Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh Hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế TTĐB ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.05 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

1


A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với bất kì quốc gia nào thì thuế cũng đóng vai trò quan trọng và chiếm phần
lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước. Việc thực thi một chính sách thuế có hiệu quả
sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này, từ đó tạo điều kiện mở rộng sản xuất và phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Việt Nam, theo thống kê của tổng cục thuế thì 92%
Ngân sách nhà nước là thu từ thuế nên cần có chính sách thuế hoàn chỉnh, thống nhất
và hợp lý nhất.
Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) năm 2008 thay thế Luật Thuế TTĐB năm
1998 và các luật sửa dổi, bổ sung luật thuế TTĐB năm 2003 và 2005 đã khắc phục
những khuyết điểm của luật cũ, khẳng định được vai trò chủ yếu là tạo nguồn thu
quan trọng, ổn định cho ngân sách nhà nước, góp phần khuyến khích đầu tư, tạo thuận
lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên trong quá trình thực thi luật thuế
GTGT đã xuất hiện khá nhiều bất cập cần được xem xét và có phương hướng khắc
phục kịp thời. Để giải quyết vấn đề này, em xin đi vào: “Phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế TTĐB ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt
pháp luật thuế ”.

B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, CƠ SỞ LÝ LUẬN
1, Khái niệm pháp luật Thuế TTĐB
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế tiêu dùng được áp dụng phổ biến ở
các nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau: Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc
biệt, Thụy Điển gọi là thuế đặc biệt. Đối với VN, tiền thân của thuế TTĐB hiện hành
là thuế hàng hóa được ban hành năm 1974. Luật thuế TTĐB ban hành lần đầu tiên vào
năm 1990. Kể từ khi bann hành đến nay, Thuế TTĐB đã qua nhiều lần bổ sung sửa
đổi cho phù hợp với chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai


đoạn phát triển.

2


Thuế TTĐB đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt cần điều tiết mạnh
nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời làm tăng nguồn thu cho Ngân sách
nhà nước (NSNN).
Nhìn chung, các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB thường có các tính chất
sau:
- Một số hàng hóa, dịch vụ có gía bán cao. Ô tô dưới 24 chỗ, tàu bay, du
thuyền…)
- Hàng hóa không thiết yếu, gây lãng phí (hàng mã, vàng mã…)
- Hàng hóa có thể có hại cho sức khỏe, làm ảnh hưởng không tốt đến môi
trường (thuốc lá, rượu bia…)
Việc quy định các hàng hóa, dịch vụ nào thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt tùy thuộc vào chính sách điều tiết của từng nước, xuất phát từ hoàn cảnh khách
quan, chính sách điều tiết, hướng dẫn sản xuất tiêu dùng của Nhà nước, trong từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
2, Khái niệm thực thi pháp luật thuế TTĐB
Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi hành
pháp luật. Theo nghĩa hẹp thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng cơ quan quản
lý nhà nước trong việc áp dụng, thi hành pháp luật. Nhưng cách hiểu đó là phiến diện
và chưa đầy đủ vì pháp luật là những chuẩn mực chung và bất cứ ai trong xã hội đều
phải tuân theo. Vì vậy thực thi pháp luật phải là hoạt động thực hiện và tuân theo pháp
luật của tất cả mọi người.
Đối với pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TTĐB nói riêng việc thực
thi pháp luật chia làm 2 nhóm: hoạt thu (quản lý thuế) và hoạt động đóng thuế. Tương
ứng với 2 nhóm đối tượng đó là cơ quan nhà nước (chủ thể quyền lực) và chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế (chủ thể mang nghĩa vụ).

3, Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế TTĐB
Pháp luật thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp nhà nước thực hiện
chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hóa dịch
3


