Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc khmer ở tỉnh trà vinh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HÀ THỊ KIM UYÊN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Đồng Tháp, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
………. ∞ ………

HÀ THỊ KIM UYÊN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở
TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Chính trị học

Mã số

: 06.31.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Đồng Tháp, 2015


Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Vinh,
Phòng Sau Đại học trường Đại học Vinh, Phòng Sau đại học trường Đại học
Đồng Tháp và quý thầy cô trong khoa Lý luận chính trị đã giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình khóa học. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn
Lương Bằng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn Thạc sĩ
khoa học này.
Xin cảm ơn Ban Giám hiệu và quý thầy cô trường Đại học Đồng Tháp
đã tạo điều kiện và thời gian cho tôi hoàn thành chương trình khóa học.
Đồng Tháp, ngày 22 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Hà Thị Kim Uyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đồng Tháp, ngày 22 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn


Hà Thị Kim Uyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1:GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC KHMER VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY...................................................................................................... 9
1.1. Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật...........................................9
1.2.Vai trò của việc giáo dục ý thức pháp luật trong giai đoạn hiện nay........36
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở TRÀ VINH ......................................43
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục ý thức pháp luật cho đồng
bào dân tộc Khmer ở Trà Vinh........................................................................43
2.2. Thực trạng công tác giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc
Khmer ở tỉnh Trà Vinh trong những năm gần đây..........................................69
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý
THỨC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TỈNH TRÀ
VINH HIỆN NAY..........................................................................................92
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền đối với công
tác giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer................................92
3.2. Thường xuyên tuyên truyền pháp luật bằng các phương tiện truyền thông
để nâng cao chất lượng giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc
Khmer..............................................................................................................95
3.3. Nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ tuyên truyền giáo dục
pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên truyền, giáo dục
pháp luật là người dân tộc Khmer.................................................................106



2
3.4. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục ý thức pháp luật với việc thiết
lập trật tự, kỷ cương, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý
nghiêm minh..................................................................................................111
3.5. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục
ý thức pháp luật cho dồng bào dân tộc Khmer..............................................113
KẾT LUẬN..................................................................................................118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................121


DANH MỤC
Bảng 1:Thống kế dân số Khmer đến năm 2014..............................................44
Hình 1. Giờ thể dục của học sinh Trường dân tộc nội trú huyện Cầu Ngang. 51
Hình 2. Bác sĩ khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc Khmer ....................52
Hình 3. Lãnh đạo tỉnh trao quà cho các vị Sư nhân dịp họp mặt Tết cổ truyền
của đồng bào Khmer ...................................................................................54
Hình 4. Chùa Hang Trà Vinh..........................................................................62
Hình 5.Chúc phúc...........................................................................................64
Hình 6 : Đồng bào Khmer làm rẫy.................................................................66
Hình 7. Lớp học của người Khmer..................................................................71
Hình 8. Tìm hiểu tóm tắt tiểu sử các đồng chí lãnh đạo Tỉnh.........................79
Bảng 2. Thống kê các trường trong tỉnh có tổ chức giảng dạy tiếng Khmer
Đến thời điểm học kỳ I, năm học (2014-2015...............................................126


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất,
đồng bộ, Nhà nước tiến hành nhiều biện pháp nhằm đưa pháp luật đi vào cuộc

sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống
nhất và công bằng. Một trong những biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt đó
là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là một biện pháp không thể
thiếu được trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm hình thành
một cách bền vững ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện “Sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật” của người dân.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Đoàn kết các
dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi
mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân. Không
ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nâng cao dân trí và trình độ hiểu biết pháp luật cho mọi thành viên
trong xã hội.
Hiện nay, mặc dù nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt
của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi, nhưng đời sống của
một số đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn gặp


