BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN MẠNH HÙNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN MẠNH HÙNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VINH
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. MAI VĂN TƯ
NGHỆ AN - 2015
iii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và
gia đình. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm
ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Giáo dục trường Đại học Vinh
cùng quý thầy cô tham gia giảng dạy lớp Cao học Quản lý Giáo dục khóa
21B. Quý thầy cô đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức nền tảng và
những kiến thức chuyên môn giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn TS. Mai Văn Tư, người thầy đã hết lòng động
viên, định hướng, góp ý, sửa chữa và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã
cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song Luận văn không thể tránh những sai
sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của các nhà
nghiên cứu khoa học, thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp và bạn bè
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng
iv
MỤC LỤC
Tiểu kết chương 2.........................................................................................
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BGH
: Ban giám hiệu
ĐHCN
: Đại học Công nghiệp
HĐQT
: Hội đồng Quản trị
GD
: Giáo dục
ĐH
: Đại học
vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức Trường ĐH Công nghiệp Vinh
......................................................................................................................
34
Bảng 2.1 Quy mô đào tạo Trường Đại học Công nghiệp Vinh
......................................................................................................................
33
Bảng 2.3 Cơ cấu giảng viên theo ngành đào tạo
......................................................................................................................
40
Bảng
2.4:
Cơ
cấu
giảng
viên
theo
độ
tuổi
......................................................................................................................
40
Bảng 2.5: Cơ cấu đội ngũ giảng viên Trường ĐHCN Vinh
......................................................................................................................
42
Bảng
2.6
Thống
kê
trình
độ
nghiệp
vụ
sư
phạm
ngoại
ngữ.
Tin
học.
43
Bảng
2.7
Thống
kê
trình
độ
43
Bảng
2.8
Thống
kê
trình
độ
44
Bảng 2.9. Thống kê số lượng giáo viên tham gia đào tạo bồi dưỡng
49
Bảng 0.1: Đánh giá tính cần thiết của các giải pháp bồi dưỡng đội ngũ
giảng
viên
trường
ĐHCN
Vinh
......................................................................................................................
82
vii
Bảng 0.2: Đánh giá tính khả thi các giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên
trường
ĐHCN
Vinh
......................................................................................................................
83
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới, giáo dục
- đào tạo vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là con đường quan
trọng để phát huy nguồn lực con người. Chính vì vậy, sự đi lên bằng giáo dục
đã trở thành con đường tất yếu của thời đại. Trí tuệ con người đã trở thành tài
sản quý giá của mỗi quốc gia. Nâng cao và phát triển dân trí là điều kiện tiên
quyết để đưa đất nước tiến lên trong xu thế hội nhập hiện nay. Từ xu thế tất
yếu của thời đại và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng đã
xác định “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đến
nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người,
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững”.
Sự phát triển của kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ, đã làm thay đổi căn bản tư duy kinh tế, chính trị - xã hội trên phạm
vi toàn thế giới theo xu hướng hội nhập cùng phát triển. Toàn cầu hóa cũng
tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy giao lưu, hợp tác, chia sẻ kinh
nghiệm, chuyển giao và tiếp nhận công nghệ đào tạo tiên tiến giữa các trường
Đại học trong nước và trên thế giới. Quá trình quốc tế hóa giáo dục đã tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển giáo dục đại học, tạo ra nhiều cơ hội và thách
thức đối với các cơ sở đào tạo Đại học ở cả các nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển; tính cạnh tranh trong giáo dục Đại học, mà gốc rễ là
cạnh tranh quốc tế về khoa học kỹ thuật trở nên rõ ràng và gay gắt hơn.
Để có thể thích ứng với xu thế của toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa
học công nghệ và nền kinh tế tri thức, các trường đại học phải không ngừng
đổi mới theo một chiến lược nhất quán với tầm nhìn rộng. Đồng thời, tập
2
trung xây dựng và phát triển năng lực cốt lõi và những năng lực phân biệt của
đội ngũ giảng viên để tạo lợi thế cạnh tranh bền vững, lâu dài; tăng cường đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia; lấy người học làm trung
tâm trong quá trình đào tạo theo hướng cung cấp cho sinh viên kiến thức phù
hợp với thời đại và đòi hỏi của thị trường.