vụ giúp nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu mặt hàng này. Vì vậy, khi thuế TTĐB
không được thực thi trên thực tế thì Nhà nước không thể xác định số lượng của các
mặt hàng bị đánh thuế TTĐB trên thị trường VN hiện nay, điều này sẽ dẫn tới hậu quả
là hành vi trốn thuế của các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế (nhất là đối với loại thuế có
mức thuế suất cao như thuế TTĐB), gây khó khăn cho chủ thể quản lý thuế.
Công bằng trong xã hội là điều mà bất kỳ quốc gia hay dân tộc nào đều hướng
tới. Nhưng với sự phát triển kinh tế xã hội việc chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp
nhân dân ngày càng cao. Những người có mức sống cao thường muốn sử dụng những
mặt hàng xa xỉ hơn so với mức sống của người khác như ô tô, máy bay, du thuyền…
Vì vậy thực thi pháp luật thuế TTĐB còn nhằm mục đích điều tiết thu nhập của các
tầng lớp trong dân cư có thu nhập cao bằng cách áp dụng mức thuế cao đối với những
mặt hàng đó. Mặt khác, những mặt hàng là đối tượng chịu thuế TTĐB còn là những
mặt hàng có hàng tuy không phải xa xỉ nhưng có hại cho sức khỏe của người sử dụng
và những người xung quanh nên hạn chế sử dụng như rượu, bia, thuốc lá… Với mức
thuế suất cao, người tiêu dùng đôi khi phải bỏ qua hoặc hạn chế tới mức thấp nhất
việc sử dụng hàng hóa chịu thuế TTĐB vì không đủ khả năng chi trả hoặc cân nhắc về
giá trị mang lại và giá trị bỏ ra. Như vậy, việc thực thi thuế TTĐB còn có vai trò
hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
Cũng như các loại thuế khác, thuế TTĐB tạo nguồn thu cho NSNN. Việc thực
thi pháp luật thuế TTĐB còn có ý nghĩa trong việc đem lại nguồn thu ổn định cho
NSNN. Đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
II, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ
TTĐB
1, Yếu tố khách quan

1.1, Yếu tố kinh tế
Ở nước ta, thuế TTĐB được Quốc Hội khóa IX ban hành Luật Thuế TTĐB và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó
4


những lần sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2005. Năm 2008, Luật thuế
TTĐB (sửa đổi) được trình Quốc Hội thông qua vào tháng 11/2008, có hiệu lực thi
hành từ 1/4/2009. Như vậy, nhìn chung khung pháp lý cho thuế TTĐB xuất hiện
muộn hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nói chung nền kinh tế Việt Nam phát triển muộn hơn so với nhiều nước. Trước
đây, khái niệm hàng hóa đặc biệt còn khá xa lạ. Đối với thuế hàng hóa (được xem là
tiền thân của thuế TTĐB) được quy định tại Quyết nghị 487 – NQ/QHK4 quy định
còn mang tính liệt kê, những kinh doanh thiết yếu do lúc đó kinh tế Việt Nam còn
mang tính bao cấp, những kinh doanh ngoài Nhà nước đều không được khuyền khích.
Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường Nhà nước chỉ đánh thuế TTĐB vào những
mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng nhằm khuyền khích phát triển kinh tế xã hội,
bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội. Cùng với sự phát
triển đi lên của nền kinh tế Việt Nam các mặt hàng bị đánh thuế liên tục được điều
chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế mới.
Các yếu tố kinh tế thay đổi làm cho hành vi thực thi pháp luật thuế TTĐB cũng
thay đổi. Khi các yếu tối kinh tế thay đổi sẽ có tác động tới việc thực hiện thuế TTĐB.
Ví dụ: có nhiều loại mặt hàng, dịch vụ tương tự những mặt hàng bị đánh thuế TTĐB
nhưng pháp luật chưa quy định, nên các doanh nghiệp sẽ trốn thuế bằng cách áp
dụng các hàng hóa, dịch vụ mới này. Mặt khác, các mặt hàng được xem là xa xỉ như ô
tô dưới 24 chỗ sẽ không phải là đối tượng của thuế TTĐB khi kinh tế tăng lên, đời
sống cũng như cơ sở hạn tầng ở Việt Nam ngày càng được nâng cao.
1.2, Văn hóa – giáo dục
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có pháp luật để đảm bảo trật tự xã

hội. Nhưng văn hóa để thực thi pháp luật ở mỗi quốc gia thì không như nhau. Pháp
luật nói chung và pháp luật thuế TTĐB nói riêng luôn có một hệ thống pháp chế để
đảm bảo thi hành, nhưng hoạt động của các cơ quan công quyền nếu không có văn
hóa, không tôn trọng pháp luật thì việc thực thi pháp luật chắc chắn không đúng. Bên
cạnh đó, nếu các chủ thể quyền lực này đã có văn hóa, ý thức thực thi đúng pháp luật
5


