BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------------------------
NGUYỄN THỊ TÂM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An - 2015
-1-
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------------------------
NGUYỄN THỊ TÂM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: LL&PPDH Bộ môn giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN
Nghệ An - 2015
-2-
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phòng
Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Vinh, các Thầy Cô đã tham gia quản lý,
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khoá học.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn, người hướng dẫn
khoa học đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và làm
luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, cán bộ quản lý, giáo viên và
sinh viên trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh, những người thân trong gia đình và
bạn bè thường xuyên động viên, khích lệ và giúp đỡ về mọi mặt trong quá trình
học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, song chắc chắn luận văn tốt nghiệp của tôi
cũng không tránh khỏi những thiếu sót, xin được giúp đỡ và chỉ dẫn thêm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Tâm
-3MỤC LỤC
Trang
phụ
bìa
...........................................................................................................................
1
Lời
cảm
ơn
...........................................................................................................................
2
Mục
lục
...........................................................................................................................
3
Danh
mục
các
từ
viết
tắt
...........................................................................................................................
5
Danh
mục
bảng
biểu
...........................................................................................................................
6
-4-
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH:
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CBYT
:
Cán bộ y tế
CĐ
:
Cao đẳng
ĐĐNN
:
Đạo đức nghề nghiệp
UBND
:
Ủy ban nhân dân
XHCH
:
Xã hội chủ nghĩa
-5DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Động cơ thi vào trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh
...........................................................................................................................
49
Bảng 2.2: Thái độ của sinh viên đối với ngành y
...........................................................................................................................
50
Bảng 2.3: Nhận thức của sinh viên về các tiêu chuẩn, phẩm chất cần thiết
của
người
thầy
thuốc
...........................................................................................................................
52
Bảng 2.4: Kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên năm học 2013 – 2014
55
Bảng 2.5: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng
của
giáo
dục
đạo
đức
nghề
nghiệp
...........................................................................................................................
56
Bảng 2.6: Vai trò của các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên
...........................................................................................................................
57
Bảng 2.7: Hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên
...........................................................................................................................
61
-6A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng cho sinh
viên là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay. Thực hiện tốt giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sẽ tạo cho
họ khả năng rèn luyện ý chí và bản lĩnh chính trị, bản lĩnh khoa học, bản lĩnh
cuộc sống. Khi thấm nhuần hệ thống giá trị đạo đức nghề nghiệp và đạo đức nói
chung, sinh viên sẽ hiểu biết tốt hơn về những giá trị truyền thống của dân tộc,
biết tôn trọng lao động của mình và của người khác. Từ đó, họ có ý chí, hoài bão
cống hiến nhiều hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và xã hội. Đây
chính là động lực để sinh viên vươn tới những hoạt động cao đẹp, góp phần xây
dựng nhân cách con người mới Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống,
thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,
nhất là trong thế hệ trẻ.
Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều thay đổi căn bản. Những
thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi
cho sinh viên được rèn luyện, phấn đấu vươn lên và để khẳng định mình. Bên
cạnh những chuyển biến tích cực, góp phần hình thành những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp, thì chính sự tác động mạnh mẽ từ mặt trái của cơ chế thị trường đã
và đang làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến lối
sống của thanh niên nói chung và sinh viên các trường đại học, cao đẳng nước ta
nói riêng.
Đối với sinh viên trong các trường y, vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp
lại càng trở nên bức thiết. Là một ngành học mang tính đặc thù đòi hỏi sinh viên
phải được trang bị ngoài kiến thức chuyên môn còn cần phải có y đức - một giá
trị đạo đức nghề nghiệp không thể thiếu trong quá trình công tác về sau. Trong
những năm vừa qua, một trong những nguyên nhân làm giảm sút chất lượng các
-7dịch vụ y tế ở Việt Nam đó là do đội ngũ cán bộ y tế chưa thực sự làm tròn trách
nhiệm “lương y như từ mẫu”, thậm chí có một bộ phận không nhỏ vi phạm y
đức, nhũng nhiễu, vòi vĩnh người bệnh. Thực trạng này đã gây nên nhiều bức
xúc trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến uy tín đội ngũ cán bộ ngành y tế.
