BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LƯU THỊ ÁNH TUYẾT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LƯU THỊ ÁNH TUYẾT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học:
TS: Nguyễn Như An
NGHỆ AN - 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác
giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, động viên, chia sẻ từ bạn bè, đồng nghiệp, cơ
quan và đặc biệt là từ các thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học Vinh.
Đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo, cán
bộ, nhân viên Trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giúp đỡ và hỗ trợ tác giả
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả cũng chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp phòng Giáo
dục và Đào tạo Đồng Hới đã tạo mọi điều kiện cho tác giả hoàn thành khóa
học này.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Như
An người đã hết lòng giúp đỡ và tận tình hướng dẫn để tác giả hoàn thành
luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn này, nhưng chắc
chắn luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các bạn bè, đồng nghiệp và các quý thầy, cô để sửa chữa
và hoàn thiện luận văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Lưu Thị Ánh Tuyết
ii
MỤC LỤC
Trang
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
THCS
:
Trung học sơ sở
KTCNLNN
:
Khung tham chiếu năng lực ngoại ngữ
GD&ĐT
:
Giáo dục và Đào tạo
GV
:
Giáo viên
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
PPDH
:
Phương pháp dạy học
CBQL
:
Cán bộ quản lý
TB
:
Trung bình
CSVC
:
Cơ sở vật chất
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Giáo
dục là chìa khoá tiến tới một xã hội tốt đẹp. Giáo dục phát triển tiềm năng cơ bản
của mỗi con người, là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân quyền, dân chủ,
hợp tác trí tuệ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta luôn chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, thực sự xem giáo dục là “Quốc
sách hàng đầu”. Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế phát triển về kinh tế - xã
hội, khoa học và công nghệ đã có tác động mạnh mẽ và đặt ra những yêu cầu
ngày càng cao đối với ngành giáo dục. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng
11 năm 2013 Hội nghị TW 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và
Đào tạo, Ban chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội” [3].
Xác định đúng vai trò quan trọng của Giáo dục trong việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài trong giai đoạn CNH-HĐH đất
nước, hòa chung với xu thế đổi mới Giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn
cầu, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến GD&ĐT. Mới đây nhất,
ngày 09 tháng 06 năm 2014, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 44/NQ-CP về
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 04 tháng 11 năm 2013 với mục tiêu: “Xác định những nhiệm vụ trọng
tâm, giải pháp chủ yếu để Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương xây
dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá
việc thực hiện Nghị quyết 29 nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ
tiên tiến trong khu vực” [14].
2
Đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của đất nước, phục vụ phát triển
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đặc biệt đáp ứng sự hội nhập với
các nước trên thế giới; ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng có vai trò hết
sức quan trọng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1400/QĐ-TTg
ngày 30 tháng 09 năm 2008 về việc Phê duyệt Đề án "Dạy và học ngoại ngữ
trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020" với mục tiêu: “Đổi
mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân,
triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào
tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực
sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu
tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng
và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp,
học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến
ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [31].
Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung, giáo
dục trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nói riêng đã đạt được
những thành tựu đáng kể, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ giáo
viên giảng dạy Tiếng Anh ở các trường THCS. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được, công tác giảng dạy Tiếng Anh của đội ngũ giáo viên trên địa
bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình vẫn chưa thực sự đáp ứng được
mục tiêu đề ra. Nhìn chung, hầu hết giáo viên đều yêu nghề, nhiệt tình trong
công tác cố gắng đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với các đối tượng
học sinh nhưng hiệu quả dạy học của bộ môn này chưa thật sự như mong
muốn như: nhiều hoạt động dạy học tích cực chỉ mới được sử dụng có tính
hình thức, chưa được đầu tư, chuẩn bị đúng mức và triển khai đúng qui trình
nên chưa đạt hiệu quả cao; các đối tượng học sinh yếu kém chưa được quan
3
tâm đúng mức để tạo điều kiện cho các em vươn lên; một bộ phận giáo viên
phát âm Tiếng Anh còn chưa chuẩn xác, sai sót kiến thức cơ bản; cơ sở vật
chất chưa đáp ứng đủ nhu cầu...