nhưng các chủ thể có nghĩa vụ không có văn hóa và ý thức tôn trọng ý thức thực thi
thuế sẽ dẫn tới hành vi trốn thuế, để thu được lợi nhuận cao hơn. Hành vi trốn thuế
tiêu thụ đặc biệt đồng nghĩa với không thực thi thuế đối với một số mặt hàng nhất
định, cơ quan có quyền lực đôi khi không thể tìm ra do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Văn hóa bắt nguồn từ việc giáo dục, giáo dục ở đây mang ý nghĩa rộng tức là
giáo dục ý thức của người dân ở gia đình, nhà trường và cả xã hội. Đối với chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế cần giáo dục họ nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và muốn làm được
điều đó thì trước hết cần giáo dục nhóm chủ thể mang quyền lực được vai trò của thuế
TTĐB, giáo dục sự tôn trọng một cách thực sự chứ không phải là nỗi khiếp sợ về các
chế tài xử lý.
1.3, Hội nhập quốc tế
Trong xu hướng phát triển toàn cầu, Việt Nam đã gia nhập rất nhiều sân chơi
chung của quốc tế. Trong đó, Việt Nam ra nhập WTO (Tổ chứ thương mại thế giới).
Bên cạnh những lợi ích đạt được như bình đẳng với các nước lớn hơn, được bảo vệ
quyền lợi khi bị xâm phạm, việc ra nhập WTO cũng đặt ra đối với Việt Nam những
thách thức và khó khăn mới trong việc thực thi pháp luật đang tồn tại. Đặc biệt với
thuế TTĐB, Việt Nam đã có những hoạt động cụ thể như sau:
Để thực thi việc cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế
đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước (2004- 2005), thuốc lá,
bia hơi (2006 – 2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Một mặt, bảo đảm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa
hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc của WTO.

Mặt khác, đã hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh mặt
hàng thuốc lá, bia hơi khi phải thực hiện các cam kết hội nhập, giúp các doanh nghiệp
có thời hạn phục hồi và ổn định sản xuất, kinh doanh.
Đối với mặt hàng rượu: Theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập tổ
chức thương mại thế giới – WTO (tức từ năm 2010), tại Việt Nam tất cả các loại rượu

6


được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối
tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm.
Đối với mặt hàng bia: Tương tự như rượu, theo cam kết, trong vòng 3 năm kể
từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm (%) chúng
đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì.
Vì vậy, việc thực thi pháp luật thuế TTĐB năm 2005 không còn phù hợp nữa.
Và Việt Nam đã có những điều chỉnh cần thiết để việc thực thi luật thuế TTĐB không
vấp phải sự phản đối của thế giới bằng cách sửa đổi Luật thuế TTĐB năm 2008 để
phù hợp với hoàn cảnh mới, đảm bảo thực thi diễn ra phù hợp trong sân chơi chung
toàn thế giới.
2, Yếu tố từ các cơ quan nhà nước
Dưới các tác động của kinh tế xã hội nêu trên, các cơ quan nhà nước sẽ là
người quyết định phương hướng thực thi thuế TTĐB. Nếu có các chủ trương và
phương hướng phù hợp sẽ góp phần tích cực tới việc thực thi pháp luật thuế TTĐB
trên thực tế. Và ngược lại, cũng có thể làm cho việc thực thi thuế khó được thực hiện
và nếu được thực hiện cũng sẽ gặp phải sự phản đối lớn trong xã hội, dẫn tới việc
không thực thi được hoặc thực thi không đúng, không đủ.
2.1, Chính sách
2.1.1, Đối tượng chịu thuế
Danh mục các hàng hóa là đối tượng áp dụng thuế TTĐB 2005 ở Việt Nam chỉ
đánh vào 8 nhóm hàng hóa và 5 nhóm dịch vụ. Con số này ít hơn một số nước trong

khu vực như: Ở Thái Lan, thuế TTĐB đánh vào 15 nhóm hàng, ở Indonesia áp dụng
cho 37 nhóm hàng. Như vậy, nhìn vào phương diện số mặt hàng thì việc thực thi thuế
TTĐB của Việt Nam có vẻ đơn giản hơn. Nhưng trong quá trình thực thi, tổng kết của
chính phủ việc thực hiện luật thuế TTĐB 2005 cho thấy đã tồn tại nhiều bất cập dân
xđến việc khó thực thi và bỏ sót nhiều mặt hàng. Ví dụ: Tàu bay, du thuyền vì giá trị
của nó lớn hơn ô tô mà lại khoogn bị đánh thuế gây tâm lý ức chế cho những người
mua ô tô. Hay cùng là máy chơi điện tử Jackpot thuộc đối tượng chịu thuế TĐB.
7


