Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.9 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Xử phạt vi phạm hành chính là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật
hành chính, là quá trình các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào
pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ…để ban hành các quyết định xử phạt. Các qui định về
XPVPHC có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn ngừa sự lạm quyền
trong quá trình xử phạt, đảm bảo việc xử phạt được tiến hành nhanh chóng, kịp
thời, công minh, giúp việc XPVPHC theo một trình tự nhất định và đạt hiệu quả
cao nhất. Dưới đây, em xin được làm rõ vấn đề “Đánh giá tính hợp lí của các
quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính”.

B. NỘI DUNG
I.
Một số khái niệm
1. Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
xã hội, là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính.
2. Xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp
xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường
hợp cẩn thiết, theo quy định của phát luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính.
3. Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Thẩm quyền XPVPHC là giới hạn mà pháp luật quy định cho mỗi chủ
thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Mỗi chủ thể có quyền xử phạt
đối với những hành vi vi phạm hành chính nhất định trong phạm vi nghĩa vụ,
quyền hạn của mình, ngoài phạm vi quyền hạn của mình thì không có quyền xử


phạt.
Thủ tục XPVPHC là trình tự, cách thức tổ chức thực hiện mà pháp luật
quy định cho các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
II.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
1. Những quy định chung về xử phạt vi phạm hành chính
a. Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Căn cứ vào pháp luật hiện hành, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (đã sửa đổi năm 2008), các nghị định của Chính phủ và 1 số văn bản khác


đã quy định rõ các chủ thể có thẩm quyền XPVPHC trong từng vùng. Điều đó
có nghĩa là, không có những cơ quan riêng được lập ra với mục đích XPVPHC
mà các chủ thể có thẩm quyền XPVPHC chính là cơ quan quản lí nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, các cơ quan chuyên môn và được xác định cụ thể
cho các chức danh trong từng cơ quan đó. Mặt khác một số chức danh trong các
cơ quan tư pháp và thi hành án cũng có thẩm quyền XPVPHC như Thẩm phán,
Chủ tọa phiên tòa, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chấp hành viên và
Trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Cụ thể Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính hiện hành (đã sửa đổi bổ
sung năm 2008) quy định thẩm quyền xử phạt hành chính cho các chủ thể sau:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; người có thẩm quyền trong các cơ quan
chuyên môn sau: công an nhân dân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan,
kiểm lâm, thuế, quản lí thị trường, Thanh tra chuyên ngành, Ủy ban chứng
khoán, Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự, Giám đốc cảng vụ hàng
hải, Giám đốc cảng vụ đường thủy nội địa, Giám đốc cảng vụ hàng không,
người đứng đầu cơ quan đường thủy; đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ
quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt nam ở nước
ngoài, Cục trưởng cục quản lí lao động ngoài nước; Chủ tịch hội đồng cạnh
tranh và Thủ trưởng cơ quan quản lí cạnh tranh. Và mỗi chủ thể có một phạm vi

XPVPHC khác nhau, được quy định trong Pháp lệnh XPVPHC năm 2002 (đã
sửa đổi năm 2008).
b. Nguyên tắc xác định thẩm quyền (Điều 42 – Pháp lệnh XPVPHC năm
2002 – sửa đổi năm 2008 và Điều 15 – nghị định 128/2008/NĐ-CP của
chính phủ)
Với các chủ thể trong cơ quan quản lí hành chính nhà nước và các cơ
quan chuyên môn, thẩm quyền XPVPHC được xác định dựa trên nguyên tắc:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. Người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều từ Điều 31 đến Điều
40d của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (bổ sung năm 2008) có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý.
Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện.
2. Thẩm quyền xử phạt của những người được quy định tại các điều từ
Điều 28 đến Điều 40d của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (bổ sung năm
2008) là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong
trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa
của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể.


3. Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo nguyên tắc sau đây:
a) Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc
thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
b) Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi
vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm
đến cấp có thẩm quyền xử phạt;
c) Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành
khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm

quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.
Có thể thấy rằng việc quy định về xác định thẩm quyền trong XPVPHC
là một vấn đề hết sức quan trọng. Bởi lẽ như ta đã biết, thực tế vi phạm hành
chính xảy ra rất đa dạng, phức tạp trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước
trong khi lực lượng có thẩm quyền xử phạt cũng rất nhiều ở các ngành các cấp.
Vì vậy nếu chỉ có các quy định riêng biệt về thẩm quyền cho từng lĩnh vực, từng
cấp, ngành mà không có một nguyên tắc chung về xác định thẩm quyền sẽ dễ
dẫn đến việc áp dụng một cách tuỳ tiện, không đúng, không phù hợp. Hơn nữa,
nhờ có các nguyên tắc này mà việc xây dựng các quy định xử lý vi phạm trong
một lĩnh vực mới, cho một cơ quan mới sẽ dễ dàng hơn, đáp ứng kịp thời đòi
hỏi của thực tế.
2. Đánh giá về tính hợp lý của các quy định hiện hành về thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính
Nghiên cứu hệ thống các quy định hiện hành liên quan đến thẩm quyền
XPVPHC cho thấy các chức danh có thẩm quyền xử phạt đã được quy định
tương đối đầy đủ. Ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực quản lí nhà nước đều có
các chức danh được trao thẩm quyền tiến hành hoạt động này giúp bảo đảm
phát hiện nhanh chóng và xử lí kịp thời mọi trường hợp vi phạm.
Thẩm quyền XPVPHC thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ ràng
trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính là căn cứ quan trọng và điều kiện
thuận lợi để quy đinh cụ thể trong các Nghị định về xử lí vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước. Các quy định này về cơ bản đã
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật quy định về thẩm
quyền xử phạt. Việc quy định thêm chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong một số đạo luật đã phần nào đáp ứng đòi hỏi của quản lí nhà
nước, kịp thời trao quyền xử lí vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lí
chuyên ngành cho các chức danh mà Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính chưa
quy định.



Việc phân định thẩm quyền XPVPHC theo pháp luật hiện hành đã thể
hiện được sự kết hợp giữa quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo lãnh thổ,
đảm bảo phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lí nghiêm minh khi có vi phạm
hành chính xảy ra, tăng hiệu quả hoạt động XPVPHC. Việc phân định thẩm
quyền xử lí vi phạm hành chính cho nhiều chủ thể đã thể hiện được sự phân cấp
trong quản lí hành chính nước. Đó là sự chuyển giao quyền lực từ cơ quan quản
lí cấp trên xuống cấp dưới, từ trung ương xuống địa phương; là sự phân công rõ
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi cơ quan quản lí nhà nước. Mà một
trong những điều kiện để đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lí của cơ quan quản
lí đó là sự phân cấp phải khoa học - rành mạch.
Sự phân hóa trong các quy định về thẩm quyền XPVPHC: Người giữ
chức vụ cao hơn được trao quyền rộng hơn (đương nhiên là trách nhiệm cũng
nặng nề hơn); thẩm quyền của chủ tịch Ủy ban nhân dân được quy định tương
đối toàn diện hơn các chức danh hoạt động trong từng ngành hoặc lĩnh vực quản
lí cùng cấp; mức tiền phạt trong các lĩnh vực khác nhau cũng được quy định
khác nhau cho phù hợp đặc thù của từng lĩnh vực. Nhìn chung, các quy định
hiện hành đi theo hướng trao thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính gắn với
thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra
(trừ các chức danh có thẩm quyền XPVPHC ở cấp thấp). Điều đó góp phần
quan trọng trong việc giáo dục, răn đe người vi phạm, bảo đảm khắc phục hậu
quả của vi phạm, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống
vi phạm hành chính.
Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp người có thẩm
quyên xử phạt đỡ lúng túng trong việc xác định vụ việc cụ thể có thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong
đánh giá kết quả hoạt động xử lí vi phạm hành chính nói chung cũng như xác
định trách nhiệm của cấp dưới trong những vụ việc vụ thể.
Mặc dù đến nay công tác đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính đã
được nhà nước và xã hội quan tâm thích đáng, việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật quản lí hành chính nhà nước nói riêng luôn luôn