2
nhiều khó khăn, việc xóa đói giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo
cao và tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt vẫn còn diễn biến phức tạp...
Những khó khăn trên là mối quan tâm hàng đầu trong các chủ trương, chính
sách của Đảng và nước ta hiện nay, trong đó, chính sách đối với đồng bào
Khmer được thể hiện qua các chính sách dân tộc trong thời gian qua của Đảng
và Nhà nước, các cấp, các ban ngành đoàn thể đã tạo điều kiện hỗ trợ đồng

bào dân tộc Khmer nghèo vươn lên thoát nghèo một cách bền vững, đời sống
vật chất tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer ngày càng ổn định, làm cho
đồng bào dân tộc tin tưởng, phấn khởi gắn bó với Đảng, với chế độ, hăng hái
tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện ở các văn bản
như: Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg về hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc
hộ nghèo vùng khó khăn; chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nước sinh
hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết
định số 1592/QĐ-TTg; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc;
Quyết định số 449/QĐ – TTg ngày 12/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020; Quyết định số
2356/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động
thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020; Quyết định 2472/QĐTTg về cấp không thu tiền một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng miền núi,
dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2011-2020; Quyết định 1212/QĐTTg về phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia đưa thông tin cơ sở về
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo giai đoạn 2012-2015; Chính
sách vay vốn sản xuất với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn sống ở các
xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn thay thế các Quyết định
32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 và Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg ngày
15/9/2008; Chính sách cử tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học


3
Chuyên nghiệp và tuyển sinh vào các trường phổ thông dân tộc nội trú theo
Nghị định 134/2006/NĐ-CP, ngày 14/01/2006 của Chính phủ…
Trà Vinh là tỉnh đa dạng về dân tộc, hiện nay có khoảng 31,63 % dân
số là đồng bào dân tộc Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa tạo nên
truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời giữa các dân tộc. Tỉnh Trà Vinh có vị trí
chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng. Đặc biệt là tình hình hoạt
động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc trên địa bàn các xã có
đông đồng bào Khmer ở tỉnh Trà Vinh với âm mưu thủ đoạn lợi dụng, gây
chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, hòng làm suy yếu lực lượng cách mạng.

Thời gian qua, để thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo vùng
Khmer Nam Bộ, Tỉnh ủy Trà Vinh ra Nghị quyết 01 về công tác trong vùng
dân tộc Khmer, nhằm giúp đồng bào nâng cao trình độ dân trí, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo và từng bước làm giàu, sau 10 năm thực hiện Nghị
quyết, tỉnh cơ bản đạt mục tiêu đề ra, rút ngắn khoảng cách chênh lệc về mức
sống giữa các vùng. Tiếp đó, năm 2003, Tỉnh ủy ra Nghị quyết 06 của (khóa
VII) "về phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer" và năm 2011 ban hành
Nghị quyết số 03 "về tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai
đoạn 2011 – 2015”.
Do đặc tính dân tộc và sinh hoạt văn hóa của người Khmer chủ yếu
sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên
điều kiện để tiếp nhận thông tin, nhất là thông tin pháp lý, văn bản pháp luật rất
hạn chế nên ý thức pháp luật không cao, dẫn đến còn nhiều vi phạm pháp luật,
với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Đây là thách thức không nhỏ,
đặc biệt, hiện nay một số phần tử xấu lợi dụng nhận thức yếu kém về chính trị
của một số đồng bào dân tộc khmer để tuyên truyền, xuyên tạc lịch sử gây chia
rẽ đoàn kết dân tộc, lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước


4
để chống phá cách mạng …, điều đó đã có những tác động ảnh hưởng trực tiếp
đến vùng đồng bào dân tộc; trật tự xã hội từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức
tạp làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh…Mặc
khác, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, nhiều thanh niên ở nông thôn trong đó
có thanh niên dân tộc Khmer có tư tưởng và lối sống thực dụng, thường xuyên đi
làm ăn xa, có một số người Khmer bỏ địa phương đi sang Campuchia và nhiều
nơi khác sinh sống nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục pháp luật. Công
tác giáo dục pháp luật của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể chưa được quan tâm
đúng mức, phương pháp giáo dục chưa phù hợp với đặc điểm, tình hình và đối
tượng cụ thể, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác

phổ biến, tuyên truyền pháp luật trong đồng bào.
Với thực trạng nêu trên, vấn đề đặt ra hiện nay là phải nâng cao chất
lượng tuyên truyền giáo dục đưa pháp luật vào cuộc sống của đồng bào dân
tộc Khmer, để họ hiểu và làm theo pháp luật, giảm bớt những hủ tục lạc hậu,
những vụ vi phạm pháp luật. Đặc biệt là tuyên truyền cho đồng bào nhận biết
được những nhân tố đe dọa gây mất ổn định, với âm mưu kích động, gây rối,
gây bạo loạn trong vùng dân tộc Khmer của các thế lực thù địch. Với những
lý do trên chúng tôi chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng giáo dụcý thức pháp
luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay" làm đề tài luận
văn Thạc sĩ, đây là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh có
đông đồng bào Khmer sinh sống như hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có rất nhiều công trình của nhiều tác giả nghiên cứu một cách sâu sắc
có hệ thống về lý luận giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật trên
phạm vi cả nước. Đặc biệt có rất nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu đời sống, văn
hoá, tư tưởng của đồng bào dân tộc Khmer, cụ thể như:


5
Chủ đề ý thức pháp luật, giáo dục trong thời gian qua đã thu hút được
sự quan tâm của các nhà ngiên cứu, các cơ quan hữu quan. Nhiều công trình
khoa học đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin, truyền thông. Nhiều
đề tài luận văn, luận án nghiên cứu về ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp
luật đã được thực hiện. Tiêu biểu cho các công trình đó có thể kể đến: năm
2006 có đề tài luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Thu Hiền: “Phát huy vai trò giáo
dục pháp luật của chính quyền cấp xã cho đồng bào Khmer ở tỉnh Trà Vinh
hiện nay”.
Một số bài viết liên quan đến đề tài: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng
(2012), Đại đoàn kết dân tộc- động lực cơ bản của sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 4. 2010, tr.1622, đã phân tích và đề xuất các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực và vấn đề

đoàn kết các dân tộc tạo ra động lực của sự phát triển xã hội.Th.s Bùi Thiết
Côn – Giám đốc Sở Nội vụ Trà Vinh: Phát triển xã hội bền vững vùng đồng
bào dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh: quan điểm và giải pháp, triết học, số
10(281) T10-2014, tác giả đã đưa ra 04 quan điểm trong tâm về phát triển xã
hội bền vững vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh và đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển xã hội bền vững vùng đồng bào
dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh.
Công trình nghiên cứu:“Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình
tại các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây - hiện trạng,
vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống”, của GS.TS. Lưu Văn
Sùng, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tác giả đã khái quát hoàn cảnh
phát sinh, diễn biến và tính chất các điểm nóng chính trị xã hội ở một số
vùng, như đồng bằng sông Hồng, miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây
Nam Bộ...đồng thời tìm ra các giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục.


6
Không chỉ Tạp chí Lý luận Chính trị, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí
Khoa học Chính trị cũng đăng một số công trình quan tâm, nghiên cứu đến
việc nâng cao chất lượng, số lượng cán bộ công tác ở vùng dân tộc ít người và
đời sống của bà con dân tộc thiểu số, như bài “Công tác xóa đói giảm nghèo
ở vùng dân tộc Khmer đồng bằng sông Cửu Long” của ThS.Nguyễn Hoàng
Sơn, số 6, 2006;
Các công trình khoa học đã đề cập các các vấn đề về ý thức pháp luật,
tính tất yếu, nội dung, phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức
pháp luật cho nhiều đối tượng khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình
chuyên biệt nào nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn diện và hệ thống vấn đề
“Nâng cao chất lượng giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc
Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay” Do vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này làm
Luận văn tốt nghiệp Cao học ngành Chính trị học.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích: làm sáng tỏ cơ sở lý luận của công tác giáo dục ý thức
pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, từ đó khảo sát thực trạng và đề xuất
một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức pháp luật cho
đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về việc giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào
dân tộc Khmer và tầm quan trọng của nó trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích làm rõ thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân
tộc Khmer ở Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.


7
- Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề giáo dục ý thức pháp luật
cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn Tỉnh Trà Vinh từ góc độ công tác
tuyên truyền, một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng.
- Luận văn nghiên cứu thực trạng về ý thức pháp luật cho đồng bào dân
tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối, Chính sách của Đảng ;
lý luận và thực tiễn; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phân tích, tổng hợp, thu thập tài liệu,
nghiên cứu và xử lý tài liệu, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, thống kê,
quan sát, so sánh.
Nội dung đề tài liên quan nhiều đến các lĩnh vực, phương diện khác

nhau của đời sống xã hội nên ngoài các phương pháp nghiên cứu cơ bản, tác
giả còn trực tiếp đi thực tế các sự kiện, lễ hội để trực tiếp tìm hiểu từ đó tổng
kết, khái quát những vấn đề mang tính lý luận để nâng cao chất lượng giáo
dục ý thức pháp luật cho đồng bào Khmer ở Trà Vinh.
6. Cái mới của đề tài
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức ra tính đặc thù và đánh giá
đúng thực trạng giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật của đồng bào dân tộc