Ở Hà Tĩnh, trong thời gian qua, việc thực hiện công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên ngành y đã được chú trọng nhưng do nhiều nguyên nhân khác
nhau nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, trước yêu cầu đổi mới chất lượng ngành y
tế của tỉnh Hà Tĩnh thì việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường y là hết sức
cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh trong giai đoạn
hiện nay" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy
học bộ môn Giáo dục chính trị.
Công tác giáo dục đạo đức trong thời gian qua đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu và có nhiều công trình được công bố các thể loại:
- Sách
+ “Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của cố Bộ
trưởng Bộ Y tế Đỗ Nguyên Phương (NXB Y học, Hà Nội, 1996). Cuốn sách nói
về vấn đề y đức, y đạo và đòi hỏi cấp bách phải nâng cao y đức của người thầy
thuốc trong giai đoạn hiện nay.
+ “Giáo dục đaọ đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Ban tư tưởng - Văn hóa Trung ương
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004). Cuốn sách này đã đề cập một cách hệ
thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đã khái quát một cách cô đọng những
chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những nguyên tắc
phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
-8+ “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của TS Trịnh Duy Huy (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009).
Công trình này tác giả đã tập trung xem xét tác động của kinh tế thị trường đối
với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay và thực trạng đạo đức ở nước ta, từ đó
đề xuất một số giải pháp góp phần hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường
đối với đời sống đạo đức xã hội.
+ “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Thế
Kiệt (NXB Chính trị quốc gia, 2011). Cuốn sách đề cập đến 2 vấn đề lớn. Một
là, nguồn gốc bản chất và nội dung đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Hai là,
đạo đức người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay - Thực trạng và giải pháp (dưới
ánh sáng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh).
+ “Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay” của TS Nguyễn Thị Thọ
(NXB Chính trị quốc gia, 2011). Trong cuốn sách này, tác giả đề cập đến 3 vấn
đề lớn. Một là, một số vấn đề lý luận về đạo đức gia đình. Hai là, kinh tế thị
trường và sự tác động của nó đối với đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay. Ba là,
một số giải pháp định hướng đối với việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta
hiện nay.
- Luận án
+ Nguyễn Anh Tuấn trong “Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (Luận
án tiến sỹ Giáo dục học, Đại học sư phạm Hà Nội) đã phân tích thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, Đại học
Hùng Vương - Phú Thọ, Cao đẳng sư phạm Lào Cai trong nền kinh tế thị trường
và đưa ra những biện pháp nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trong
điều kiện nền kinh tế thị trường.
+ Phan Thị Mai với công trình “Tìm hiểu thực trạng định hướng nghề
nghiệp của sinh viên trường Đại học Cần Thơ” (Luận án Tiến sỹ, Đại học sư
-9phạm Hà Nội) đã phân tích thực trạng định hướng nghề nghiệp cho sinh viên
trường Đại học Cần Thơ và đưa ra những biện pháp nhằm định hướng tốt về
nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Cần Thơ trong thời gian gần đây.
- Tạp chí
+ Ngô Hướng trong bài “Đạo đức nghề nghiệp sao không được dạy tại các
Nhà trường?” đăng trên báo Sài Gòn giải phóng, số ra ngày 27/10/2003 đã
khẳng định cần phải đưa giáo dục đạo đức trở thành một môn học được giảng
dạy trong các nhà trường.
+ Trong bài “Giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học nghề một vấn
đề cơ bản và cấp bách” (Hội thảo về những vấn đề giáo dục và tâm lý của học
sinh, sinh viên, NXB Nông nghiệp, Hà Nội) Mạc Văn Trang đã khẳng định việc
giáo dục thái độ nghề nghiệp cho học sinh học nghề là một vấn đề cơ bản và cấp
bách. Tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm giáo dục thái độ nghề
nghiệp cho học sinh học nghề.
- Luận văn
Trần Như Tiến, Giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật quân sự cho học viên
trường Cao đẳng kỹ thuật Vin Hem Pích - thực trạng và giải pháp (Luận văn
Thạc sỹ Khoa học giáo dục, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) đã phân
tích thực trạng việc giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật quân sự và đưa ra
những giải pháp nhằm giáo dục giá trị nghề nghiệp kỹ thuật quân sự cho học
viện trường Cao đẳng kỹ thuật Vin Hem Pích.