được đề cao, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay. Kể
từ khi được ban hành, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 đã được
sửa đổi bổ sung hai lần là năm 2007 và năm 2008 để đáp ứng nhu cầu đổi mới
trong công tác xử li vi phạm hành chính. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tính
cực đã đạt được, hệ thống quy định về thẩm quyền XPVPHC vẫn tồn tại một số
điểm hạn chế, bất cập sau:


• Các quy định về xử phạt vi phạm hành chính được thể hiện trong một
lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, việc theo dõi để thực
hiện sẽ khó khăn. Hơn nữa, các văn bản này do nhiều cơ quan và cá nhân
có thẩm quyền ban hành vào những thời điểm khác nhau, dưới những
hình thức khác nhau có hiệu lực pháp lí khác nhau, phạm vi thi hành khác
nhau cho nên mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống là không
thể tránh khỏi.
• Những hạn chế về thẩm quyền xử phạt của người trực tiếp thi hành công
vụ, nhiệm vụ.
• Quy định của pháp luật về mức phạt tiền cho thấy mức phạt tối thiểu và
tối đa có khoảng cách khá xa. Để áp dụng mức phạt tiền được đúng đắn,
trong các văn bản XPVPHC cần cụ thể hóa hơn nữa các dấu hiệu vi phạm
hành chính. Cần chia nhỏ khung phạt tiền để tránh tình trạng: các vi phạm
hành chính có tính chất, mức độ như nhau nhưng người có thẩm quyền áp
dụng các mức phạt tiền khác nhau.
• Trong quy định của Luật thanh tra về các cơ quan thanh tra được thành
lập ở các cơ quan quản lí theo ngành, lĩnh vực có quy định về tổ chức
thanh tra trong các cơ quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ (như trong các
cục, tổng cục) nhưng trong cơ cấu tổ chức của các cục, tổng cục hiện nay
vẫn thành lập tổ chức thanh tra với mục đích thực hiện sự phân công,
phân cấp trong hoạt động quản lí cũng như trong công tác thanh tra giữa
các cơ quan thuộc bộ. Vì vậy vấn đề đặt ra là các tổ chức thanh tra này có

được coi là cơ quan thanh tra chuyên ngành hay không và có thẩm quyền
XPVPHC hay không.
Bất kì một quyết định pháp luật nào cũng có những mặt tốt, xấu cũng như
ưu hay khuyết điểm của nó. Những ưu điểm thì cần tiếp tục phát huy, còn
những nhược điểm thì phải tìm cách khắc phục để ngày càng phù hợp hơn nữa
so với điều kiện thực tế. Với những nhược điểm đã nêu ở trên, em có nêu ra 1 số
các giải pháp:
- Một là cần bổ sung hợp lí các chức danh trong các cục, tổng cục thuộc bộ, cơ
quan ngang bộ có thẩm quyền XPVPHC. Đồng thời Pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính cũng cần có quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lí chuyên ngành. Với nguyên tắc thẩm
quyền của các chức danh do Chính phủ quy định sẽ được xác định tương đương
thẩm quyền của các chức danh trong các cơ quan quản lí cùng loại đã được
Pháp lệnh quy định.


- Hai là để đảm bảo cho người tiến hành xử phạt, giải quyết toàn diện, triệt để
một vi phạm hành chính xảy ra trên thực tế thì thẩm quyền XPVPHC không chỉ
là thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt mà còn phải đặt trong mối quan hệ
với thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác trong
XPVPHC.
- Ba là việc quy định về thẩm quyền XPVPHC phải thể hiện sự công bằng, phân
cấp trong quản lí hành chính nhà nước. Với mô hình tổ chức bộ máy quản lí
hành chính theo hình chóp, tức là càng lên cao các cơ quan càng thu gọn lại thì
cần thiết phải tăng thẩm quyền xử phạt cho cấp dưới, cho người trực tiếp thi
hành công vụ, nhiệm vụ, đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát của
cơ quan cấp trên.
- Bốn là, em nghĩ rằng các tổ chức thanh tra trong các cục, tổng cục thuộc bộ
tồn tại như một cơ quan thanh tra chuyên ngành là phù hợp với thực tiễn của
quản lí hành chính và cần được quy định trong pháp lệnh xử lí vi phạm hành