Trong bối cảnh đó, các trường Đại học Việt Nam cần tận dụng tốt thời
cơ, vượt qua thách thức để hội nhập sâu vào giáo dục đại học thế giới, đáp
ứng sự nâng tầm và phát triển của giáo dục đại học trong nền kinh tế tri thức,
xứng đáng với vai trò giáo dục đại học là đầu tàu của nền kinh tế tri thức;
cũng có nghĩa góp phần: (i) Đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội Việt Nam; (ii)
Đáp ứng nhu cầu vươn kịp quốc tế, hòa vào dòng chảy hội nhập. Đó là cách
giáo dục đại học nước ta đã và đang bắt đầu, mà trong đó vấn đề cốt lõi, có
vai trò then chốt tạo ra chất lượng, hiệu quả của giáo dục đại học chính là bồi
dưỡng đội ngũ ngũ giảng viên.
Phát triển Giáo dục và đào tạo là đòn bẩy phát triển đất nước. Đây là
nguyên lý chung của tất cả các quốc gia, dân tộc. Quan điểm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục đại học cũng hoàn toàn thống
nhất với nguyên lý chung này. Theo đó, việc phát triển đội ngũ giảng viên với
yêu cầu ngày càng cao và tập trung ở những khía cạnh: (1) Nâng cao vị trí xã
hội của người giảng viên; (2) Bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, chuẩn hóa đội
ngũ giảng viên; (3) Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ giảng
viên; (4) Quản lý, sử dụng, đại ngộ đội ngũ giảng viên. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy BCH TW Đảng khóa X nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức
vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền
vững”. Nhận thức được vấn đề mang tính quyết định của giáo dục đại học đối
với tiến trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 02/11/2005 Chính
phủ ban hành Nghị quyết 14/2005/NQ-CP phê duyệt “Đề án đổi mới căn bản
3
và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoàn 2006 – 2020”; một bản Đề
án kết tinh sức lực, trí tuệ của các chuyên gia, nhà giáo, nhà quản lý, nhà
nghiên cứu tâm huyết với nghề. Đây là văn kiện pháp lý định hướng xuyên
suốt cho giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập với khu vực và quốc
tế, mà trong đó đã coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên là
một mục tiêu hết sức quan trọng: “Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ
quản lý đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có
trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến”, với
mong muốn thúc đẩy một hệ thống giáo dục đại học hướng nhiều hơn đến
nghiên cứu và tiến gần hơn đạt chuẩn chất lượng quốc tế.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 7 trường đại học (có tới 4
trường mới thành lập từ 2 đến 4 năm) trong đó có 2 trường được nâng cấp từ
cao đẳng lên đại học, 2 trường đại học tư thục mới thành lập. Trong những
năm qua, các trường đại học trên địa bàn đã có nhiều đóng góp kịp thời và
tích cực đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển tinh tế - xã hội của tỉnh
nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của giáo
dục Việt Nam, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Nghệ An phải tiếp tục
phấn đấu để phát triển nhanh về nhiều mặt: quy mô đào tạo, đa dạng hóa các
loại hình đào tạo, huy động nguồn lực tài chính lớn để tăng cường cơ sở vật
chất và trang thiết bị phục vụ dạy và học. Đặc biệt, trong đó các trường tư
thục trên địa bàn tỉnh vấn đề bức thiết hiện nay, có liên quan đến đổi mới yêu
cầu giáo dục đại học đó là bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, chuẩn hóa đội ngũ
giảng viên góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng thương hiệu, tạo
lợi thế trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu ở trên thì việc nghiên cứu
xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý của trường Đại học Công
nghiệp Vinh, một trường tư thục mới được thành lập trên địa bàn tỉnh Nghệ
An có một ý nghĩa quan trọng và vô cùng cần thiết. Bời vì, muốn nâng cao
chất lượng đào tạo, xây dựng thương hiệu, tạo lợi thế trong cạnh tranh ngày
4
càng gay gắt giữa các trường đại học yếu tố quan trọng là chất lượng đội ngũ
giảng viên và cán bộ quản lý. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số giải pháp bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường Đại học Công nghiệp Vinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở
trường Đại học Công nghiệp Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường Đại học Công nghiệp Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại trường Đại học Công nghiệp
Vinh sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu đề xuất được các giải pháp có tính hệ thống,
có cơ sở khoa học và khả thi, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp thì sẽ
góp phần nâng cao trình độ và năng lực giảng dạy, nghiên cứu cho giảng viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề bồi dưỡng đội ngũ giảng viên: Các
khái niệm, vị trí, vai trò và sự cần thiết phải tập trung bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên.