Những công trình và bài viết nêu trên không chỉ đã đề cập đến vấn đề đạo
đức và giáo dục đạo đức trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà còn
góp phần hướng vào việc xây dựng và phát triển đạo đức ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên trường y trong giai đoạn hiện
nay là vấn đề đang biến động phức tạp, vì thế cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
- 10 2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm góp phần
nâng cao chất lượng của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ tầm quan trọng, nội dung của công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài không nghiên cứu vấn đề giáo dục nói chung mà chỉ đi sâu nghiên
cứu vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngành y tế. Cụ thể, đề
tài nghiên cứu về chất lượng, nội dung, hiệu quả và phương pháp của công tác
giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Về không gian và thời gian đề tài được triển khai nghiên cứu trong phạm vi
Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và
- 11 giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích và tổng
hợp. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác: So sánh, thống kê,
khảo sát thực tế, xã hội học…để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đặt ra.
6. Giả thiết khoa học
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở giả thiết cho rằng nếu phân tích đúng
thực trạng và đề ra được hệ thống các giải pháp có tính khả thi về nâng cao được
chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.
7. Kết cấu luận văn
Để đạt các mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài nghiên cứu những nội
dung chủ yếu sau đây: Ngoài phần mục lục, kết luận và tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên Trường Cao đẳng Y tế.
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay.
- 12 B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là nhân tố cốt lõi trong nhân cách mỗi con người. Tài và đức là hai
mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân. Cùng quan điểm, ở những góc độ khác
nhau của đời sống, cách nhìn nhận đạo đức cũng khác nhau. Tuy nhiên, ở mức
độ khái quát nhất chúng ta có thể hiểu: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh, đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội”[24, tr. 8].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan
hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội. Như vậy, đạo đức là hệ thống
các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với
con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân
mình. Hay đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ
với tự nhiên.
Đạo đức là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn
đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử dụng trong 3 phạm vi:
lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn
- 13 được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn,
triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức xã hội có chức năng giáo dục, điều chỉnh và nhận thức. Đạo đức
chỉ xuất hiện nơi nào có mối quan hệ (quan hệ giữa cá nhân - cá nhân, cá nhân tập thể...), hành vi điều chỉnh các mối quan hệ luôn tự giác, mối quan hệ của đạo
đức là mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan của con người nhưng đạo đức
bản thân có ý nghĩa nhân sinh quan. Đó cũng chính là quy luật của đạo đức và
nội dung của đạo đức do tồn tại xã hội quyết định. Bản chất của đạo đức xã hội
là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là sự điều chỉnh mối quan hệ xã hội,
là biện pháp giải quyết và khắc phục các mâu thuẫn xã hội làm cho xã hội phát
triển, tiến bộ.
1.1.2. Khái niệm nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp
- Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một thuật ngữ dùng để chỉ một hình thức lao động trong
xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng lao động của mình để
tạo ra sản phẩm vật chất, tinh thần đóng góp cho xã hội. Qua hoạt động nghề mà
duy trì, phát triển đời sống của cá nhân. Như vậy, “Nghề nghiệp là một công
việc mà người ta thực hiện trong suốt cả cuộc đời” [53, tr. 698]. Ví dụ: Nghề
dạy học, nghề y, nghề kinh doanh…nghề nghiệp không chỉ đảm bảo cuộc sống
mà còn tôn vinh con người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Ví dụ:
Trong nghề Thầy thuốc có rất nhiều y, bác sỹ được nhân dân và xã hội tôn vinh
như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông…đến những thầy thuốc nổi tiếng thời hiện
đại như Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Hoàng Đắc Trí…F.Ăngghen đã từng
viết: “Trong thực tế mỗi giai cấp và đến cả mỗi nghề nghiệp đều có luân lý riêng
của nó” [10, tr. 298 - 299].