chính. Nhưng cần thiết phải xác định rõ thẩm quyền XPVPHC của tổ chức
thanh tra, không thể quy định thẩm quyền xử phạt của các tổ chức thanh tra này
ngang với thanh tra bộ như quy định của một số Nghị định hiện nay.
III.

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được chia thành 2 loại gồm: thủ tục
ra quyết định XPVPHC và thủ tục thi hành quyết định XPVPHC.
1. Thủ tục ra quyết định XPVPHC
Theo quy định của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính thì việc ra quyết
định xử phạt hành chính được tiến hành theo thủ tục dưới đây:
Khi phát hiện vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức thì người có thẩm quyền
XPVPHC phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân.
Pháp lệnh đã quy định 2 loại thủ tục để áp dụng xử lý vi phạm hành chính là:
thủ tục đơn giản và thủ tục thông thường.
Thủ tục đơn giản dùng để xử lí các vi phạm hành chính có tính chất đơn giản, rõ
ràng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản với mức phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000 đồng đến 200.000 đồng. Để xử phạt phải ra
quyết định xử phạt phải có rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ tên, địa chỉ
của người vi phạm hoặc tên địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa
điểm xảy ra vi phạm; họ tên, chức vụ của người ra quyết định, điều khoản của
văn bản pháp luật được áp dụng.
Nếu thấy rằng hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân đó bị phạt tiền từ 200.000
đồng trở lên thì người có thẩm quyền bắt buộc phải xử lí như sau:


- Lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính, trong biên bản phải có chữ
kí của người vi phạm hành chính và của người lập biên bản. Nếu có
người làm chứng hoặc người bị thiệt hại thì họ cũng cùng kí tên vào biên

bản, nếu họ không kí thì phải ghi rõ lí do vào biên bản. Sau khi lập xong
biên bản thì giao cho cá nhân, tổ chức một bản, nếu vụ vi phạm vượt quá
thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó phải gửi biên
bản tới người có thẩm quyền xử phạt.
- Thời hạn ra quyết định xử phạt là kể từ 15 ngày lập biên bản về vi phạm
hành chính, đối với tình huống mà có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn
được kéo dài ra thêm là 30 ngày. Nếu trong trường hợp cần xác minh, thu
thập thêm chứng chứ để đưa ra quyết định thì người có thẩm quyền phải
báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn (Thời
gian gia hạn cũng không quá 30 ngày).
Trong quá trình XPVPHC nếu thấy có những dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển
ngày cho cơ quan xử lí hình sự có thẩm quyền giải quyết. Nghiêm cấm giữ lại
những vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lí hành chính.
2. Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày kí, trừ trường hợp trong quyết
định có qui định ngày có hiệu lực khác. Quyết định này phải được gửi tới cho
các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính và cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn
3 ngày kể từ ngày ra quyết định. Tổ chức, cá nhân bị xử phạt phải tự nguyện thi
hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết
định xử phạt trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cá nhân, tổ chức bị
phạt tiền có thể nộp tại kho bạc nhà nước hoặc nộp phạt tại chỗ cho người có
thẩm quyền xử phạt. Quy định này đã tránh được những khó khăn, phiền hà cho
các tổ chức, cá nhân bị xử phạt và cả người có thẩm quyền xử phạt, đồng thời
cũng hạn chế được các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt vi phạm hành chính.
Hết thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân không
thi hành quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt buộc tổ chức, cá nhân đó phải thi hành,
bao gồm:
- Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài
khoản tại ngân hàng.

- Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá.
- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác để thi hành quyết định xử phạt.
3. Đánh giá tính hợp lý của các qui định hiện hành về thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008 đã có nhiều quy định cụ thể hơn về thủ tục


xử phạt, bổ sung thêm một số quy định mới để đáp ứng yêu cầu thực tế như:
Điều 65 quy định thủ tục về hoãn chấp hành quyết định phạt tiền; Điều 68 quy
định về chuyển quyết định XPVPHC để thi hành. Nói cách khác, những quy
định về thủ tục XPVPHC của Pháp lệnh XLVPHC đã thể hiện rõ hơn tính minh
bạch của pháp luật, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cải cách thủ tục hành
chính. Tuy nhiên cũng cần sửa đổi, bổ sung hơn nữa để đòi hỏi được những đáp
ứng của thực tế, nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo quyền lợi cho cá nhân và
tổ chức.
Thứ nhất, pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính vẫn duy trì 2 loại thủ tục
xử phạt là: thủ tục đơn giản và thủ tục có biên bản. So với pháp lệnh năm 1995,
Pháp lệnh 2002 đã tăng mức phạt theo thủ tục đơn giản từ 20.000 đồng lên
200.000 đồng. Đây là một sự thay đổi rất cần thiết giảm thiếu số vụ việc vi
phạm phải dồn lên cấp trên để giải quyết. Tuy nhiên, mức tiền 200.000 đồng
này vẫn còn là khá thấp, nhiều vụ vi phạm chưa thể xử phạt theo thủ tục này. Và
với mức 200.000 đồng này, so với nhiều người đây không phải là một số tiền
lớn, thật sự chưa tác động mạnh tới ý thức của người dân với việc ngăn chặn,
hạn chế vi phạm hành chính. Như đã nói ở trên, thủ tục đơn giản được áp dụng
với vi phạm nhỏ, rõ ràng và không có tình tiết phức tạp, vậy nên việc quy định
về Thủ tục đơn giản là hết sức cần thiết, hợp lí vì hiệu quả của nó trong việc xử
phạt đới với những vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự, an
toàn giao thông, vệ sinh môi trường…
Thứ hai, về thủ tục xử phạt có lập biên bản. Theo quy định trước đây về

người có thẩm quyền lập biên bản chỉ phù hợp với một số chức vụ, một số
ngành (thanh tra chuyên ngành) nhưng lại tỏ ra chưa hợp lý với yêu cầu “khi
phát hiện vi phạm phải kịp thời lập biên bản” (Khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh năm
2002) trong trường hợp người đang thi hành công vụ là những người không có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (như kiểm hoá viên, nhân viên hải
quan…). Để khắc phục vướng mắc này, khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung năm 2008 được sửa đổi, bổ sung như sau: “người có thẩm quyền đang thi
hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản đối với vi phạm mà mình phát hiện.
Trong trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của
người lập biên bản thì phải chuyển tới ngay người có thẩm quyền xử phạt để
tiến hành xử phạt”. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 cũng bổ sung trường
hợp người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không có mặt
tại địa điểm xảy ra vi phạm thì biên bản được lập xong phải có chữ ký của đại
diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người làm chứng.
Tại khoản 2, Điều 55 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính quy định về nội
dung của biên bản đã thể hiện rõ tính khoa hoc và chặt chẽ, phù hợp với thực tế.


Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ
việc về giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để tránh
thủ tục lập biên bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả
đáng. Qua thực tiễn thi hành pháp luật XPVPHC, nhiều Bộ, ngành, địa phương
cho rằng, các mẫu quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, mẫu quyết
định xử phạt, mẫu biên bản đều rườm rà, chưa phù hợp với thực tế; biên bản
tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, theo quy định phải có hai
người làm chứng, trên thực tế áp dụng rất khó, đề nghị chỉ nên quy định một
người làm chứng. Mẫu biên bản vi phạm hành chính chưa hợp lý, vừa thừa, vừa
thiếu, cụ thể: phần nội dung về điều, khoản quy định hành vi vi phạm của tổ
chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành vi vi phạm thì phải lập hai
biên bản.