Nhưng trong thực tế, ngoài chủng loại máy Jockpot còn có các loại máy slot
machines khác cũng đang được sử dụng cho các trò chơi điện tử có thưởng. Vì vậy
nếu chỉ quy định máy Jackpot thuộc đối tượng chịu thuế thì không bao quát được tất
cả các loại trò chơi điện tử có thưởng khác. Điều này sẽ dẫn tới việc khi thực thi các
doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử sẽ sử dụng máy slot nhằm không phải nộp
thuế TTĐB...
Vì vậy, luật thuế TTĐB 2008 đã quy định thêm một số mặt hàng là đối tượng
áp thuế TTĐB. Bao gồm 10 nhóm hàng hóa và 5 nhóm dịch vụ. Cụ thể như sau:
- Đối với hàng hóa:
a, Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai,
ngửi, ngậm;
b, Rượu
c, Bia;
d, Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai
hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở
hàng;
đ, Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm3;
e, Tàu bay, du thuyền;
g, Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component) và
các chế phẩm khác để pha chế xăng;

h, Điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i, Bài lá
k, Vàng mã, hàng mã.
- Đối với dịch vụ:
a, Kinh doanh vũ trường
b, Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c, Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi
bằng máy giắc-pót (Jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự;
8


d, Kinh doanh đặt cược;
đ, Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e, Kinh doanh xổ số.
2.1.2, Thuế suất
Thuế suất đối với các hàng hóa bị áp dụng thuế TTĐB là cao từ 10-70%. Trong
đó mặt hàng bị đánh thuế cao nhất là vàng mã, hàng mã 70%. Trước đây mức thuế
suất cao nhất 100% năm 1998, 80% năm 2003, 75% năm 2005. Như vậy, mức thuế
suất thuế TTĐB đang giảm dần, điều này góp phần quan trọng trong việc thực thi
trong thực tế. Một mặt nó phù hợp với xu hướng hội nhập thế giới của Việt Nam. Mặt
khác, nhận được ủng hộ của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài dẫn
đến việc luật được tôn trọng hơn và ý thức tuân theo pháp luật thuế TTĐB, giúp việc
thực thi thuế TTĐB diễn ra nhanh chóng và hạn chế được hành vi trốn thuế. Nhưng
mức thuế suất vẫn phải đảm bảo được mục đích hướng dẫn tiêu dùng mà Nhà nước đã
đề ra. Cân bằng lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân.
2.1.3, Phương pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế TTĐB 2008 được quy định tại Điều 6 Luật thuế TTĐB:
“6. Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi hoặc tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho
là giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương
tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.

Gía tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều này
bao gồm cả khoản thu thêm, được thu (nếu có) mà cơ sỏ kinh doanh được hưởng.
Gía tính thuế được tính bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có
doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng nhà nước Việt
Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.
Chính Phủ quy định cụ thể Điều này”
Nghị định 26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 về quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật thuế TTĐB quy định chi tiết việc tính thuế TTĐB như sau:
9


“1, Đối với hàng hóa sản xuất trong nước, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được
xác định như sau:
Gía bán chưa có thuế giá trị gia tăng
Gía tính thuế tiêu thụ đặc biệt =
1+ thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
Trong đó, giá bán chưa có thuế GTGT được xác định theo quy định của pháp
luật về thuế GTGT...
2, Đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được xác định như
sau:
Gía tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Gía tính thuế nhập khẩu + Thuế nhập khẩu...
3, Đối với hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, giá tính thuế không loại trừ giá
trị vở bao bì, vỏ chai...
4, Đối với hàng hóa gia công thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán
hàng hóa của cơ sở gia công bán ra hoặc giá bán của sản phẩm cùng loại hoặc tương
đương tại thời điểm bán.
5, Đối với hàng hóa sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh giữa cơ sở sản
xuất và cơ sở sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) hàng hóa, công nghệ sản xuất thì giá
bán tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán ra của cơ sở sở hữu thương hiệu hàng hóa,

