Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.56 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................1
Chương I _TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ...........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................2

1.1. Khái niệm và bản chất của HNKTQT..................................................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm........................................................................................................................................................................2
* Xúc tiến nhanh việc xây dựng các chiến lược của các ngành, các doanh nghiệp cho phù hợp với những điều chỉnh về
chính sách ..............................................................................................................................................................................26
Năng lực cạnh tranh là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành bại của nền kinh tế khi thực hiện cam kết HNKTQT.
Đây là điều kiện hàng đầu để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức vì thách thức lớn nhất hiện nay đối với VN là sự
yếu kém năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp............................................................................................................27
* Tạo dựng nhanh các yếu tố năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để thay đổi vị thế của nền kinh tế trong tương quan với
khu vực và thế giới..................................................................................................................................................................27
* Đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động và giảm giá thành đối với sản phẩm....................................28
* Áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trong mọi lĩnh vực..........................................................................29
* Cải tiến, đa dạng hóa mẫu mã chủng loại sản phẩm và những dịch vụ hậu mãi................................................................29
* Áp dụng linh hoạt những chính sách, biện pháp kể cả các biện pháp, chính sách về mặt xã hội để trợ giúp cho các
doanh nghiệp buộc phải phá sản, buộc phải chuyển đổi ngành nghề...................................................................................32
* Giữ vững và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế để tránh nguy cơ tụt hậu.........................................................................33
* Đưa nội dung kiến thức về hội nhập vào chương trình đào tạo của các trường đại học, đặc biệt các trường khối kinh tế,
xã hội, nhân văn......................................................................................................................................................................33
* Củng cố bộ máy tổ chức điều hành công tác hội nhập trong toàn quốc và tăng cường công tác thông tin tuyền truyền về
hội nhập...................................................................................................................................................................................34

MỤC LỤC.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................1
Chương I _TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ...........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................2

1.1. Khái niệm và bản chất của HNKTQT..................................................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm........................................................................................................................................................................2
* Xúc tiến nhanh việc xây dựng các chiến lược của các ngành, các doanh nghiệp cho phù hợp với những điều chỉnh về
chính sách ..............................................................................................................................................................................26


Năng lực cạnh tranh là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành bại của nền kinh tế khi thực hiện cam kết HNKTQT.
Đây là điều kiện hàng đầu để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức vì thách thức lớn nhất hiện nay đối với VN là sự
yếu kém năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp............................................................................................................27
* Tạo dựng nhanh các yếu tố năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để thay đổi vị thế của nền kinh tế trong tương quan với
khu vực và thế giới..................................................................................................................................................................27
* Đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động và giảm giá thành đối với sản phẩm....................................28
* Áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trong mọi lĩnh vực..........................................................................29
* Cải tiến, đa dạng hóa mẫu mã chủng loại sản phẩm và những dịch vụ hậu mãi................................................................29
* Áp dụng linh hoạt những chính sách, biện pháp kể cả các biện pháp, chính sách về mặt xã hội để trợ giúp cho các
doanh nghiệp buộc phải phá sản, buộc phải chuyển đổi ngành nghề...................................................................................32
* Giữ vững và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế để tránh nguy cơ tụt hậu.........................................................................33
* Đưa nội dung kiến thức về hội nhập vào chương trình đào tạo của các trường đại học, đặc biệt các trường khối kinh tế,
xã hội, nhân văn......................................................................................................................................................................33
* Củng cố bộ máy tổ chức điều hành công tác hội nhập trong toàn quốc và tăng cường công tác thông tin tuyền truyền về
hội nhập...................................................................................................................................................................................34