8
Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay, từ đó nâng cao nhận thức trách nhiệm chỉ
đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong việc
giáo dục ý thức pháp luật đối với đồng bào dân tộc Khmer ở Trà Vinh.
- Các giải pháp đề ra trong Luận văn có thể được áp dụng trong việc xây
dựng chương trình giáo dục pháp luật cho đồng bào Khmer ở tỉnh Trà Vinh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


9

Chương1
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
1.1.1. Ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội có những quy luật và
đặc điểm chung của ý thức xã hội. Ý thức pháp luật lại có tính độc lập tương

đối so với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác, với những đặc
điểm riêng của mình. Điều này được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, cũng như bất kỳ hình thái ý thức xã hội nào, ý thức pháp
luật của một thời đại bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó.
Nó chịu sự tác động của các điều kiện vật chất của xã hội. Sự chuyển biến
của nền kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi trong ý thức pháp luật và tất
yếu sẽ dẫn đến sự biến động trong pháp luật. Tuy nhiên, các hình thái ý
thức xã hội khác không chỉ phản ánh trạng thái của các quan hệ xã hội mà
cả khuynh hướng phát triển của chúng. Trong khi đó, ý thức pháp luật lại
lạc hậu hơn, chậm biến đổi hơn so với tồn tại xã hội - tồn tại xã hội cũ mất
đi, nhưng ý thức pháp luật vẫn cũng được duy trì trong một thời gian dài,
đặc biệt là tâm lý pháp luật.
Mặt khác, trong những điều kiện nhất định, ý thức pháp luật, đặc biệt là
tư tưởng pháp luật khoa học, lại có thể vượt trước so với sự phát triển của tồn
tại xã hội, vạch đường cho sự phát triển của pháp luật.


10
Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính kế thừa sâu sắc. Mặc dù, ý thức
pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nhất định, nhưng nó cũng
kế thừa những yếu tố của ý thức pháp luật trong các thời đại trước đó. Vì vậy,
từ thế hệ này đến thế hệ khác, các tư tưởng, quan điểm pháp luật được kế thừa
và phát triển. Đặc biệt, những tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, có giá trị
nhân bản không những được truyền lại qua các thời đại mà ngay trong một
thời đại cũng có sự tiếp nhận, trao đổi giữa các nước có chế độ chính trị khác
nhau về một số yếu tố nhất định.
Thứ ba, ý thức pháp luật có khả năng tác động trở lại đối với tồn tại xã
hội. Sự tác động ấy ngày càng trực tiếp hơn, do ý thức pháp luật có khả năng
phản ánh đúng tồn tại xã hội và cải tạo xã hội. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật
đó trở nên lạc hậu, không theo kịp sự biến đổi của tồn tại xã hội hay phản ánh

không đúng tồn tại xã hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình
thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị và ý thức đạo đức.
Nếu ý thức chính trị phản ánh những mối quan hệ giữa các tập đoàn
người trong xã hội đối với quyền lực nhà nước, thì ý thức pháp luật phản
ánh mối quan hệ của con người đối với những quy tắc được chấp nhận
trong xã hội nhất định, với tính cách là một yếu tố áp đặt từ bên ngoài. Yếu
tố này được phục tùng vô điều kiện, nhưng đồng thời cũng nhận sự đánh
giá nhất định. Khác với ý thức đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa các cá
nhân theo những quan điểm riêng mà con người đánh giá chính “cái tôi”
của mình, nghĩa vụ và công bằng theo ý thức đạo đức mang tính nội tâm và
tự nguyện, ý thức pháp luật là thể hiện sự tuân thủ, công nhận nghĩa vụ và
công bằng do Nhà nước quy định, nên nó mang tính áp đặt và cưỡng chế.