Xuất phát từ thực tế việc lựa chọn nghề nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả xã hội. Nó không chỉ đơn
- 14 thuần là sự lựa chọn một công việc cụ thể nào đó để nuôi sống bản thân, đóng góp
cho gia đình và xã hội, mà đó là sự lưạ chọn một cách sống, lối sống cho tương
lai. Tuy nhiên, không phải tất cả thanh niên, sinh viên đều lựa chọn đúng đắn
nghề nghiệp. Về phía cá nhân phải có sự lựa chọn một cách tự giác, có suy nghĩ
chín chắn. Về phía xã hội cần có sự hướng dẫn, định hướng nghề nghiệp trên cơ
sở kết hợp các yếu tố: Nguyện vọng, năng lực của cá nhân; những đòi hỏi của
nghề nghiệp; những yêu cầu của xã hội đối với các loại hình nghề nghiệp.
Đào tạo nghề nghiệp được hiểu là toàn bộ các quá trình học tập của con
người và những tích lũy của cá nhân về kiến thức, kỹ xảo và các đặc điểm tâm
lý. Ngoài ra, đào tạo nghề nghiệp còn được hiểu là toàn bộ các hoạt động, được
triển khai theo cá nhân hay tập thể, một cách ngẫu nhiên hay có tổ chức. Đào tạo
nghề nghiệp được tiến hành thông qua các hình thức sau: Dạy nghề, hoàn thiện
nghề nghiệp, chuyên môn hóa nghề nghiệp, đào tạo bằng kinh nghiệm thông tin
nghề nghiệp. Ba hình thức đầu được xem là các giai đoạn của việc đào tạo nghề
nghiệp chính quy. Hai hình thức sau có thể gặp cả trong việc đào tạo nghề
nghiệp chính quy và trong đào tạo nghề nghiệp phi chính quy. Trong các hình
thức trên, dạy nghề là quan trọng nhất. Dạy nghề là hoạt động trang bị cho người
học kiến thức tối thiểu, các kỹ năng, kỹ xảo và những đặc điểm nhân cách để
thực hiện một loại hình nghề nghiệp nhất định.
- Đạo đức nghề nghiệp
Hoạt động nghề nghiệp là phương thức sống chủ yếu nhất của con người.
Vì vậy, ĐĐNN chính là một phần quan trọng trong đạo đức xã hội. Để sống, con
người phải lao động và để lao động có kết quả tốt nhất, con người phải tuân thủ
ĐĐNN. Sự phát triển kinh tế xã hội ở bất kỳ thời đại nào cũng phụ thuộc vào
phương thức sản xuất và đạo đức nghề nghiệp là nhân tố thúc đẩy. Tuy nhiên để
tự giác tuân thủ đạo đức nghề nghiệp trong học tập, lao động, sản xuất, trước hết
con người phải có nền tảng về đạo đức xã hội nói chung, tích cực, chủ động vận
- 15 dụng chuẩn mực đạo đức vào mối quan hệ nghề nghiệp, nâng cao giá trị đạo đức
và việc thực thiện và tuân thủ đạo đức sẽ gia tăng lợi ích kinh tế.
Trên cơ sở vấn đề đạo đức chung, do đặc thù của từng ngành với các vai
trò khác nhau trong đời sống xã hội hình thành nên khái niệm đạo đức nghề
nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ
thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu
đạo đức đặc biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp
nào đó. Là tổng hợp của các quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của một nghề
nghiệp trong đời sống, nhờ đó mà mọi thành viên của nghề nghiệp đó tự giác
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội,...Tuân
theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao
chất lượng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức cá nhân
trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có
những đặc thù và yêu cầu riêng biệt.
Trong xã hội có bao nhiêu nghề nghiệp thì có bấy nhiêu đạo đức nghề
nghiệp. Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, đạo đức nghề nghiệp đều là đạo đức
của xã hội, hoặc giai cấp đương thời, biểu hiện đặc thù và quán triệt cụ thể trong
các hoạt động nghề nghiệp. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, mỗi thành viên của xã hội phải lấy: yêu công việc, yêu nghề nghiệp, làm
việc có tâm huyết, hết lòng phục vụ nhân dân, cống hiến cho đất nước... làm nội
dung chủ yếu của đạo đức nghề nghiệp. Đó là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
chung mà tất cả các ngành nghề đều phải tuân theo. Linh hồn của đạo đức nghề
nghiệp xã hội chủ nghĩa đối với người thầy giáo là phục vụ nhân dân, nó quán
triệt trong tất cả các mặt của đạo đức nghề nghiệp và thông qua thái độ nghề
nghiệp và hành vi nghề nghiệp như yêu nghề, mến trẻ, có lương tâm trách nhiệm
với nghề…Trong kinh doanh, lợi nhuận là yếu tố quan trọng nhất, nhưng nếu bỏ
- 16 quên yếu tố đạo đức, nếu không quan tâm quyền lợi khách hàng như làm hàng
giả, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng,....được đưa ra thị trường đều nhận
được sự phản ứng mạnh mẽ từ phía khách hàng và bị khách hàng tẩy chay.