công nghệ sản xuất.
6, Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm, giá tính thuế tiêu
thụ đặc biệt là giá bán của hàng hóa bán theo phương thức trả tiền một lần, không
bao gồm khoản lãi trả gớp, lãi trả chậm.
7, Đối với dịch vụ, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá cung ứng dịch vụ của
cơ sở kinh doanh dịch vụ bán ra...
8, Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho,
khuyến mại giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng
hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động trao đổi,
tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, khuyến mại các hàng hóa, dịch vụ này.
10


9, Gía tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều
này bao gồm cả khoản thu thêm tính giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ (nếu có)
mà cơ sở sản xuất, kinh doanh được hưởng...”
Có thể xem đây là hành lang pháp lý quan trọng nhất để tiến hành việc thực thi
pháp luật thuế TTĐB. Đây cũng là một điểm rất tiến bộ của luật thuế TTĐB 2008.
Các cơ quan quyền lực sẽ dựa vào quy định này để thực thi luật chính xác, tránh việc
bỏ sót các trường hợp hoặc việc không tuân thủ của các doanh nghiệp và người tiêu
dùng vì lý do không quy định cụ thể nên có cách áp dụng khác nhau.
2.1.4, Chế độ hoàn thuế, giảm thuế, khấu trừ thuế TTĐB
Trong luật Thuế TTĐB không còn tồn tại khái niệm miễn thuế và xuất hiện
thêm khái niệm khấu trừ thuế. Miễn thuế TTĐB là điều không nên có bởi vì người
nộp thuế thực sự là người dân, mà khi họ đã chấp nhận sử dụng các hàng hóa, dịch vụ
thuộc danh mục phải chịu thuế TTĐB (là những hàng hóa Nhà nước không khuyến
khích và không thiết yếu trong cuộc sống) là họ đã chấp nhận và có khả năng bỏ ra
khoản thuế TTĐB vì vậy không cần thiết phải miễn thuế TTĐB. Có thể áp dụng giảm
thuế để góp phần tạo điều kiện giải quyết khó khăn trước mắt của doanh nghiệp.
Khấu trừ thuế là hoạt động không phải tới bây giờ mới áp dụng vì đây là

nguyên tắc “đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế
phải chịu một loại thuế nhiều lần”. Hoàn thuế cũng để đảm bảo nguyên tắc này nhưng
phần lớn đối với hàng xuất khẩu hoặc khi chia cắt, giải thể, phá sản... Như vậy chưa là
chưa tính tới các donah nghiệp sản xuất hàng hóa TTĐB trong nước, cần tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp này có thêm vốn để sản xuất, kinh doanh.
2.1.5, Chế độ hóa đơn chứng từ
Hóa đơn, chứng từ mua bán, nhập khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ là những
yếu tố quan trọng không chỉ đối với cơ sở kinh doanh hoạt động kế toán, kiểm toán
mà còn đối với cả Nhà nước trong việc xác định đúng, đủ nghĩa vụ thuế của cơ sở
kinh doanh đối với Ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong việc thực thi thuế TTĐB không
thể không kể tới việc giữ gìn hóa đơn, chứng từ. Đây là cơ sở để người nộp thuế báo
11


cáo về việc thực thi pháp luật của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý,
quản lý việc tuân theo pháp luật của người có nghĩa vụ nộp thuế và quản lý số thu cho
NSNN, tránh sự tùy tiện.
2.2, Phương pháp quản lý
Luật Quản lý thuế đã được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007
đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế như nghĩa vụ trách nhiệm thực hiện luật thuế
tiêu thụ đặc biệt (Điều 4 Chương 1); đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế (Điều
8, 9, 10, 11, 12, 14 và 15 Chương III); xử lý vi phạm, khen thưởng (Điều 17, 18, 19,
20 Chương V); khiếu nại, khởi kiện và thời hiệu (Điều 21, 22 Chương VI); Tổ chức
thực hiện (Điều 23, 24,25 Chương VI).
Như vậy, pháp luật thuế nói cung và pháp luật thuế TTĐB nói riêng đã có một
cơ chế giải quyết khá hoàn chỉnh, đồng bộ và thống nhất, được hướng dẫn khá đầy đủ
trong luật quản lý thuế 2007 và nghị định 85/2007/NĐ-CP của chính ohur ngày 25
tháng 5 năm 2007 quy định chi tiết một số điều của luật quản lý thuế. Điều này đã góp
phần tích cực cho việc hướng dẫn thi hành thuế tiêu thụ đặc biệt.
3, Yếu tố từ tâm lý người dân