- Nghiên cứu thực trạng công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở Trường Đại
học Công nghiệp Vinh, chỉ ra thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường Đại
học Công nghiệp Vinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu liên quan đến đề tài và khái quát
hóa những nhận định độc lập.
5
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Khảo sát thực tế, tổng kết kinh nghiệm giáo dục, nghiên cứu sản phẩm
của hoạt động, lấy ý kiến chuyên gia.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
7.1 Về lý luận: Luận văn đã góp phần khái quát những vấn đề cơ bản về
đội ngũ giảng viên và công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. Phân tích
những vấn đề cơ bản của hoạt động bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên trong nhà trường.
7.2 Về thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên tại trường Đại học Công nghiệp Vinh, luận văn đã chỉ ra
những vấn đề còn tồn tại trong công tác này và đề xuất một số giải pháp phù
hợp nhằm bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nhà trường.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
- Chương 2. Thực trạng công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở
trường Đại học Công nghiệp Vinh
- Chương 3. Một số giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường
Đại học Công nghiệp Vinh
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đã được các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đều thống nhất
có chung quan điểm cho rằng đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quan trọng trong
sự nghiệp giáo dục và phát triển giáo dục của mỗi quốc gia.
Các nước có nền giáo dục phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp , Phần Lan,
Astralia, Nhật Bản, Đức… luôn xem nhà giáo là điều kiện quyết định của sự
nghiệp giáo dục và phát triển giáo dục. Vì vậy, khi quyết định đưa giáo dục
Hoa Kỳ lên hàng đầu thế giới trong thế kỷ XXI, chính phủ Hoa Kỳ đã lấy giải
pháp nhà giáo làm then chốt. Đó là tiêu chuẩn hoá, chuyên nghiệp hoá và
nâng cao chất lượng nhà giáo trên các vị thế nghề nghiệp, nhân cách và xã
hội. Người ta xem giáo viên là lực lượng quyết định đến chất lượng đào tạo vì
thế họ luôn chăm lo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên; có nhiều công
trình đã đi sâu nghiên cứu những yêu cầu mà người giáo viên phải đáp ứng
trong bối cảnh của tiến bộ khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tri thức . Các nước
này xem việc đãi ngộ về vật chất, điều kiện làm việc và địa vị xã hội cho nhà
giáo là giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo.
Phần Lan đã đào tạo ra được những giáo viên có trình độ cao mà ít có
quốc gia nào theo kịp. Ở Phần Lan giáo viên được xã hội đặc biệt coi trọng và
là nghề có tính cạnh tranh cao: một vị trí giáo viên có thể phải cạnh tranh với
khoảng 40 đồng nghiệp. Việc bổ túc và bồi dưỡng giáo viên được tổ chức rất
công phu nhằm bảo đảm cho giáo viên liên tục được cập nhật kiến thức và
phương pháp giảng dạy mới nhất. Giáo viên Phần Lan không chỉ đơn thuần là
một nhà giáo mà còn được xem là một nhà nghiên cứu độc lập về giáo dục...
7
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng về vấn đề phát
triển, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo. Đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt
thực hiện mục tiêu giáo dục – đào tạo, là người xây dựng cho người học thế
giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và phương pháp tư duy
khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Đảng ta xác định “Giáo viên
là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”.