Để kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về việc dạy và học ngoại ngữ trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình, góp phần thực hiện thành công đổi mới giáo dục, ngoài việc đổi
mới chương trình, sách giáo khoa, trang thiết bị dạy học, chuẩn hoá trường,
lớp, phòng học thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy
Tiếng Anh tại tỉnh Quảng Bình nói riêng và trên địa bàn Thành phố Đồng Hới
nói chung trong các trường THCS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết,
là điều kiện để hoàn thành Đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020" của Thủ tướng Chính phủ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh THCS thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
tiếng Anh THCS thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, góp phần nâng cao
chất lượng hiệu quả giáo dục THCS nói chung, chất lượng dạy học môn tiếng
Anh nói riêng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh trung học
cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh trung học
cơ sở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
4
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên Tiếng Anh trung học cơ sở trên
địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đang còn nhiều vấn đề bấp cập,
chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp
của luận văn nếu được thực hiện phù hợp, đồng bộ sẽ nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên tiếng Anh tại các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
tiếng Anh trung học cơ sở.
5.2. Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh trung
học cơ sở trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
5.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng
Anh trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh
trung học cơ sở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình từ năm 2013 đến năm
2015.
Số liệu thu thập từ CBQL, GV, HS các trường THCS ở thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình.
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh
trung học cơ sở thành phố Đồng Hới áp dụng cho giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý
thuyết, phương pháp cụ thể hóa lý thuyết, phương pháp phân loại và hệ
5
thống hóa lý thuyết,…nhằm thu thập các thông tin để xây dựng cơ sở lý luận
của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp điều tra, quan sát, tổng kết kinh nghiệm, phương
pháp lấy ý kiến chuyên gia… nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giáo viên tiếng Anh tại các trường trung học cơ sở trên
địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và thu thập thêm những thông
tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.3. Các phương pháp thống kê toán học
Để xử lý các kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình nghiên cứu.
8. Đóng góp của luận văn
Đề tài góp phần làm rõ lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên tiếng Anh trung học cơ sở.
Đánh giá được thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh tại
các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
tiếng Anh trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh
trung học cơ sở
Chương 2. Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh trung
học cơ sở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
tiếng Anh trung học cơ sở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt của loài người. Giáo dục là sự
truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm sống từ thế hệ đi trước cho thế hệ đi
sau, đồng thời thế hệ đi sau vừa lĩnh hội, vừa sáng tạo ra những tri thức mới.
Chính vì vậy, giáo dục ra đời và tồn tại cùng sự phát triển của xã hội loài
người. Do đó, giáo dục đã được loài người sớm quan tâm, thúc đẩy phát triển
và được mọi quốc gia, dân tộc chú trọng nghiên cứu. Trên thế giới có nhiều
công trình nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Có nhiều công
trình nghiên cứu giáo dục từ thời cổ đại, trung cận đại để lại các tư tưởng, các
giá trị được phát huy đến tận ngày nay như: Xô Crát (429-347 TCN) với
“Phương pháp đỡ để trong giáo dục”, Khổng Tử và nhiều học trò của ông nổi
tiếng với hệ thống phương pháp giáo dục do ông sáng tạo ra. Trong xã hội
hiện đại hiện nay, các dân tộc, các quốc gia đều chú trọng giáo dục. Các nước
phát triển đã có nhiều công trình nghiên cứu vĩ đại về giáo dục, các công trình
đó đều kết luận: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục là chìa
khóa để đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước. Nhiều quốc gia coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển và giáo dục đang trở thành
một lĩnh vực cạnh tranh trên toàn cầu. Vì thế, các công trình nghiên cứu nhằ
nâng cao chất lượng giáo dục cũng như nghiên cứu về công tác quản lý của
Hiệu trưởng ngày càng nhiều.