Tâm lý của các cơ quan sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng
phải chịu thuế TTĐB: Do loại thuế này có mức thuế suất cao dẫn đến 2 tâm lý: thứ
nhất muốn trốn tránh để thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp mình; thứ
hai:Muốn giảm bớt thuế suất để giảm giá thành tạo sự cạnh tranh trên thị tường. Từ
tâm lý sẽ dẫn tới hành động cụ thể. Nếu hành vi trốn thuế xảy ra doanh nghiệp đó sẽ
bị xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc hình sự tùy vào mức vi phạm. Nhà nước
cũng nhận thấy ngoài những chế tài xử phạt, muốn pháp luật thuế TTĐB được thực thi
tốt cũng cần có sự tôn trọng thực sự từ phía các cơ quan này chứ không phải riêng chế
tài xử phạt. Vì vậy khi ban hành luật thuế TTĐB Nhà nước đã tham khảo ý kiến của
một số doanh nghiệp sản xuất hàng hóa là đối tượng bị áp dụng thuế TTĐB (Ví dụ:
các nhà máy sản xuất bia...) và có những chỉnh sửa phù hợp, điều này chứng tỏ sự tôn
trọng nhất định của Nhà nước đối với đối tượng phải nộp thuế.
12


Tâm lý người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là đối tượng phải chịu thuế TTĐB:
Thuế tiêu thụ đặc biệt là hai loại thuế gián thu vì vậy, người phải chịu thuế thực chất
là người tiêu dùng. Vậy hành vi thi hành thuế tiêu thụ đặc biệt được thực thi cụ thể
qua hành vi của mỗi người sử dụng hàng hóa, dịch vụ là đối tượng bị áp dụng thuế
TTĐB. Như đã nói ở trên, Nhà nước muốn điều tiết tiêu dùng sẽ có những lựa chọn cụ
thể. Vfa khi chấp nhận sử dụng các loại hàng hóa dịch vụ này đương nhiên họ phải
chuẩn bị tâm lý thực thi pháp luật về thuế TTĐB.
III, Thực trạng tình trạng thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt
1, Những thành tựu đạt được trong quá trình thực thi pháp luật thuế TTĐB
Việc thực thi pháp luật thuế TTĐB trên thực tế đã thu được nhiều thành tựu như
sau:
Nhà nước có những thay đổi phù hợp với các yếu tố khách quan, cân bằng lợi
ích giữa lợi ích của Nhà nước và cá nhân. Tạo khung pháp lý cơ bản để việc thi hành
thuế TTĐB được diễn ra thuận lợi, không gây bất lợi hoặc gây những cách hiểu khác
nhau dẫn tới cách áp dụng khác nhau.

Các doanh nghiệp chấp hành khá nghiêm chỉnh việc thực thi pháp luật thuế
TTĐB theo các quy định về trình tự kê khai, nộp thuế, tính thuế của pháp luật và việc
lưu, giữ các hóa đơn, chững từ cũng đưuọc các doanh nghiệp quan tâm một cách thích
đáng để làm căn cứ nộp thuế TTĐB, khấu trừ thuế TTĐB...
Thuế TTĐB mặc dù có diện đối tượng chịu thuế thu hẹp nhưng lại có thuế suất
cao hơn các loại thuế gián thu khác vì vậy Thuế TTĐB đem lại được cho NSNN
nguồn thu không nhỏ. Theo thống kê tỷ trọng số thu từ thuế TTĐB lớn thứ tư trong tỷ
trọng các số thu từ sắc thuế hiện hành.
Năm
Thuế