11
Giữa ý thức pháp luật, ý thức chính trị, ý thức đạo đức có mối quan hệ
tác động lẫn nhau, vì chúng cùng phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã
hội, nhất là sự quy định của chế độ kinh tế. Quan hệ giữa ý thức pháp luật, ý
thức chính trị, ý thức đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, làm tiền đề cho nhau.
Nếu ý thức chính trị tác động chi phối ý thức pháp luật, nhất là thông qua hệ
tư tưởng chính trị thì ngược lại ý thức pháp luật phản ánh những yêu cầu
chính trị dưới góc độ pháp luật. Chính mối quan hệ chặt chẽ này làm cho một
số người lầm tưởng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị. Ý
thức pháp luật và ý thức đạo đức đều cùng hướng vào việc điều chỉnh hành vi
con người nên chúng chịu ảnh hưởng và hỗ trợ nhau rất lớn.
Trong lịch sử loài người có những thời kỳ luật lệ được coi là truyền
thống đạo đức. Cùng với sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự hình thành
Nhà nước, ý thức pháp luật ra đời và phát triển song song cùng với ý thức đạo
đức. Đây là sự phát triển có tính chất “cộng hưởng” rất cao; bởi lẽ, một ý thức

pháp luật mạnh chỉ nảy sinh và tồn tại trên nền tảng của những giá trị đạo đức
tốt và ngược lại.
Ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính giai cấp, nó phản ánh đời
sống pháp luật. Đời sống pháp luật trước hết là nhu cầu điều chỉnh hành vi xử
sự của con người bằng các quy tắc, nhằm tạo lập một trật tự xã hội nhất định.
Nhu cầu này trong xã hội có giai cấp, được các giai cấp thống trị nhận thức và
hình thành ý thức pháp luật của giai cấp mình.
Nhu cầu điều chỉnh hành vi của con người trong đời sống cộng đồng vốn
là một phạm trù khách quan. Tuy nhiên, các giai cấp khác nhau nhìn nhận nhu
cầu đó từ nhiều góc độ khác nhau, hình thành ý thức pháp luật khác nhau.


12
Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Các giai cấp bị trị chịu sự chi phối, tác động bởi ý thức pháp luật của giai cấp
thống trị.
Trên cơ sở phân tích bản chất của ý thức pháp luật, chúng ta nhận thấy
rằng ý thức pháp luật là một hiện tượng tinh thần xã hội hết sức phức tạp. Do
đó, dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau thì có nhiều quan niệm khác
nhau về khái niệm ý thức pháp luật.
Có quan niệm cho rằng: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội
biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật. Đây là quan niệm mang
tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa phản ánh kết cấu, nội dung và
nguồn gốc ý thức pháp luật.
Một số quan niệm thường chỉ đề cập và nhấn mạnh mặt này hay mặt
khác của ý thức pháp luật. Chẳng hạn có tác giả chỉ nhấn mạnh cơ cấu của ý
thức pháp luật, cho rằng: “Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan
điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những
nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật,
cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật” [26,

tr.235]. Về mặt bản chất giai cấp có tác giả cho rằng: ý thức pháp luật xã hội
chủ nghĩa là tổng hoà những quan điểm, quan niệm, tình cảm về mặt pháp
luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai
cấp công nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những yêu cầu khác của
pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân. Một số ý kiến khác lại
thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh một mặt của tri thức pháp
luật mà không đề cập đến tâm lý pháp luật như:


13
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và
quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu
biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật cần phải có thể hiện
sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con
người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội
[27, tr.20].
Có quan niệm đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ hơn, khi nêu
lên được cả tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật - một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan
điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai
cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp
luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay
không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đó qua và pháp luật trong
tương lai, về hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ
quan nhà nước, tổ chức [20, tr.90].
Trên cơ sở kế thừa các yếu tố hợp lý của các quan niệm nêu trên, có
thể rút ra định nghĩa ý thức pháp luật như sau: Ý thức pháp luật là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh trực tiếp đời sống pháp luật thông qua những
quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp)
đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp

luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội, về hành vi hợp
pháp hay không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức
trong xã hội.
Định nghĩa trên chỉ rõ bản chất của ý thức pháp luật: một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc trực tiếp là đời sống pháp luật, một lĩnh vực độc lập