Sau hai mươi năm đổi mới và 7 năm thực hiện “Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010”, giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy
mô, đa dạng hoá về loại hình và các hình thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh
cơ cấu hệ thống, cải tiến chương trình, quy trình đào tạo và huy động được
nhiều nguồn lực xã hội. Chất lượng giáo dục đại học ở một số ngành, lĩnh
vực, cơ sở giáo dục đại học có những chuyển biến tích cực, từng bước đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội
Tuy nhiên, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học chưa vững
chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những đòi hỏi
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu học tập của
nhân dân và yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Để nhanh chóng
đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, hội nhập kinh tế quốc tế,
gia nhập WTO, giáo dục đại học nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ và
toàn diện, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ nhà giáo.
Chỉ thị 40 – CT/TW của Ban Bí thư đã xác định, xây dựng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện là “nhiệm vụ vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, và mang tính chiến lược lâu dài”. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục phải “được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, lối sống, lương tâm, nghề nghiệp”.
8
Nghị quyết số 37/2004/QH11 về giáo dục cũng nhấn mạnh việc cần
thiết phải “tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo …. Hoàn thiện
cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo điều kiện cho nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục thường xuyên tự học tập để cập nhật kiến thức,
nâng cao trình độ, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục”.
Chương trình hành động của Chính phủ, thực hiện nghị quyết
37/2004/QH11 về giáo dục đã chỉ rõ sự cần thiết phải “tập trung chỉ đạo, thực
hiện có hiệu quả công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lý giáo dục”, “bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”. Tại phiên họp Chính phủ
tháng 7 năm 2005, Chính phủ đã ra Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. Nghị
quyết chỉ rõ: Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại
học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản
lý...
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã ra
Nghị quyết số 26-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc rất lớn và chủ yếu vào đội ngũ
giảng viên, "Không có hệ thống giáo dục nào vươn cao quá tầm những giáo
viên làm việc cho nó". Luật Giáo dục cũng đã quy định "Nhà giáo giữ vai trò
quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục". Vì vậy, muốn đổi mới,
nâng cao chất lượng giáo dục đại học thì phải bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên.
Ở trong nước các tác giả khẳng định điều kiện quyết định để nâng cao
chất lượng giáo dục đại học là chất lượng và động lực dạy học của đội ngũ
9
giảng viên. Theo tác giả Trần Hồng Quân, giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo là củng cố, đổi mới hệ thống sư phạm. Tác giả Trần
Bá Hoành khẳng định để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên phải thực
hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên; phải tiếp
tục củng cố, tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm, xây dựng một số
trường ĐHSP trọng điểm, phải đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, sử dụng giáo viên đúng năng lực…
1.2. Các khái niệm cơ bản trong đề tài
1.2.1. Giảng viên và đội ngũ giảng viên
1.2.1.1. Giảng viên
Luật Giáo dục, mục 1, điều 70, quy định “Nhà giáo là người làm nhiệm
vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác”. Nhà
giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên.
Cũng theo Luật Giáo dục và Điều lệ trường Đại học quy định:
- Trình độ chuẩn được đào tạo của giảng viên: có bằng đại học trở lên và
có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giảng viên dạy cao đẳng,
ĐH; có bằng thạc sỹ trở lên đối với giảng viên dạy chuyên đề, hướng dẫn luận
văn thạc sỹ; có bằng tiến sỹ đối với giảng viên giảng dạy chuyên đề, hướng
dẫn luận án tiến sỹ (mục 1, điều 77).
- Nhiệm vụ của giảng viên: a) Hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và NCKH
được quy định theo giờ chuẩn của Bộ GD & ĐT ban hành đối với các chức
danh và ngạch tương ứng; b) Viết giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ giảng
dạy, hoc tập theo sự phân công của các cấp quản lý; c) Không ngừng tự bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến phương pháp dạy học để nâng cao chất
lượng đào tạo; d) Tham gia và chủ trì các đề tài NCKH, phát triển công nghệ,
dịch vụ KH&CN; e) Hướng dẫn, giúp đỡ người học trong học tập, NCKH, rèn
luyện tư tưởng đạo đức, tác phong, lối sống, (mục 2, điều 26).
10
Giảng viên là những người làm công tác dạy học - giáo dục, người trực
tiếp biến các chủ trương, các chương trình, cải cách, đổi mới giáo dục đại học
thành hiện thực.