Các nhà giáo dục Xô Viết cho rằng: kết quả hoạt động của toàn bộ nhà
trường phụ thuộc rất nhiều vào công việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác
hoạt động của đội ngũ giáo viên.
7
Các nhà nghiên cứu Xô Viết cũng đã thống nhất vấn đề: Một trong
những giải pháp hữu hiệu nhất để xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên là
phải bồi dưỡng đội ngũ, phát huy được tính sáng tạo trong lao động, tạo ra
khả năng ngày càng hoàn thiện về tay nghề sư phạm, phải bồi dưỡng hỗ trợ
thành giáo viên tốt theo tiêu chuẩn nhất định, bằng những biện pháp khác
nhau.
Một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đó là tổ chức hội
thảo chuyên môn nhằm trao đổi kinh nghiệm về chuyên môn nghiệp vụ sư
phạm. Vấn đề đưa ra hội thảo phải mang tính thực tiễn cao, được nhiều giáo
viên quan tâm và có tác dụng thiết thực.
V.A Xukhomlinxki và Xovecxlrow còn nhấn mạnh đến biện pháp dự
giờ, phân tích bài giảng, sinh hoạt tổ chuyên môn. Các tác giả cho rằng: việc
phân tích bài giảng là đòn bẩy quan trọng nhất trong công tác quản lý chuyên
môn nghiệp vụ của giáo viên; nhằm làm cho giáo viên nhận thấy và khắc
phục những thiếu sót, đồng thời phát huy mặt mạnh của mình trong mỗi bài
giảng.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Việt Nam ta cũng có những nghiên cứu về vấn đề trên như Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ của giáo viên của Thạc sĩ Thái Bình Dương
đăng trên Tạp chí Giáo dục số 126 (tháng 11/2005); Xây dựng đội ngũ giáo
viên phổ thông trong 60 năm phát triên nên giáo dục Việt Nam cúa Tiến sỹ
Vu Văn Dụ đãng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục số 14 (tháng 11/2006);
Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy giáo của tác giả Lê Văn
Hà - Khoa Mác-Lê Nin, trường Đại học Kinh tế Đà Nẵ ng; Kinh tế thị trường và
đạo đức người thầy hiện nay của tác giả Nguyễn Thanh Bình- Khoa Giáo dục chính
trị, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đăng trên Tạp chí Giáo dục số 177 (tháng
11/2007).
8
Các tài liệu thể hiện rất rõ quan điểm của các tác giả về vị trí, vai trò, nhiệm
vụ và đạo đức của nhà giáo. Điều này có liên quan mật thiết với việc tăng cường
công tác quản lý, chỉ đạo nhằm nâng cao nhận thức về nghề nghiệp cho giáo viên
THCS.
Khi bàn về vai trò, năng lực của người giáo viên trong sự nghiệp
giáo dục, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Thầy giáo là nhân vật trọng tâm
trong nhà trường, là người quyết định đào tạo nên những con người - con người
mới Xã hội Chủ nghĩa”, đồng thời Thủ tướng còn chỉ ra rằng: “Vấn đề lớn nhất
trong giáo dục của chúng ta hiện nay là tạo điều kiện thuận lợi nhât đê đội ngũ
giáo viên dần dần trở thành một đội quân đủ năng lực, đủ tư cách để làm tròn sứ
mạng của mình”.
Chăm lo xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là nhiệm
vụ trọng tâm và là ưu tiên hàng đầu trong công tác quản lý của nhà trường.
Người cán bộ quản lý trường học nhận thức được vai trò của công tác này,
đầu tư công sức, trí tuệ cho công tác này sẽ thu được chất lượng giáo dục
cao.