2001
6.230

TTĐB
Tỷ trọng

6,29

2004
12.609

2005
15.703

2006
17.478

2008
22.120


2009
22.741

7,31

7,17

9,2

11

%

13


2, Những hạn chế còn tồn tại trong công tác thực thi pháp luật thuế TTĐB
Tồn tại lớn nhất của việc thực thi thuế TTĐB đó là hành vi trốn thuế của các
đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng bị áp dụng thuế TTĐB.
Các đơn vị tìm cách trốn thuế... Việc ấn định thuế được quy định tại Điều 25 Nghị
định 85/2007/NĐ-CP có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thuế TTĐB mà doanh
nghiệp, cá nhân phải thực hiện. Điều này dẫn tới hậu quả là nếu tồn tại sự “hợp tác
ngầm” giữa cán bộ thu thuế và người nộp thuế sẽ làm thất thoát số thuế TTĐB phải
nộp mà không bị xử lý.
Ý thức, văn hóa tôn trọng pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý thuế. Đây là đội
ngũ thay mặt cho Nhà nước thực thi pháp luật thuế TTĐB ử khu, kiểm tra việc thi
hành của người nộp thuế TTĐB. Vì vậy, ý thức tôn trọng pháp luật của họ sẽ quyết
định phần quan trọng tới việc thực thi pháp luật. Hành vi trốn thuế dù tinh vi đến đâu
nếu thực hiện kiểm tra một cách triệt để, công minh thì đều có thể tìm ra.

Các văn bản pháp luật gần như không có chế tài xử lý thích đáng đối với đội
ngũ cán bộ thuế khi có vi phạm. Đối với những cán bộ đã vi phạm tùy vào mức độ vi
phạm mà có mức xử lý phù hợp. Nếu không có các quy định rõ ràng sẽ dẫn tới việc
tiếp tay cho hoạt động trốn thuế hoặc chính bản thân cán bộ sẽ gợi ý cho đối tượng
nộp thuế có quen biết cách trốn thuế.
IV, Một số ý kiến để hoàn thiện thực thi pháp luật thuế TTĐB
Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục một
cách sau rộng tới tất cả các tầng lớp. Thuế TTĐB là loại thuế mà nhiều người đã nộp
mà không biết. Không phải riêng các đối tượng có thu nhập cao mới là người sử dụng
các hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của thuế TTĐB. Có những đối tượng là người dân
bình thường khi sử dụng hàng mã, vàng mã, thuốc lá... Họ không biết mình đang phải
noppj thuế TTĐB và như vậy việc hướng dẫn và điều tiết chi tiết của Nhà nước.
Cần xác định mức ấn đinh thuế TTĐB tối thiểu có thể sẽ cao hơn mức cần phải
nộp thực tế của doanh nghiệp những phải có biện pháp mạnh thì mới có thể răn đe và

14


hạn chế sự vi phạm. Tránh hành vi “thỏa thuận ngầm” giữa cán bộ thuế và đối tượng
nộp thuế về mức ấn định thấp.
Nâng cao trình độ, trách nhiệm của đội ngũ quản lý thuế: muốn thực thi được
thuế TTĐB tốt thì trước hết cần có sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ. Các yếu kém
của đội ngũ cán bộ có thể do 2 lý do: Thứ nhất là sự yếu kém trong trình độ, thứ hai là
sự yếu kém trong quản lý. Đối với yếu kém trong trình độ thì cần có chính scahs để
đào tạo lại những cán bộ đã làm việc lâu năm, tránh việc hiểu sai, áp dụng sai. Và tạo
nguồn cán bộ mới phù hợp với yêu cầu. Đối với yếu kém trong quản lý thì cần có chế
tài xử lý nghiêm khắc để răn đe và cần quy định thêm hệ thống cán bộ thanh tra các bộ
thuế.

C, KẾT LUẬN

Khi phân tích được các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi thuế TTĐB sẽ xác
định được hướng thay đổi để phù hợp để thực thi pháp luật thuế TTĐB một cách tốt
hơn. Cần tahy đổi để phù hợp với các yếu tố khách quan và tạo ra khuôn khổ pháp lý
phù hợp để mỗi người thực hiện công tác thực thi thuế TTĐB tốt hơn. Đảm bảo cân
bằng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích nhà nước.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, trường ĐH Luật Hà Nội, nxb Công an nhân
dân
2, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008
3, Nghị định 85/2007/NĐ- CP
4,

16



×