- Khái niệm y đức
Trong ngành y tế, một ngành trực tiếp làm công việc cứu người, hơn bất cứ
ngành nghề nào khác, phải đặt yếu tố đạo đức nghề nghiệp lên trên hết. Vì đạo
đức ngành y là một bộ phận của hệ thống đạo đức xã hội. Đạo đức ngành y
không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định kết quả của dịch vụ y tế,
mà còn góp phần tạo nên kiến trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức của ngành y,
hay nói cách khác, y đức là những tiêu chuẩn, quy tắc trong đời sống xã hội đặt
ra nhằm điều chỉnh các hành vi ứng xử và quan hệ của người thầy thuốc có liên
quan đến nghề nghiệp của mình. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội.
Y đức là thước đo lương tâm, trách nhiệm, bốn phận của người thầy thuốc.
Y đức là mối quan hệ đặc biệt giữa thầy thuốc và bệnh nhân, nên nguyên tắc đạo
đức có một giá trị đặc biệt quan trọng trong việc hành nghề chữa bệnh. Y đức là
đạo đức nghề nghiệp của tất cả những người làm công tác y tế và y học. Y đức
không phải là pháp luật mà là những quy ước và nguyên tắc được xã hội thừa
nhận, đồng thời được các thành viên trong nghề chấp nhận và thực hiện như một
kim chỉ nam trong suốt quá trình hành nghề của mình.
Y đức là một bộ phận của đạo đức nghề nghiệp, là yêu cầu đặc biệt có liên
quan đến việc tiến hành các hoạt động đem lại sức khỏe cho con người. Bởi
nghề y là một nghề đặc biệt nên những đức tính cần và đủ cho nghề khác có thể
chưa đủ với người làm nghề y. Nghề y đòi hỏi trách nhiệm kép đối với người
hành nghề vừa phải giỏi chuyên môn (y nghiệp) vừa phải như mẹ hiền (y đức).
Tuy nhiên vì tính mạng, sức khoẻ của con người là quý giá nhất, nên chỉ dựa
vào dư luận xã hội, nghĩa là chỉ có y đức thôi chưa đủ, mà mỗi nhà nước, tuỳ
- 17 theo hoàn cảnh cụ thể và phong tục tập quán của đất nước, dân tộc mình, đều
đưa một số điểm quan trọng của y đức vào luật và các văn bản dưới luật, quy
định bắt buộc cả thầy thuốc và bệnh nhân phải tuân thủ, người ta gọi đó là y đạo.
Như vậy, “Y đạo là y đức đã được thể chế hoá thành các quy định, bắt buộc mọi
người phải tuân thủ. Nói cách khác, y đạo là con đường của ngành y, là hành
lang pháp lý mà người hành nghề phải tuân thủ” [20, tr.120]. Ví dụ các luật về y
tế như: Luật Bảo hiểm y tế, Luật khám chữa bệnh, Luật Dược, Luật hành nghề y
dược tư nhân...
Như vậy, nghề y là một nghề đặc biệt bởi vì nó mang một số đặc điểm
sau: Thứ nhất, tác động gần như đến tất cả mọi người trong xã hội, không kể
giai cấp, vị trí, giàu nghèo. Và tác động đến cuộc đời con người qua các giai
đoạn, từ khi bào thai cho đến khi mất. Thứ hai, người hành nghề thầy thuốc
có nhiều quyền lực, do nắm trong tay tính mạng bệnh nhân nên dễ có thể lạm
dụng quyền và dễ có cơ hội để lạm dụng. Thứ ba, biết nhiều bí mật về cuộc
sống của người khác. Thứ tư, dễ gây ra bệnh cho người khác. Thứ năm, kỹ
năng hành nghề không dễ kiểm soát. Thứ sáu, không có mẫu hình tốt duy nhất
của y đức, đôi lúc khó diễn tả dễ ngụy biện. Thứ bảy, chỉ có lương tâm và
người cùng hành nghề mới có thể kiểm soát được đạo đức nghề nghiệp [23,
tr.28].