Nghị quyết Trung ương II (khóa VIII) của Đảng đưa ra quan điểm chỉ
đạo: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” [2]; pháp luật nước ta cũng đã quy định địa
vị của nhà giáo.
Điều 61 Luật Giáo dục đã quy định tiêu chuẩn một nhà giáo như sau:
- Phẩm chất đạo đức tư tưởng tốt.
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ.
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu [29].
Các tác giả Nguyễn Ngọc Hợi, Phạ m Minh Hùng, Thái Văn Thành trong
các công trình nghiên cứu của mình đã nêu lên nguyên tắc chung của việc nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên như sau:
- Xác định đầy đủ nội dung hoạt động chuyên môn của giáo viên.
- Xây dựng hoàn thiện quy chế đánh giá, xếp loại chuyên môn giáo
9
viên.
- Tổ chức đánh giá xếp loại chuyên môn của giáo viên.
- Sắp xếp, điều chuyển những giáo viên không đáp ứng yêu cầu về
chuyên môn.
Từ đó các tác giả nhấn mạnh vai trò quản lý chuyên môn trong việc
thực hiện mục tiêu giáo dục. Ngoài giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp,
hoạt động chuyên môn còn bao gồm cả những công việc như: tự bồi dưỡng,
giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu khoa
học giáo dục..., hay nói cách khác quản lý chuyên môn của giáo viên thực
chất là quản lý quá trình sư phạm của người thầy.
Ngày càng có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu đề tài quản lý về nâng
cao chất lượng đội ngũ cũng như về bộ môn tiếng Anh như:
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở trường THPT
công lập huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thúy (2014);
- “Một số giải pháp quản lý công tác đổi mới phương pháp dạy học môn
tiếng Anh ở các trường THPT huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” của tác giả
Nguyễn Tất Thiện (2012);
- “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy tiếng
Anh THCS thị xã Hà Tĩnh” của tác giả Trần Thị Thanh Hà (2006);
Mặc dù các tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu nhiều về đề tài
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh, song các tác giả đều nghiên
cứu trên phạm vi rộng mà chưa thể hiện được tính vùng miền nên còn mang tính
chất chung chung. Đặc biệt, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu công tác quản lý
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh ở bậc THCS trên địa bàn thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo viên
1.2.1.1. Khái niệm giáo viên
10
Điều 70 Luật giáo dục năm 2005, qui định: “Nhà giáo là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác… Nhà
giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên”[29].
Theo Từ điển Tiếng Việt - NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 1994, định
nghĩa: Giáo viên (danh từ) là người dạy học ở bậc học phổ thông hoặc tương
đương [22].
Giáo viên là người giảng dạy cho học trò, giáo dục, lên kế hoạch, tiến
hành các tiết dạy học, thực hành và phát triển các khóa học nằm trong chương
trình giảng dạy của nhà trường . Giáo viên cũng là người kiểm tra, ra
đề, chấm điểm thi cho học sinh để đánh gia chất lượng từng học trò.
1.2.1.2. Tiêu chuẩn người giáo viên
Điều 70 Luật giáo dục năm 2005 [28], qui định tiêu chuẩn đối với giáo
viên như sau:
- Phẩm chất đạo đức tư tưởng tốt.
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp.
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
1.2.1.3. Vai trò của người giáo viên
- Vai trò người thiết kế
Người giáo viên nói chung và giáo viên THCS nói riêng là những
người thiết kế chương trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Căn cứ vào mục đích, nội dung giáo dục và logic của quá trình sư phạm; trên
cơ sở đặc điểm tâm sinh lý của học sinh; dựa trên các khả năng và điều kiện
cho phép, người giáo viên phân tích mục tiêu giáo dục để thiết kế quá trình
hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Người giáo viên thiết kế để
hướng dẫn cho học sinh tích cực tự thiết kế và tự giác thi công. Giáo viên
11
chọn lựa nội dung giáo dục, xây dựng qui trình hoạt động, sử dụng phối hợp
các phương pháp giảng dạy, giáo dục, thiết kế hoạt động chung của tập thể,
đồng thời chú ý đến những trường hợp cá biệt của học sinh.