14
tương đối trong đời sống xã hội, đồng thời cũng nêu lên cơ cấu và nội dung
của ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, một mặt nó phê
phán quan điểm cho rằng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị,
phụ thuộc vào ý thức chính trị, và mặt khác qua đó thấy được bản chất, vai trò
to lớn của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội, để có thái độ xử sự đúng
đắn như nó đang tồn tại.
1.1.1.2. Cấu trúc của ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật là hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức tạp.
Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau có thể chia ý thức pháp luật thành
những bộ phận cấu thành khác nhau:
Một là, căn cứ vào mức độ phản ánh và trình độ nhận thức, có thể chia
ý thức pháp luật thành ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật khoa
học. Ý thức pháp luật thông thường nảy sinh một cách trực tiếp, tự phát từ
hoạt động giao tiếp thường ngày với các sự kiện và hiện tượng pháp luật. Nó
mang tính cảm xúc tâm lý và kinh nghiệm tình cảm, nên thiếu sâu sắc và
không ổn định. Nhưng do phản ánh trực tiếp, nên nó phản ánh đầy đủ hơn đặc
điểm của hoàn cảnh với tất cả các chi tiết và sắc thái của nó.
Ý thức pháp luật khoa học được thể hiện dưới dạng lý luận, quan điểm
về bản chất pháp luật, về sự tác động qua lại giữa chính sách pháp luật với các
hiện tượng xã hội khác, về vai trò và giá trị xã hội của pháp luật…
Khác với ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật khoa học
phản ánh một cách sâu sắc, ổn định và có hệ thống các hiện tượng pháp luật

thông qua nghiên cứu và tổng hợp kiến thức pháp luật.
Hai là, căn cứ vào chủ thể phản ánh ý thức pháp luật, có thể chia ý thức
pháp luật thành: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức


15
pháp luật xã hội. Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng và tâm lý pháp
luật của một con người cụ thể. Do sự khác biệt về điều kiện sống, hoàn cảnh
gia đình, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, sự từng trải của mỗi người
nên ý thức pháp luật của mỗi cá nhân cũng khác nhau, đa dạng và phong phú.
Ý thức pháp luật của nhóm phản ánh những đặc điểm của từng nhóm xã
hội tương ứng. Trong xã hội thường có nhiều nhóm khác nhau, do điều kiện
sống, nhu cầu lợi ích riêng của mỗi nhóm mà những thành viên trong nhóm
có những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ tương đối giống nhau đối với
pháp luật.
Ý thức pháp luật xã hội là tổng thể những tư tưởng và tâm lý pháp luật
phản ánh đời sống pháp luật của một xã hội. Ý thức pháp luật xã hội xuất phát
từ ý thức pháp luật cá nhân, nhưng không phải là tổng số giản đơn hay trung
bình cộng sự phản ánh của các cá nhân mà là một “nguyên thể” mới về chất
những ý thức pháp luật cá nhân, là một hệ thống hoàn chỉnh hình thành từ sự
tác động lẫn nhau giữa ý thức pháp luật cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập
thể… và chịu sự qui định bởi ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện
cho xã hội (giai cấp thống trị).
Ba là, căn cứ vào nội dung và tính chất của sự hình thành ý thức pháp
luật, thì có thể chia ý thức pháp luật thành: tri thức pháp luật và thái độ pháp
luật. Tri thức pháp luật là bao gồm những tư tưởng, quan điểm của con người
về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống thống nhất. Tri thức pháp luật là kết
quả của sự phản ánh tri giác, có mục đích, có tổ chức của hoạt động tư duy;
cho nên sự phản ánh này rất sâu sắc, là cơ sở hình thành lý luận, học thuyết về
Nhà nước và pháp luật của một giai cấp nhất định.



16
Thái độ pháp luật là một bộ phận của ý thức pháp luật phản ánh trực
tiếp các hiện tượng pháp luật và sự kiện pháp luật đơn lẻ. Đây là bộ phận
phản ánh thái độ của con người đối với đời sống pháp luật dưới dạng tình
cảm, tâm trạng, thói quen, niềm tin, truyền thống.
Thái độ pháp luật là trình độ nhận thức trực giác, cảm tính mang nhiều
yếu tố chủ quan, tự phát. Những hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống
xã hội thường tác động đến tâm lý từng cá nhân, từng thành viên tập thể,
trong cộng đồng… Vì vậy, thái độ pháp luật là một bộ phận của tâm lý xã hội
và chịu sự tác động của các quy luật tâm lý xã hội nói chung.
So với tri thức pháp luật, thái độ pháp luật là một bộ phận có tính chất
bền vững hơn và bảo thủ hơn, vì gắn với truyền thống, tập quán, thói quen của
con người. Nó hình thành dần dần và ít biến đổi. Chính vì vậy, quá trình xoá
bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật mới theo hướng xã hội
chủ nghĩa là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực toàn diện và phải
kiên trì.
Giữa thái độ pháp luật và tri thức pháp luật có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau. Nhưng không phải lúc nào giữa chúng cũng có sự phù hợp. Để
khắc phục tình trạng không phù hợp giữa tri thức pháp luật và thái độ pháp
luật, phải coi trọng xã hội học pháp luật trong nghiên cứu dư luận xã hội một
cách công khai hoá và dân chủ hoá đời sống xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật của con người cũng
chính là quá trình tìm kiếm, tích luỹ kiến thức về pháp luật trong đời sống xã
hội. Hiểu biết về pháp luật càng nhiều thì ý thức của con người về pháp luật
càng sâu sắc. Có tri thức, có hiểu biết sâu sắc về pháp luật sẽ là tiền đề, điều
kiện để mỗi người hình thành thái độ, động cơ đối với việc thực thi pháp luật.