Trong lịch sử y học Việt Nam, các bậc danh y đều cho rằng, y đức quan
trọng không kém gì y thuật. Trong số đó, chúng ta phải kể đến Tuệ Tĩnh (thế kỷ
XIV) và Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu Trác (1720 - 1791). Các ông không chỉ
là các bậc danh y, mà còn là những nhà tư tưởng lớn về y đức. Các ông rất chú
trọng xây dựng và truyền đạt y đức. Như Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu Trác,
trong suốt cuộc đời nghiên cứu, rèn luyện và phục vụ y học, ông luôn tự nhắc
nhở mình phải “tiến đức, tu nghiệp”. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn luyện cho
toàn thiện, toàn mỹ đạo đức của người hành nghề y. Tu nghiệp là hàng ngày phải
- 18 chăm chỉ học tập cho y thuật ngày càng giỏi. Kế thừa truyền thống y đức của
ông cha ta, tiếp thu tinh hoa y đức nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng việc trau dồi và rèn luyện y đức. Người đã nhiều lần gửi thư và trực tiếp
gặp, thăm các cơ sở y tế, bày tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phẩm
chất của người thầy thuốc. Người đã tặng cán bộ, nhân viên ngành y danh hiệu:
“Thầy thuốc như mẹ hiền”. Danh hiệu đó vừa là sự đánh giá cao của Người đối
với những đóng góp của ngành y, vừa là một yêu cầu của Người đối với mỗi cán
bộ y tế về y đức. Sở dĩ như vậy vì, nghề y là một nghề rất đặc biệt, liên quan
trực tiếp đến sức khoẻ và sinh mạng của con người.
Trong giai đoạn hiện nay bản chất đạo đức của người thầy thuốc có những
phẩm chất sau:
- Trước hết phải có đạo đức của một công dân XHCN. Đó là việc luôn coi
trọng trách nhiệm nghề nghiệp và đạo đức thầy thuốc, hai yếu tố này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau (vì trách nhiệm
của thấy thuốc trước người bệnh khiến cho họ không ngừng vươn lên đỉnh cao
của đạo đức y học và ngược lại vì nghề nghiệp mà người thầy thuốc không
ngừng học tập nâng cao tay nghề, nâng cao trách nhiệm...). Trách nhiệm và đạo
đức người thầy thuốc luôn hướng tới những điều kiện thuận lợi nhất cho sức
khoẻ người bệnh. Sức khoẻ người bệnh là trên hết bởi lẽ đạo đức y học có mục
đích cứu người, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu người thầy thuốc phải có tri
thức khoa học, nghệ thuật chữa bệnh và chuyên môn sâu.
- Phải có tấm lòng nhân ái đối với người bệnh. Lòng nhân ái của người
thầy thuốc XHCN xuất phát từ bản chất chế độ và trách nhiệm cao cả của thầy
thuốc trong chế độ XHCN. Thầy thuốc XHCN phải có quan hệ rộng với mọi
tầng lớp nhân dân, tận tuỵ, chu đáo trong quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân.
- 19 - Thầy thuốc XHCN vì mục đích trong sáng, hết lòng vì người bệnh,
không vụ lợi, sống có lý tưởng, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, không ngừng
nâng cao năng lực chuyên môn
Để xác định đạo đức nghề nghiệp, cần phân tích những phẩm chất nghề
nghiệp thể hiện trong các quan hệ xã hội của người thầy thuốc. Đạo đức nghề
nghiệp của người thầy thuốc có yêu cầu đặc biệt liên quan đến việc tiến hành các
hoạt động nhằm đem lại sức khoẻ cho mọi người và được thể hiện trong các mối
quan hệ với nhân dân, người bệnh, đồng nghiệp, với công tác khoa học kỹ thuật,
với pháp luật…Nó gồm các quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực của ngành y tế, nhờ
đó mà mọi thành viên trong ngành phải tự giác điều chỉnh hành vi của mình, phù
hợp với lợi ích chung của xã hội, đáp ứng nhu cầu phát triển của y học.