- Vai trò người tổ chức
Giáo viên là người chỉ đạo lớp học, tổ chức các hoạt động và giao lưu
cho học sinh trong quá trình giáo dục – dạy học, làm cho mỗi học sinh phát
huy đầy đủ năng lực và trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo trong các hoạt
động của mình, đồng thời giáo viên còn là người hướng dẫn quá trình tự giáo
dục của học sinh. Giáo dục học sinh là tổ chức các mối quan hệ nhiều mặt của
họ với người khác và xã hội, với thế giới xung quanh; là tổ chức các dạng
hoạt động và giao lưu giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với những
người khác.
- Vai trò người lãnh đạo, chỉ huy, động viên, cổ vũ
Ngoài vai trò là người thiết kế, tổ chức, người giáo viên còn là người
lãnh đạo, chỉ huy, điều khiển, điều chỉnh, khích lệ quá trình học tập và rèn
luyện của học sinh. Giáo viên giữ vai trò hướng dẫn, uốn nắn, điều chỉnh,
động viên, nhắc nhở học sinh chủ động hình thành và phát triển nhân cách.
- Vai trò người đánh giá
Trên cơ sở những thông tin thu nhận được về quá trình học tập và rèn
luyện của học sinh, giáo viên thẩm định, đánh giá học lực và hạnh kiểm của
học sinh. Giáo viên là người trọng tài cho quá trình học tập và rèn luyện của
tập thể học sinh. Người giáo viên phải có đầy đủ năng lực, trách nhiệm để chỉ
ra cái hay, cái độc đáo, đánh giá đúng những giá trị thật sự năng lực và phẩm
chất nhân cách của học sinh để từ đó tiếp tục hoàn thiện quá trình giáo dục.
1.2.1.4. Nhiệm vụ của người giáo viên
Điều 72 Luật giáo dục năm 2005 [29], qui định nhiệm vụ đối với giáo
viên như sau:
12
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy
đủ và có chất lượng chương trình giáo dục.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các qui định của pháp luật
và điều lệ của nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo. Tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng của người học.
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu
gương tốt cho người học.
- Các nhiệm vụ khác theo qui định của pháp luật.
1.2.2. Đội ngũ, đội ngũ giáo viên
1.2.2.1. Khái niệm đội ngũ
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Đội ngũ là khối người được tổ
chức và tập họp thành lực lượng”. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Đội ngũ là tập
hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực
lượng” [22].
Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất chúng ta hiểu: Đội ngũ là tập h ợp
một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức
năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề nghiệp, nhưng có chung mục đích
xác định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh
thần.
Như vậy, khái niệm đội ngũ có thế diễn đạt nhiều cách khác nhau,
nhưng đều thống nhất: Đó là một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành
một lực lượng đế thực hiện mục đích nhất định. Do đó, người quản lý nhà
trường phải xây dựng, gắn kết các thành viên tạo ra đội ngũ, trong đó mỗi
người có thể có phong cách riêng, như ng phải có sự thống nhất cao về mục tiêu
cần đạt tới.
13
1.2.2.2. Khái niệm đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên là tập th ể những người trực tiếp tham gia giảng dạy,
giáo dục trong nhà trường. Đội ngũ giáo viên trong nhà trường là lực lượng chủ
yếu đế tố chức quá trình giáo dục. Chất lượng đào tạo cao hay thấp phụ thuộc rất
nhiều vào đội ngũ giáo viên. Một đội ngũ am hiểu công việc, tâm huyết với nghề
nghiệp, có đủ phẩm chất và năng lực sẽ đóng vai trò tích cực vào thành tích chung
của trường. Vì vậy, người quản lý nhà trường (Hiệu trưởng), hơn ai hết phải thấy
rõ vai trò của đội ngũ giáo viên để củng cố và xây dựng lực lượng đó ngày càng
vững mạnh.
