 3 loại tiềm năng) vào điều kiện
cụ thể của nước ta trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức. Nội dung
chương trình cho các ngành đào tạo đại học, cao đẳng cần được sửa đổi,
điều chỉnh cho thật phù hợp. Cần dành nhiều hơn thời gian, công sức và
đầu tư nguồn lực vật chất cần thiết cho việc xây dựng chương trình
khung cho các ngành đào tạo đại học, cao đẳng, xem đây là biện pháp
19


quan trọng, biện pháp tiêu chuẩn hóa để nâng cao chất lượng giáo dục
đại học của nước ta.
- Về phương pháp giảng dạy và học tập:
Phương pháp dạy và học bao gồm nhiều cách thức, biện pháp
nhưng phương pháp chung có hiệu quả cao và đang trở thành xu hướng
có tính phổ biến là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Với tinh thần như vậy, cần đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện sự nghiệp

đổi mới phương pháp dạy và học theo các phương châm: - dạy cách
học; - phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của người học; - tận
dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới và biến quá trình dạy
học thành quá trình tự học, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
tạo.
- Về phương pháp đánh giá kết quả học tập:
Đổi mới phương pháp dạy và học gắn liền với đổi mới phương
pháp đánh giá kết quả học tập của người học. Cần có sự thay đổi một
cách cơ bản phương pháp đánh giá kết quả học tập theo hướng chuẩn
hóa, mang tính thực chất và dựa trên cơ sở mục tiêu đào tạo, hay nói cụ
thể hơn là lấy mục tiêu đào tạo làm cơ sở, làm tiêu chí để đánh giá kết
quả học tập của người học. Theo đó, dù thi tự luận hay trắc nghiệm,
trong đề thi, kiểm tra phải có phần liên hệ, vận dụng, bài tập thực hành,
đòi hỏi năng lực tư duy sáng tạo, khả năng gắn lý luận với thực tiễn của
người học. Cần chú trọng đánh giá kết quả học tập của người học một
cách toàn diện và trong suốt cả quá trình học tập chứ không chỉ trong
kỳ thi cuối kỳ, cuối khóa.
3.4. Phát triển qui mô gắn với nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục đại học
Để đa dạng hóa và mở rộng nhanh quy mô cho có hiệu quả, có khá
nhiều cách thức, có thể phân thành 3 nhóm:
20


Một là, phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng công lập
thông qua việc thành lập các trường mới và mở rộng quy mô các trường
hiện có.
Hai là, phát triển các viện đại học mở và giáo dục từ xa, viện đại
học qua truyền hình, đại học hàm thụ v.v…
Ba là, phát triển đại học tư thục.

Bên cạnh đó, để đa dạng hóa và mở rộng nhanh quy mô cho có chất
lượng, cần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống giáo dục đại học cần điều chỉnh cơ cấu trình độ,
cơ cấu ngành nghề và hệ thống nhà trường nhằm làm cho giáo dục đại
học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu
hướng phát triển của thế giới.
Thứ hai, nhanh chóng xây dựng một số trường đại học trình độ
quốc tế, gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học, đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực và thế giới, làm chỗ dựa về chất lượng cho toàn hệ thống
giáo dục đại học.
Thứ ba, đẩy mạnh đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên.
Thứ tư, để giải bài toán qui mô - chất lượng, phải "phân tầng chất
lượng" các đại học.
Cuối cùng, để nâng cao hiệu quả giáo dục đại học, tất yếu phải khai
thác hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục đại học, nâng cao
chất lượng đào tạo, nhất là phải đảm bảo sự phù hợp giữa sản phẩm đào
tạo ra (số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ) với
yêu cầu của thị trường lao động.
3.5. Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế trong giáo dục đại học

Thứ nhất, nâng cao chất lượng các chương trình nghiên cứu và đào
tạo đặc thù cho quốc gia để thu hút các nhà nghiên cứu và học viên
quốc tế.
21