1.2.1.2. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ là “tập hợp gồm số đông người cùng chức năng, nghề nghiệp
tạo thành một lực lượng” [21]
Theo luật giáo dục 2005 thì “ Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia
trong lĩnh vực giáo dục, họ nắm tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như
thế nào và có khả năng cống hiến tài năng và sức lực của họ cho sự nghiệp
giáo dục” [15]
Đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo
dục, được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ là thực
hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó. Họ làm việc có kế hoạch
và gắn bó với nhau thông qua về lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn
khổ quy định của pháp luật, thể chế xã hội.
Nói cách khác theo nghĩa hẹp, đội ngũ giảng viên là những thầy cô
giáo, những người làm nhiệm vụ giảng dạy và quản lý giáo dục trong các
trường đại học, cao đẳng, bồi dưỡng cán bộ.
Theo quyết định số 538/TCCP-TC ngày 19/12/1995 của Ban Tổ chức
cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ) đội ngũ giảng viên được xếp ở 3
ngạch:giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp.
1.2.2. Bồi dưỡng và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
1.2.2.1. Bồi dưỡng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: Bồi dưỡng là tăng thêm năng lực và phẩm
chất, là “làm cho tốt hơn, giỏi hơn”. Theo nhóm tác giải đề tài XK 07-14,
‘Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã
lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kĩ năng nghề
nghiệp theo các chuyên đề”.
11
Bồi dưỡng thực chất là bổ sung “bồi đắp” những thiếu hụt về tri thức,
cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái cũ còn phù hợp để mở
mang có hệ thống những tri thức, kĩ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết,
nâng cao hiệu quả lao động.
Theo định nghĩa của UNESCO: Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề
nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng
nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Theo GS.TS Nguyễn Minh Đường thì “Bồi dưỡng có thể coi là quá
trình cập nhật kiến thức hoặc kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp
học, bậc học và thường được xác định bằng một chứng chỉ “.
Như vậy bồi dưỡng với mục đích là nhằm nâng cao năng lực và phẩm
chất chuyên môn, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội để tiếp thu công
nghệ mới, củng cố hoặc nâng cao một cách có hệ thống những tri thức, kỹ
năng chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để làm việc có hiệu quả cao hơn.
1.2.2.2. Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Bồi dưỡng, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ nói chung và đội ngũ giảng viên
nói riêng, yếu tố quan trọng nhất mà nhà quản lý phải đặc biệt quan tâm, đó là
vấn đề “Chất lượng đội ngũ”.
Trong giáo dục đại học, tùy vào đối tượng, hoàn cảnh và yêu cầu nhiệm
vụ đảm nhận mà công tác bồi dưỡng sẽ nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể,
sát hợp với tình hình. Nhìn chung công tác bồi dưỡng giảng viên nhằm thực
hiện các loại mục tiêu như: bồi dưỡng chuẩn hóa; bồi dưỡng thường xuyên;
bồi dưỡng nâng chuẩn…
Tóm lại, việc bồi dưỡng đội ngũ giảng viên là nhằm để bổ sung những
kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập nhật thêm những tri thức mới về các
lĩnh vực của khoa học giáo dục nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt cho lực
lượng giảng viên dạy học trong trường đại học để đáp ứng những yêu cầu
ngày càng cao của sự phát triển GDĐH.
12
1.2.3. Giải pháp, giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
1.2.3.1. Giải pháp
Theo Từ điển Tiếng Việt giải pháp được xem là “phương pháp giải
quyết một công việc một vấn đề cụ thể nào đó” [21].
Còn theo Nguyễn Văn Đạm “ Giải pháp là toàn bộ những ý nghĩa của
hệ thống cùng với những quyết định và hành động theo sau dẫn, dẫn tới sự
khắc phục một khó khăn” [10].
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp chúng ta cần phân biệt với một
số khái niêm tương tự như: phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của
các khái niệm này đều nói về cách làm cách tiến hành cách giải quyết một
công việc, một vấn đề. Còn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn
mạnh đến cách làm cách hành động cụ thể, trong khi đó phương pháp nhấn
mạnh đến trình tự các bước có quan hệ với nhau để tiến hành một công
việc có mục đích.