1.2.3. Chất lượng, nâng cao chất lượng
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một khái niệm khá trìu tượng, đa chiều, đa nghĩa và có
thể được xem xét dưới nhiều gốc độ khác nhau:
- Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật,
sự việc.
- Chất lượng “là sự phù hợp với mục tiêu”
- Chất lượng “là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo
cho đối tượng có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.
- Theo từ điển Tiếng Việt [22] xác định: chất lượng phạm trù triết học
biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định
tương đối của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính
khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính.
Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như
một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật khi
vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất
lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao
giờ cũng gắn với tính qui định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài
14
tính qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và
chất lượng.
- Qua đó ta có thể hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong tự
nhiên, xã hội đều có chất của nó. Chất của sự vật là tổng hợp những tính qui
định, những thuộc tính, những đặc điểm cấu trúc khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, chỉ rõ nó là cái gì và làm cho nó khác với cái khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào lại không có tính qui định về chất
lượng, không có sự tồn tại nào thiếu tính qui định về chất lượng. Bãi cỏ, ao
hồ, súc vật, con người, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội... tất cả đều là
những vật thể khác nhau vì mỗi thứ đều có tính qui định về chất lượng riêng
của mình.
Chất lượng của các sự vật, hiện tượng được biểu hiện thông qua các
thuộc tính của nó. Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính tham gia
vào việc qui định chất lượng của sự vật không giống nhau. Có thuộc tính bản
chất, có thuộc tính không bản chất. Các thuộc tính bản chất tồn tại suốt trong
quá trình tồn tại của sự vật, giữ vai trò qui định của sự vật làm cho nó là nó và
khác với cái khác. Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì sự vật không còn. Trái lại
thuộc tính không bản chất thì không giữ vai trò như thế.
Chất của sự vật còn được qui định bởi đặc điểm cấu trúc của sự vật. Đó
là các yếu tố, các bộ phận cấu thành một hệ thống của sự vật, tức cấu trúc bên
trong. Cấu trúc bên trong nếu sắp xếp theo những cách thức khác nhau cũng
sẽ tạo thành những thuộc tính khác nhau của sự vật. Vì vậy khi xác định chất
của sự vật cần phải tính đến đặc điểm cấu trúc của sự vật.
Tóm lại: Khái niệm chất lượng phản ánh mặt vô cùng quan trọng của
sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới khách quan. Nói như Hêghen
“Chất lượng là ranh giới làm cho những vật thể này khác với những vật thể
khác”.
15
1.2.3.2. Khái niệm nâng cao chất lượng
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, chất lượng dịch chuyển từ
đảm bảo chất lượng tiến dần sang chất lượng thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng và thông qua khách hàng. Điều này làm thay đổi quan điểm về chất
lượng trong đó vấn đề thỏa mãn nhu cầu, kì vọng của khách hàng được quan
tâm hàng đầu. Với cách tiếp cận thông qua khách hàng, các trường học bên
cạnh đảm bảo chất lượng sản phẩm đào tạo còn chú trọng đến việc thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng và đánh giá chất lượng sản phẩm đào tạo của nhà
trường thông qua khách hàng.
Để thông hiểu nhu cầu của khách hàng, cả hiện tại và tương lai, và để
thích ứng với những thay đổi của môi trường đòi hỏi trường học phải có chiến
lược hiệu quả để lắng nghe và học hỏi từ khách hàng, đo lường sự hài lòng
của khách hàng, và xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Nhu cầu của khách
hàng phải được liên kết chặt chẽ với chiến lược của nhà trường. Những thông
tin liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn của khách hàng đóng vai
trò quan trọng vì sự thông hiểu thông tin này có thể là cơ sở cho việc cải tiến
sự thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Có vậy, sản phẩm đào tạo của
các trường học sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của khách hàng sử
dụng lao động đồng thời làm tăng uy tín, thương hiệu của nhà trường.