2

Chương I _ TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm và bản chất của HNKTQT
1.1.1. Khái niệm
HNKTQT là một thuật ngữ đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau:
Có ý kiến cho rằng HNKTQT là quá trình các quốc gia tiến hành xây dựng,
thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương. Lại có ý
kiến cho rằng HNKTQT là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế
và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Tuy còn có những quan điểm khác nhau nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ
biến và được nhiều nước chấp nhận là: HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của

mỗi quốc gia và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu trong đó mỗi thành viên
đều phải chịu một số ràng buộc theo qui định chung của khối. Là quá trình thực
hiện tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị
trường trên cơ sở tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc
tế. Từ đó đem lại nhiều cơ hội thuận lợi như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận
thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích
gián tiếp khác, đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt, tăng dần hiệu quả kinh tế
theo quy mô.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày
nay khi mà làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt dưới
sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ.
1.1.2. Bản chất
HNKTQT là sự đan xen, gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc
gia và thế giới, vừa hợp tác vừa đấu tranh để phát triển. Trong bối cảnh hiện nay,
HNKTQT không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã
được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại,
nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản
hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại, đầu tư theo hướng tự do hóa
kinh tế.


3

Hội nhập kinh tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để
nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường.
HNKTQT tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia,
nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với nước thành viên trong việc đổi
mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản
lý vĩ mô.

HNKTQT tạo dựng các nhân tố, điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc
gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao, khoa học
kỹ thuật ngày càng hiện đại.
HNKTQT chính là sự khai thông các dòng chảy nguồn lực trong, ngoài nước, tạo
điều kiện mở rộng thị trường chuyển giao công nghệ, các kinh nghiệm quản lý.
1.2. Các hình thức HNKTQT
Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập qua các hoạt động mậu dịch và
hợp tác trong chính sách, biện pháp kinh tế khác nhau. Về cơ bản có thể chia theo
những hình thức sau đây:
1) Hội nhập theo thị trường, là sự hội nhập kinh tế khu vực thông qua hoặc thúc
đẩy bằng các hoạt động kinh doanh. Điều này có thể xảy ra mà không cần đến
một khuôn khổ hội nhập liên chính phủ. Ví như việc giá xăng dầu của VN đang
từng bước tiến tới “hội nhập với giá thế giới” để khắc phục những khiếm khuyết
của loại giá bao cấp hiện nay, và theo dự tính của chính phủ, đến hết năm 2008 sẽ
hoàn thành lộ trình này. (Báo Đầu tư ngày 22/11/2007)
2) Hội nhập theo chính sách, là sự hội nhập kinh tế khu vực được thúc đẩy thông
qua một thoả thuận chính thức, thường là thông qua một thỏa thuận thương mại
khu vực ưu đãi. Điều này có thể dễ dàng đưa ra ví dụ thông qua việc chúng ta
tham gia vào các tổ chức kinh tế gần đây như ASEM, APEC, WTO …
Bên cạnh đó tuỳ theo trình độ sâu, nông, mà có thể chia ra thành:
1) Hội nhập sâu là sự kết hợp các hệ thống chính sách quốc gia của hai hay nhiều
nước mà theo truyền thống các hệ thống chính sách đó hoàn toàn thuộc thẩm
quyền của chính phủ quốc gia. Hệ thống chính sách này bao gồm chính sách cạnh


4

tranh, tiêu chuẩn kĩ thuật, trợ cấp, chính sách tài chính - tiền tệ, các quy chế và
giám sát các tổ chức tài chính, các vấn đề môi trường, việc mua sắm của chính
phủ và một số chính sách khác. Cộng đồng Châu Âu (EC) là khu vực tiến xa nhất

trong quá trình hội nhập sâu. Gần đây, EC đã thông qua việc thành lập một thị
trường thống nhất và thực hiện các biện pháp đề ra trong Hiệp ước Maxtơrich.
Ngoài ra, NAFTA cũng là một ví dụ về hội nhập sâu hiện nay.
2) Trái lại, là hình thức hội nhập nông thể hiện trong các hình thức hội nhập từ
khu vực thương mại tự do. Trong hình thức hội nhập nông, mỗi nước thành viên
vẫn tự do duy trì các chính sách khác của nước mình. Tuy vậy, hội nhập nông
cũng có tác dụng thúc đẩy quá trình hợp tác hài hòa, cân đối chính sách.
Xét theo sự hội nhập các công ti, thì có 2 phương thức:
1) Hội nhập dọc khi các xí nghiệp, công ti sản xuất ra các sản phẩm ở các công
đoạn khác nhau và nối tiếp nhau của một dây chuyền sản xuất hay của một sản
phẩm hoàn chỉnh
2) Hội nhập ngang khi sản phẩm của các công ti ở cùng một công đoạn sản xuất.
1.3. Sự cần thiết HNKTQT đối với Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện
toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành vấn đề nổi bật của thế giới đương
đại. Quá trình này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa
các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại đã được
hình thành để phục vụ cho quá trình HNKTQT, tạo lập hành lang pháp lý chung,
để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế
giới, mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ được. Và sau
đây, những khó khăn về quan hệ mậu dịch, xuất nhập khẩu…trong giai đoạn hội
nhập chưa phổ biến và những tác động của bối cảnh quốc tế, tác động tích cực
của việc HNKTQT đến đời sống xã hội, bản sắc văn hoá, vấn đề việc làm…sẽ là
minh chứng lý giải tại sao cần thiết phải hội nhập, và đẩy mạnh HNKTQT ở VN.
1.3.1