Điều 56 Pháp lệnh quy định ba loại thời hạn: 10 ngày đối với vụ việc đơn
giản; 30 ngày đối với vụ việc phức tạp; đối với vụ việc phức tạp, cần có thời
gian xác minh thêm, thì người có thẩm quyền xử phạt được xin gia hạn thêm 30
ngày nữa. Quá các thời hạn này, người có thẩm quyền xử phạt không được ra
quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất. Điều 21 Nghị định số
134/2003/NĐ-CP còn quy định cụ thể các trường hợp mà quá thời hạn, người có
thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt: trường hợp đã quá các
thời hạn ra quyết định xử phạt, đã hết thời hạn mà người có thẩm quyền xử phạt
không xin gia hạn hoặc đã xin gia hạn nhưng không được cấp có thẩm quyền
cho phép gia hạn. Quá trình thực hiện pháp luật XPVPHC đã cho thấy, quy định
này là phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, cũng còn ý kiến cho rằng, thời hạn 30
ngày là quá ít vì nhiều vụ việc cần phải có thời gian để xác minh, thu thập tài
liệu liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số đối tượng vi
phạm hành chính sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa
phương trong thời gian dài, gây khó khăn cho việc xử lý. Và với những hạn chế
cũng như khuyết điểm trên, thì em có một số các biện pháp sau:
- Mức tiền phạt theo thủ tục đơn giản cần nâng lên, có thể là đến 500.000
đồng nâng cao tính cảnh cáo và tác động mạnh hơn vào tâm lí của người
vi phạm. Vì các thủ tục đơn giản không cần biên bản phạt, việc sử dụng
biên lai là khá cần thiết. Để đảm bảo tính nhanh chóng, thuận tiện và
kiểm soát được tốt nhất việc XPVPHC, việc khôi phục biên lai thu tiền
phạt giống Điều 20 Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính năm 1989 là cần
được xem xét lại.
- Mỗi ngành nên ban hành các loại mẫu cho phù hợp với tình lĩnh vực,
ngành mà mình quản lý vừa bảo đảm yêu cầu của thực tiễn, vừa đúng
pháp luât. Pháp lệnh chỉ nên quy định nội dung bắt buộc đối với quyết


định xử phạt vi phạm hành chính còn việc xây dựng mẫu cụ thể do từng
ngành hướng dẫn thưc hiện.

- Cần quy định cụ thể hơn thủ tục xử phạt như quy định về trách nhiệm của
người có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vụ việc; xác
định tính chất, mức độ của vụ vi phạm, nhân thân người vi phạm để quyết
định xử phạt được khách quan, chính xác.

C. KẾT LUẬN
Trên đây là một số ý kiến đánh giá về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính hiện
hành. Việc hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC)
là đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm đảm bảo việc xử phạt đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn. Các quy định về XPVPHC phải được thực thi
nghiêm chỉnh từ phía các cơ quan, người có thẩm quyền.


MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I.Một số khái niệm
1.Vi phạm hành chính
2.Xử phạt vi phạm hành chính
3.Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
II.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
1.Những quy định chung về xử phạt vi phạm hành chính
2.Đánh giá tính hợp lý của các quy định hiện hành
về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
III.Thủ tục xử phạt hành chính
1.Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
2.Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
3.Đánh giá tính hợp lý của các qui định hiện hành

về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

1

C. KẾT LUẬN

10

1
1
1
1
3
6
7
8


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân, năm 2008.

2. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội. Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005.
3. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, Học viện
Hành chính Quốc gia, Khoa Nhà nước và Pháp luật; NXB Giáo dục, năm
2006.

4. Bình luận khoa học pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Bộ
Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, NXB Tư pháp, năm 2005.
5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất cập trong quy
định pháp luật hiện hành, Ths. Nguyễn Ngọc Bích, Tạp chí Luật Học, Số:
8 Năm 2007.
6. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, Luận án thạc sỹ luật học, Nguyễn
Thị Thuỷ, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2001



×