17
Bởi lẽ, quá trình hình thành tri thức về pháp luật ở con người chịu sự tác động
của những nhu cầu và lợi ích khác nhau, theo đuổi mục đích và trải qua những
xúc cảm khác nhau. Nói cách khác, tri thức với những mức độ khác nhau phải
được kết hợp với nhân tố tình cảm thì mới phát huy tác dụng. “Không có cảm
xúc của con người thì không bao giờ có thể tìm tới chân lý” [45,tr.72]. Điều đó
cho thấy, nếu tri thức pháp luật không chuyển thành tình cảm đối với pháp luật,
nghĩa là có thái độ tôn trọng, tin tưởng vào luật pháp để từ đó hình thành động
cơ đúng đắn trong việc chấp hành pháp luật, thì không thể có những hành vi
đúng đắn trong hành động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, tri thức, thái
độ, tình cảm pháp luật là những yếu tố cơ bản cấu thành ý thức pháp luật của
con người.
Việc tìm hiểu cơ cấu của ý thức pháp luật, tức là nghiên cứu mối quan
hệ bên trong của các yếu tố cấu thành ý thức pháp luật, giúp chúng ta tìm hiểu
con đường hình thành ý thức pháp luật, sự đánh giá về ý thức pháp luật, cũng
như phương thức tác động giáo dục để hình thành và nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân.
1.1.2. Giáo dục ý thức pháp luật
1.1.2.1. Khái niệmgiáo dục
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đó được công bố, các giáo
trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của các cơ sở đào tạo đại học và
sau đại học trên phạm vi cả nước cho thấy cho đến nay chưa có những quan
niệm thật sự rõ ràng về giáo dục ý thức pháp luật.
Vậy làm thế nào để có quan niệm đúng đắn về giáo dục ý thức pháp
luật? Để hiểu đúng đắn, khoa học khái niệm giáo dục ý thức pháp luật thì
trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là giáo dục.


18
Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của chủ

quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và
sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả
năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Giáo dục theo nghĩa hẹp
không bao hàm trong đó những ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, nghĩa là
không tính đến những điều kiện ảnh hưởng bên ngoài lên đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa rộng: giáo dục đó là quá trình ảnh hưởng của những điều
kiện khách quan như chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển kinh tế, tư
tưởng, môi trường sống xung quanh, phong tục, tập quán và tác động của
những nhân tố chủ quan như ý thức, tự giác, sự tác động có mục đích có định
hướng của con người.
1.1.2.2. Khái niệm giáo dục ý thức pháp luật: Giáo dục ý thức pháp
luật phải đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố chủ quan và yếu tố
khách quan, điều đó được hiểu ở một số điểm sau:
Một là, sự hình thành và phát triển ý thức cá nhân của con người là sản
phẩm của một quá trình tác động, đan xen, thống nhất giữa nhân tố chủ quan
và các điều kiện khách quan. Những điều kiện khách quan có ảnh hưởng đến
giáo dục bao gồm các điều kiện về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá…
Điều kiện khách quan là yếu tố hết sức quan trọng đối với việc hình thành ý
thức của con người. Cùng với việc thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện
khách quan, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều rất chú trọng
đến tác động của yếu tố chủ quan. Tức là nhấn mạnh đến các hoạt động mang
tính tự giác có tổ chức và định hướng do con người thực hiện trong quá trình
hoàn thiện chính mình.


×