Theo Hoàng Phê “ Phương pháp là cách thức nhận thức, nghiên cứu
hiện tượng của tư nhiên và đời sống xã hội ” [21].
Còn theo Nguyễn Văn Đạm “ Phương pháp được hiểu là trình tự cần
theo trong các bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một công việc có mục
đích nhất định”[10].
Như vậy khái niệm giải pháp tuy có điểm chung với các khái niệm nêu
trên nhưng nó cũng có điểm riêng. Điểm riêng cơ bản của thuật ngữ này là
nhấn mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc phục khó
khăn nhất định. Trong một giải pháp có nhiều biện pháp, giải pháp được đánh
giá bởi các tiêu chí sau:
+ Tính hiện thực: giải pháp giải quyết được vấn đề đặt ra.
+ Tính hiệu quả : giải pháp giải quyết được vấn đề đặt ra và không làm
nảy sinh vấn đề mới phức tạp hơn.
+ Tính khả thi: giải pháp không bị các yếu tố chi phối, nó ràng buộc ở
góc độ cao.
13
1.2.3.2. Giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Giải pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên là hệ thống các cách thức,
phương pháp, biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Tập trung:
- Bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đạo đức.
- Bồi dưỡng về chuyên môn.
- Bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm.
1.3. Vị trí, nhiệm vụ và vai trò của các trường Đại học trong sự nghiệp
giáo dục, đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội
1.3.1. Vị trí
Các trường đại học được tổ chức và hoạt động theo quy định của điều lệ
trường đại học theo Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg, ngày 22/09/2010 của
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10
tháng 11 năm 2010 và thay thế Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 10
tháng 7 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành “Điều lệ trường
đại học”. Điều lệ này áp dụng đối với các đại học, trường đại học và học viện
(sau đây gọi chung là trường đại học) trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đại
học, trường đại học tư thục, trường đại học có yếu tố nước ngoài hoạt động
theo điều lệ này và quy chế tổ chức và hoạt động của đại học, trường đại học
tư thục, quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục. Các loại hình
trường và loại trường đại học:
- Các loại hình trường đại học bao gồm: công lập, bán công, dân lập và
tư thục, được quy định tại Điều 13 Nghị định số 43/2000/ NĐ-CP ngày 30
tháng 8 năm 2000 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Giáo dục.
- Các loại trường đại học bao gồm: đại học, trường đại học và học viện,
được quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 43.
- Căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu đào tạo nhân
lực và quy hoạch mạng lưới các trường đại học trong từng thời kỳ, Bộ trưởng
14
Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục các
trường đại học trọng điểm của nhà nước.
1.3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của các trường Đại học:
Theo điều lệ ban hành kèm theo Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg,
ngày 22/09/2010 của Thủ tướng chính phủ có quy định về nhiệm vụ của các
trường đại học như sau:
- Xác định tầm nhìn, xây dựng chiến lược và kế hoạch tổng thể phát
triển nhà trường qua từng giai đoạn, kế hoạch hoạt động hàng năm.
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu,
chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền.
- Tuyển dụng, quản lý công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ giảng
viên của trường đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu độ tuổi và giới, đạt chuẩn về trình độ được đào tạo; tham gia vào
quá trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà
giáo, cán bộ, nhân viên.
- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trong đội ngũ công chức, viên chức và
người học của trường.
- Tuyển sinh và quản lý người học.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật;
sử dụng nguồn thu từ hoạt động kinh tế để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của
nhà trường, mở rộng sản xuất, kinh doanh và chi cho các hoạt động giáo dục
theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa;
- Phối hợp với gia đình người học, các tổ chức, cá nhân trong hoạt động
giáo dục và đào tạo.