1.1.3. Khái niệm giáo dục và giáo dục đạo đức nghề nghiệp
- Giáo dục
Theo từ điển tiếng Việt: “Giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó,
làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra” [53, 510].
Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng của từ này - là quá trình trao đổi và chuyển
giao tri thức, là sự đạt được những giá trị và các mô hình hành vi theo một mục
đích, yêu cầu định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình
thành nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà
giáo dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học.
Dưới góc độ triết học, có thể hiểu rằng, giáo dục là một quá trình hai mặt,
một mặt, đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự tác động của
tri thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đời sống của học sinh,
sinh viên); mặt khác, thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi
bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.
- 20 Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu
cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái
độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù
hợp với chuẩn mực xã hội.
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện
cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục là một dạng hoạt
động đặc thù chỉ có ở loài người; giáo dục tồn tại, vận động, phát triển theo sự
tồn tại vận động và phát triển của xã hội. Giáo dục là một hiện tượng xã hội chịu
sự chi phối mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Mặt khác, sự phát triển
của giáo dục và sự hoàn thiện về chất lượng giáo dục là yếu tố then chốt tạo ra
sự phát triển của xã hội, của mỗi quốc gia, của nền văn minh nhân loại. Đạo đức
của con người được hình thành, phát triển lên từ ấu thơ cho đến trưởng thành.
Ở phương Đông, từ rất sớm, Khổng Tử đã có những đóng góp quan trọng
đối với hoạt động giáo dục. Nếu như hoài bão lớn nhất của ông là làm chính trị,
thì thành công lớn nhất của ông là hoạt động giáo dục. Nếu gạt bỏ những hạn
chế thì tư tưởng có tính chất xuyên suốt trong giáo dục của ông "Học không biết
chán, dạy không biết mỏi" đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong một "xã hội học
tập" hay "học tập suốt đời" hiện nay.
Ở Việt Nam, từ rất sớm, cha ông ta đã lập lập Văn Miếu (1070), Quốc Tử
Giám (1076), Giảng võ đường (1253)...để phát triển nền giáo dục Việt Nam. Từ
đó đến nay, giáo dục Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển. Kế thừa
truyền thống giáo dục mà cha ông ta để lại, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
- 21 Chí Minh luôn luôn quan tâm đến giáo dục, đến việc "trồng người". Tại buổi nói
chuyện với lớp học chính trị của các giáo viên cấp 2 và cấp 3 toàn miền Bắc
(ngày 13/9/1958), Người nói: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người" [41, tr. 1]. Với Hồ Chí Minh "trồng người" là tư
tưởng có tính chất nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của mình.
Đối tượng giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hết sức đa dạng,
trong đó học sinh, sinh viên được Người đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, như Người
thường nói: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên
muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần
và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó" [45,
tr.185], trong đó sinh viên chiếm tỷ lệ khá lớn.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư, khoá VII (ngày 14/1/1993)
Đảng ta ra Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo",
trong đó khẳng định giáo dục và đào tạo được xem là "quốc sách hàng đầu".
Mục tiêu của phát triển giáo dục nước ta là nhằm "nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá,
khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu
lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh... chú trọng giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung nhân văn và
bản sắc văn hoá dân tộc".
Bước sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo.
Nghị quyết Trung ương hai, khoá VIII (ngày 24/12/1996) tiếp tục khẳng định:
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu...đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư
phát triển. Hội nghị cũng xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục
- 22 nước ta là phải đào tạo ra "những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
"hồng" vừa "chuyên".
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta tiếp tục khẳng định, mục
tiêu giáo dục đại học của chúng ta hiện nay là: "Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học...phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh - sinh viên.
Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất
nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của
dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế
hệ trẻ Việt Nam hiện đại…"[19, tr.207].
- Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm “Giáo dục đạo đức là quá trình tác
động tới học sinh để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức,
đích cuối cùng quan trọng nhất của giáo dục đạo đức là tạo lập được những thói
quen hành vi đạo đức” [54]. Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: “Giáo
dục đạo đức là quá trình biến đổi hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ những đòi
hỏi bên ngoài, bên trong của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của
người được giáo dục” [49].