1.2.4. Chất lượng đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên là vấn đề khá phức tạp khi xem xét cả
trình độ chuyên môn, nhận thức chính trị, thái độ công dân, năng lực vi tính,
năng lực ngoại ngữ, thể lực, v.v... Ngành giáo dục chưa thực hiện cuộc điều
tra cơ bản nào để xác định nguồn vốn này. Tạm giới hạn tiêu chí “đạt chuẩn”
để đánh giá.
Xuất phát từ những quan niệm về chất lượng như đã nêu ở trên ta có
thể hiểu: Chất lượng đội ngũ giáo viên là toàn bộ thuộc tính (yếu), những đặc
16
điểm cấu trúc (cơ cấu) của đội ngũ giáo viên. Những thuộc tính cấu trúc này
gắn bó với nhau trong một tổng thể thống nhất tạo nên giá trị và sự tồn tại của
đội ngũ và làm cho đội ngũ giáo viên khác với đội ngũ khác.
Chất lượng đội ngũ giáo viên được thông qua các thuộc tính bản chất sau:
- Số lượng thành viên trong đội ngũ
- Cơ cấu đội ngũ
- Phẩm chất của đội ngũ
- Trình độ của đội ngũ (chuyên môn, nghiệp vụ...)
- Năng lực của đội ngũ
Trên đây là năm yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ, có thể
biểu hiện theo sơ đồ sau:
Phẩm chất
Trình độ
Năng lực
Số lượng
Cơ cấu
Trước những vấn đề liên quan sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã
hội như chất lượng giáo dục thì rất khó có thể theo đuổi một sự thống nhất
tuyệt đối mà phải chấp nhận trạng thái có được nhận thức giống nhau ở mức
độ thích hợp trên những vấn đề cơ bản.
Trong cuộc sống có rất nhiều điều ai cũng hiểu nhưng nếu cố mà định
nghĩa và hiểu cho chính xác thì lại càng làm cho vấn đề mù mờ hơn.
Ví dụ: Em A học giỏi hơn em B, thầy C dạy giỏi hơn thầy D, chất
lượng lớp E tốt hơn lớp F... thì có vẻ dễ thống nhất, ít ra là ở những biểu hiện
cơ bản.
Nâng cao chất lượng giáo dục là một quá trình, phải hoàn thiện từng
bước. Những phương án thay đổi, cải cách trong giáo dục phải được thực tiễn
kiểm chứng, làm cho phong phú và phát triển, không có trường hợp ngoại lệ.
17
Con đường tiến bộ của tri thức và của giáo dục cần được suy xét ít nhất
từ hai cực đối ngẫu hướng với nhau: vĩ mô và vi mô.
Cả cộng đồng quốc tế cũng như mỗi quốc gia, mỗi cơ sở giáo dục đào
tạo đang quan tâm, đang bàn thảo nhiều đến chất lượng giáo dục. Chiến lược
chung (vĩ mô) và năng lực mỗi nhà giáo (vi mô) là hai thành tố hướng tới
nhau, ràng buộc nhau làm cơ sở cho các phương án nâng cao chất lượng giáo
dục.
1.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là làm cho chất lượng của đội
ngũ giáo viên ngày càng hoàn thiện ở trình độ cao hơn về tất cả các yếu tố cấu
thành từ số lượng cơ cấu đến phẩm chất, năng lực, trình độ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thực chất là quá trình xây dựng
và phát triển đội ngũ làm cho đội ngũ trưởng thành ngang tầm đòi hỏi yêu cầu
của sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và từng nhà trường nói riêng.
1.2.5.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức
- Nhận thức tư tưởng chính trị với trách nhiệm của một công dân, một
nhà giáo đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tham gia các hoạt
động xã hội, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, góp phần phát triển đời
sống văn hóa cộng động. Yêu nghề nghiệp, tận tụy với nghề; sẵn sàng khắc
phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục học sinh.
- Chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc các quy định của địa phương.
Liên hệ thực tế để giáo dục học sinh ý thức chấp hành pháp luật và giữ gìn
trật tự an ninh xã hội nơi công cộng. Vận động gia đình chấp hành các chủ
trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương.
- Chấp hành quy chế của ngành, quy định của nhà trường, có nghiên
cứu và có giải pháp thực hiện. Thái độ lao động nghiêm túc, đảm bảo ngày
18
công; lên lớp đúng giờ, không tùy tiện bỏ lớp học, bỏ tiết dạy; chịu trách
nhiệm về chất lượng giảng dạy và giáo dục ở lớp được phân công.
- Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà
giáo, có tinh thần đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, luôn có ý thức phấn
đấu vươn lên trong nghề nghiệp được đồng nghiệp, học sinh và cộng đồng tín
nhiệm.
- Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ đồng nghiệp, hết
lòng phục vụ nhân dân và học sinh.
1.2.5.2. Nâng cao năng lực chuyên môn
- Có trình độ chuyên môn được đào tạo theo đúng chuẩn trình độ của
giáo viên giảng dạy ở cấp học.
- Kiến thức cơ bản trong các tiết dạy đảm bảo đủ, chính xác, có hệ
thống.
- Nắm vững mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình, sách giáo
khoa của các môn học được phân công giảng dạy, có kiến thức chuyên sâu,
đồng thời có khả năng hệ thống hóa kiến thức trong cả cấp học để nâng cao
hiệu quả giảng dạy đối với các môn học được phân công giảng dạy.
- Có kiến thức phổ thông chính trị, xã hội và nhân văn, kiến thức liên
quan đến ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ, tiếng dân tộc để đáp ứng
yêu cầu dạy học.
- Có kiến thức cơ bản về tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi,
giáo dục của cấp học và vận dụng được vào việc lưa chọn phương pháp giảng
dạy, cách ứng xử trong giáo dục phù hợp với từng học sinh.
19
- Có khả năng hướng dẫn đồng nghiệp một số kiến thức chuyên sau về
môn học, hoặc có khả năng bồi dưỡng học sinh giỏi, hoặc giúp đỡ học sinh
yếu hay học sinh còn nhiều hạn chế trở nên tiến bộ.
- Có kiến thức và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học
sinh và vận dụng phù hợp với cấp học, đánh giá học sinh chính xác, khách
quan đúng qui định hiện hành.
- Có hiểu biết cơ bản về nhiệm vụ chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của
tỉnh, huyện, xã nơi công tác.
1.2.5.3. Nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm
- Lập kế hoạch dạy học trong năm và từng kì nhằm cụ thể hóa chương
trình giáo dục cấp học theo qui định của Bộ GD&ĐT phù hợp với đặc điểm
của trường và lớp được phân công giảng dạy. Biết cách soạn giáo án theo
hướng đổi mới, thể hiện hoạt động tích cực của thầy và trò.
- Xây dựng môi trương học tập thân thiện, hợp tác, lựa chọn và kết hợp
tốt các phương pháp dạy học thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát
huy được tính năng động sang tạo, chủ động học tập của học sinh.
- Biết cách hướng dẫn học sinh tự học.
- Sử dụng hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp đối tượng học sinh, sử
dụng kết quả kiểm tra điều chỉnh việc học của học sinh một cách tích cực.
- Biết khai thác và sử dụng tốt thiết bị, đồ dung dạy học nhằm hỗ trợ
quá trình học tập của học sinh.
- Ngôn ngữ giảng dạy trong sáng, trình bày rõ ràng, mạch lạc các nội
dung của bài học. Nói rõ rang, rành mạch, không nói ngọng khi giảng dạy và
giao tiếp trong phạm vi nhà trường.
- Có các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt phù hợp.