- Tổ chức cho công chức, viên chức và người học tham gia các hoạt động
xã hội phù hợp với ngành nghề đào tạo và nhu cầu của xã hội.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo
dục của cơ quan có thẩm quyền; xây dựng và phát triển hệ thống đảm bảo
15
chất lượng của nhà trường; tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng và
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
- Tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ; ứng dụng, phát triển và
chuyển giao công nghệ; tham gia giải quyết những vấn đề về kinh tế - xã hội
của địa phương và đất nước; thực hiện dịch vụ khoa học, sản xuất kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
- Liên kết với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao, y
tế, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, gắn đào tạo với
sử dụng, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bổ sung nguồn tài
chính cho nhà trường.
- Xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu về đội ngũ công chức, viên
chức, các hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ và hợp tác quốc tế của
nhà trường, về quá trình học tập và phát triển sau tốt nghiệp của người học;
tham gia dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo của trường.
- Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả
hoạt động khoa học và công nghệ, công bố kết quả hoạt động khoa học và
công nghệ; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân trong hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ của nhà trường.
- Được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật
chất; được miễn, giảm thuế, vay tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Chấp hành pháp luật về giáo dục; thực hiện xã hội hóa giáo dục.
- Giữ gìn, phát triển di sản và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật.
1.3.3. Vai trò
Trường đại học là một thiết chế vô cùng quan trọng của xã hội và trong
bối cảnh của nền kinh tế tri thức toàn cầu. Nhận thức về vai trò và sứ mạng
của trường đại học là nền tảng để hoạch định chính sách giáo dục, để tìm
16
kiếm giải pháp xây dựng những trường đại học thực sự có chất lượng, đáp
ứng được nhu cầu và kỳ vọng của cả xã hội.
a) Trường đại học là nơi kiến tạo tri thức mới
Không thể phủ nhận chức năng đào tạo nguồn nhân lực của trường đại
học, nhất là trong thời đại công nghệ kỹ thuật cao ngày nay, Hệ thống đại học
có thể phân tầng gồm nhiều loại, có trường định hướng nghiên cứu, có trường
thiên về giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, nhưng hệ thống
ấy bao giờ cũng được dẫn dắt bởi những trường đại học tinh hoa mà chức
năng chủ yếu là dẫn đầu con đường khám phá khoa học và chân lý. Với tư
cách là bộ máy kiến tạo tri thức mới, trường đại học là động lực tạo ra thay
đổi và tiến xã hội không chỉ trên bình diện khoa học kỹ thuật và kinh tế, mà
cả trong lãnh vực văn hóa và chính trị.
Khi khẳng định vai trò của trường đại học là kiến tạo tri thức mới, chúng
ta không chỉ nói về vai trò của trường đại học đối với xã hội, mà cả đối với
từng cá nhân. Đại học không phải là nơi chuyển giao tri thức theo kiểu đổ đầy
một cái bình chứa, mà là nơi mỗi người tự kiến tạo tri thức cho mình và học
cách nghiên cứu để giải quyết những vấn đề của mình. Không phải tất cả mọi
sinh viên đều trở thành những nhà khoa học, những người nghiên cứu trong
tương lai, nhưng tất cả đều cần có tư duy nghiên cứu, hiểu theo nghĩa biết
cách phân tích, tổng hợp, phán đoán, biết xử lý thông tin để tìm ra kết luận
mới hay cách làm mới cho những vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
b) Trường đại học là nơi lưu giữ và truyền tải di sản của nhiều thiên niên
kỷ
Một trường đại học phải vừa nhìn về tương lai phía trước, vừa nhìn lại
quá khứ theo những cách đôi khi bắt buộc phải mâu thuẫn với những mối bận
tâm hoặc đòi hỏi nhất thời của công chúng. Trường đại học gắn bó với sự vô
thời hạn, và là người quản gia của tất cả các truyền thống còn tồn tại”
Trường đại học không chỉ đầu tư vào những ngành khoa học hay nghiên
cứu thời thượng, mà cả những bộ môn, những ngành nghiên cứu có vẻ như đã
17
lỗi thời hoặc có vẻ như “vô ích” nếu xét về mặt kinh tế hay tài chính. Đó là vì
đại học luôn là biểu tượng của tri thức và phụng sự cho sự thật, mà tri thức và
sự thật thì vượt lên trên rất xa giới hạn của những lợi ích thực dụng.