Như vậy, khái niệm giáo dục đạo đức là quá trình xã hội hóa của cá nhân;
quá trình con người tiếp thu các chuẩn mực văn hóa, đạo đức từ gia đình, cộng
đồng, xã hội để trở thành một thành viên tích cực của xã hội.
Giáo dục đạo đức sẽ góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát
sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận
thức các giá trị đạo đức cho mỗi người từ trình độ nhận thức thông thường lên
trình độ nhận thức khoa học.
Giáo dục đạo đức không chỉ nâng cao trình độ nhận thức đạo đức, giữ gìn
những giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được các thế hệ trước tạo nên, nó còn góp
- 23 phần tạo ra những giá trị đạo đức mới; xây dựng những quan điểm, phẩm chất
đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục, đồng thời,
giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm
đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng
phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các
phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hoá trong mỗi một nhân cách.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống các hoạt động, các giải pháp
nhằm giáo dục những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
để khi hành nghề, mỗi cá nhân biết kết hợp hài hòa giữa năng lực nghề nghiệp
và đạo đức nghề nghiệp.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên nói chung luôn luôn là nhiệm
vụ quan trọng. Trong đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp với sinh viên các trường
y lại càng quan trọng.
Trong kho tàng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Người luôn quan tâm đến
giáo dục đạo đức và khuyên nhủ mọi người phải thường xuyên chăm lo rèn
luyện đạo đức. Người đã từng khẳng định: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có
tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi
đến thụt két thì chẳng những không làm được gì có ích lợi cho xã hội mà còn hại
cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì
nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [46, tr.172].
Chính vì vậy, Đảng ta coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển con người trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Và mới đây nhất vấn đề này tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong Nghị
quyết Trung ương 8 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo.
Trong thực tiễn giáo dục đạo đức nghề nghiệp được tổng hợp trong các
hoạt động giáo dục nói chung. Trong các trường đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp, đạo đức học, tâm lý học là một môn cơ bản, bắt buộc. Ngoài ra,
- 24 đối với các trường Y tế còn có y đức là môn học bắt buộc. Bên cạnh đó có các
hoạt động bổ trợ khác như các câu lạc bộ thực hành y, diễn đàn sinh viên,
chương trình ngoại khóa, tham quan thực tế đều có ý nghĩa và tác dụng giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là sự tác động qua lại giữa các hoạt động
giáo dục đạo đức nghề nghiệp với người học nghề nhằm hình thành ở người học
nghề những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết. Như vậy, nếu xem xét dưới góc độ
lý thuyết hệ thống thì giáo dục đạo đức nghề nghiệp bao gồm nhiều thành tố: mục
đích và yêu cầu, nội dung và phương pháp, biện pháp, phương tiện, các lực lượng
tham gia, người dạy nghề, người học nghề và kết quả giáo dục đạo đức nghề
nghiệp. Các thành tố này vận động và phát triển trong mối quan hệ biện chứng
với nhau, thành tố này quy định và ảnh hưởng đến thành tố khác và tạo nên sự
vận động chung của cả hệ thống giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể: mục đích
và yêu cầu giáo dục đạo đức nghề nghiệp sau khi được xây dựng, quy định những
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cụ thể cần hình thành ở người học nghề.
Sau khi xác định nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp, từ đó quy định phương
pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Trong mối quan hệ giữa lực lượng tham gia
giáo dục đạo đức nghề nghiệp và người học nghề thì lực lượng giáo dục đạo đức
nghề nghiệp giữ vai trò chủ đạo tổ chức, điều khiển hoạt động của người học
nghề. Dưới các tác động giáo dục đó, người học nghề phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của mình trong quá trình tự rèn luyện tự bồi dưỡng các phẩm chất nghề
nghiệp. Sự vận động của tất cả các thành phần nêu trên sẽ đưa lại kết quả giáo dục
đạo đức nghề nghiệp. Kết quả này phản ánh sự vận động đúng hay không đúng
quy luật khách quan của các thành tố và cả hệ thống.
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống mở vì các thành
tố cấu thành của nó còn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội: chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hoá