Thứ hai, xây dựng các quan hệ trao đổi giảng viên và sinh viên, các
liên kết đào tạo và nghiên cứu với đại học nước ngoài.
Thứ ba, thiết lập các nguyên tắc và thủ tục thông thoáng cho phép

người nước ngoài đầu tư 100% vốn hoặc mở chi nhánh đào tạo đại học
ở nước ta.
Thứ tư, xây dựng các trung tâm du học tại chỗ, mời chuyên gia
quốc tế đào tạo chất lượng cao đến nước ta giảng dạy và đào tạo một
cách hệ thống, bằng cách đó làm giảm nguy cơ chảy máu chất xám.
Thứ năm, tạo mối quan hệ hợp tác hữu hiệu với các trường đại học,
viện nghiên cứu của các nước có nền khoa học mạnh. Mở rộng các hình
thức liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam nhằm thích ứng với điều kiện
kinh phí còn khó khăn của giáo dục nước ta.
Thứ sáu, tận dụng mọi khả năng thu hút chuyên gia giỏi từ nước
ngoài hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu.
Thứ bảy, tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, tiến tới xuất
khẩu lao động trình độ cao và xuất khẩu chất xám thông qua con đường
chuyển giao công nghệ.

22


KẾT LUẬN
Kinh tế tri thức là xu thế vận động tất yếu của nhân loại mà sớm
hay muộn nền kinh tế các nước đều tiến đến. Nó mở ra cơ hội cho sự
phát triển của các nước, đồng thời cũng đưa đến những thách thức đối
với các nước trong quá trình phát triển, nhất là đối với các nước đang ở
tình trạng kém phát triển như nước ta. Để không bị gạt ra ngoài lề xu
thế vận động tất yếu đó và từng bước thực hiện có hiệu quả kinh tế tri
thức, chúng ta phải chủ động xây dựng các nguồn lực cần thiết, trong
đó nguồn lực con người có trí tuệ là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất.
Điều này đòi hỏi tất yếu phải tập trung phát triển nền giáo dục nước
nhà, đặc biệt là giáo dục đại học vì nó trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực
trình độ cao – lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế tri thức.

Hiện tại, giáo dục đại học Việt Nam bên cạnh những ưu điểm vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần được khắc phục. Đó là quy mô
giáo dục đại học hiện chưa đáp ứng yêu cầu cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, gây ra tình trạng mất cân đối lớn
về cung-cầu. Chất lượng, hiệu quả đào tạo thấp, học chưa gắn chặt với
hành, nhân lực được đào tạo yếu về năng lực và phẩm chất; chưa bình
đẳng về cơ hội tiếp cận. Trong khi đó cơ cấu hệ thống trường đại học
lại bất hợp lý. Nguồn lực hạn hẹp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách
nhà nước. Chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành, chậm hội nhập. Cơ cấu ngành nghề đơn điệu;
phương pháp dạy và học rất lạc hậu; quy trình đào tạo đóng kín, cứng
nhắc, thiếu mềm dẻo, liên thông. Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý
hẫng hụt, không đáp ứng yêu cầu đổi mới cả về số lượng và chất lượng.
Quản lý vĩ mô hệ thống đại học còn bao biện, ôm đồm, quan liêu, hành
chính bao cấp.

23


Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp bách là phải đổi mới và phát triển
mạnh mẽ, toàn diện giáo dục đại học với hàng loạt các giải pháp đồng
bộ. Trước hết, cần nhận thức đúng bản chất, đặc điểm của kinh tế tri
thức, vai trò của giáo dục đại học đối với phát triển kinh tế tri thức và
thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tiếp theo là phải tăng
cường nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học. Đồng thời, phải đổi
mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy
và học tập, phương pháp đánh giá kết quả học tập theo hướng “chuẩn
hoá, hiện đại hoá”, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Mặt khác, phải phát triển qui
mô gắn với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học. Ngoài ra,

cần phải tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế trong giáo dục đại học,
nghĩa là phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo
dục đại học – con đường ngắn nhất để hiện đại hoá giáo dục đại học
trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng của thế giới
ngày nay.

24



×