Chính vì là nơi lưu giữ và truyền tải những giá trị tinh thần vượt không
gian và thời gian như vậy, đại học được coi như ngôi đền của tri thức nhân
loại. Đó là một trong những lý do tồn tại chính yếu của nhà trường, đó là lý
do khiến những ngôi trường như Harvard được cựu sinh viên hết sức trân
trọng và họ đã hiến tặng hằng tỷ đô la cho nhà trường vì muốn đóng góp cho
sứ mạng cao quý ấy.
Trong các vai trò và sứ mạng trọng yếu của trường đại học, hẳn nhiên là
có vai trò đào tạo con người, nhưng trường đại học không phải là nơi bán lẻ
tri thức, mà là nơi mà con người được khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ
này, chứ không phải chỉ được giáo dục hay huấn luyện. Một trường đại học
khác với một trường dạy nghề ở chỗ trường đại học không chỉ mang lại cho
sinh viên những kiến thức và kỹ năng cụ thể trong một lãnh vực chuyên
nghiệp nhất định, mà còn giúp họ phát triển tinh thần tranh biện và thái độ tôn
sùng sự thật, giúp họ thử thách mọi chân lý và giá trị. Hơn thế nữa, một
trường đại học đích thực phải có thể truyền đạt cho sinh viên của mình một
tầm nhìn quốc tế và lòng tôn trọng sâu sắc đối với con người và các giá trị
nhân văn.
1.4. Giảng viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học
1.4.1 Vai trò của người giảng viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học,
hội nhập quốc tế
Thế kỷ 21 với những đặc điểm nổi bật:
- Sự bùng nổ của tri thức khoa học và công nghệ; Sự xuất hiện một thế
giới phụ thuộc lẫn nhau; Sự đối mặt với những vấn đề lớn có tính toàn cầu,
vượt ra ngoài phạm vi mỗi quốc gia, của từng khu vực, như dân số, môi
trường…
18
- Con người là trung tâm của sự phát triển, một xã hội phát triển dựa vào
sức mạnh của tri thức, bắt nguồn từ khai thác tiềm năng của con người, lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản của sự phát triển
nhanh chóng và bền vững. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Việc đặt con người vào trung tâm của sự phát triển khiến cho giáo
dục phải rà soát lại nhận thức về mục tiêu: Từ chỗ "học để biết" sang nhấn
mạnh "học để làm", rồi "học để cùng chung sống", "học để tự khẳng định
mình", có nghĩa là "khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo
của mỗi con người". Vì lợi ích của bản thân và tương lai của dân tộc, giáo dục
phải là công cụ vừa cho cá nhân, vừa cho tập thể nhằm xây dựng nguồn lực
con người thành động lực cho sự phát triển bền vững.
Xu thế đổi mới giáo dục của thế kỷ 21 đang đặt ra những yêu cầu mới về
phẩm chất, năng lực và làm thay đổi vai trò, chức năng của người giảng viên.
Công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, tạo ra những phương tiện,
phương pháp giao lưu mới, tạo có hội cho mỗi người có thể học dưới nhiều
hình thức theo khả năng và điều kiện cho phép. Giáo dục nhà trường không
còn là nguồn thông tin duy nhất đem đến cho sinh viên các tri thức mới mẻ
của loài người mà họ có thể tiếp nhận thông tin khoa học từ các nguồn khác
như, phần mềm dạy học, Internet, truyền hình. Tuy nhiên, giáo dục nhà
trường dưới sự chỉ đạo của giảng viên vẫn là con đường đáng tin cậy và hiệu
quả nhất giúp cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích, có chọn lọc, có hệ thống
những tinh hoa di sản văn hoá, khoa học, nghệ thuật của loài người và của
dân tộc.
Ngày nay khoa học, kỹ thuật, công nghệ đem lại sự biến đổi nhanh trong
đời sống kinh tế - xã hội thì giảng viên không chỉ đóng vai trò truyền đạt các
tri thức khoa học mà còn phải phát triển những cảm xúc, thái độ, hành vi, đảm
bảo cho người học làm chủ được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó.
Giáo dục phải quan tâm đến sự phát triển ở người học ý thức về các giá trị
đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên bản sắc tốt đẹp của loài người, vừa kế