Những khó khăn:

Một là, xu hướng gia tăng tự do hóa thương mại và cạnh tranh toàn cầu



5

Biểu hiện cơ bản của quá trình hội nhập kinh tế là xu hướng tăng cường hợp tác
song phương, liên kết khu vực, hợp tác liên khu vực và đẩy mạnh hợp tác đa
phương. Một làn sóng tự do hóa thương mại đang diễn ra sôi động chưa từng có
trên thế giới với việc hình thành các Khu vực Thương mại Tự do và các Thỏa
thuận Thương mại Khu vực. Cho đến nay, hầu như tất cả các nước trên thế giới
đều là thành viên, hoặc đang đàm phán tham gia, của ít nhất một tổ chức trên và
khoảng trên 50% tổng giá trị giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông
qua các thỏa thuận thương mại khu vực. Xu hướng tăng cường hợp tác đa
phương thể hiện rõ nét qua việc ngày càng có nhiều nước xin gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Đến nay WTO đã có 151 thành viên được kết nạp
và khoảng gần 30 nước đang xin gia nhập. WTO chiếm khoảng 85% tổng thương
mại hàng hóa và 95% thương mại dịch vụ toàn cầu. Hiện nay, WTO đã chủ
trương mở rộng đàm phán toàn diện trên cả bốn lĩnh vực: thương mại hàng hóa,
thương mại dịch vụ, đầu tư liên quan đến thương mại, sỡ hữu trí tuệ và một số
vấn đề mới phát sinh nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại. Và xu thế
này đã có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế VN.
Hai là, sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
đối với hàng xuất khẩu
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang tính
lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế xuất nhập khẩu
cao. Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng
như để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương
mại không lành mạnh. Các quy định về an toàn thực phẩm trong thương mại
quốc tế hiện cũng là một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu, nổi bật là xuất khẩu
thủy sản của VN. Xu hướng gắn hoạt động thương mại với việc giữ gìn và tôn
tạo môi trường sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới. Ngoài lý do về chất
lượng của sản phẩm, những yêu cầu về môi trường đối với sản phẩm cũng đang

được coi là những "Rào cản thương mại trá hình" mà ngôn ngữ trong thương mại
thường gọi là "Hàng rào xanh" nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước và ngăn
chặn sự xâm nhập của hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó còn có những rào cản về luật
chống phá giá, tự vệ, chống trợ cấp, thủ tục hải quan, ghi nhãn mác… Những tiêu
chuẩn này nhiều khi được đặt ra quá cao so với trình độ kỹ thuật cũng như công


6

nghệ sản xuất của các nước đang phát triển, từ đó tạo nên một số khó khăn trong
quá trình tiếp cận thị trường các nước phát triển. (Tạp chí Cộng Sản số 5 ngày
12/3/2007)
Ba là, bối cảnh quốc tế
Những nhân tố nói trên đang tạo ra áp lực thách thức khả năng và tiến độ
HNKTQT của chúng ta. Khi chúng ta chưa kịp tiến lên bắt kịp với thế giới thì đã
lại tiếp tục bị bỏ lại đằng sau, trước một trào lưu mới. Nó đòi hỏi cần phải có
những nỗ lực liên tục và gắng sức để có thể bắt kịp với xu thế phát triển của thế
giới. Cụ thể là:
- Áp lực cạnh tranh sẽ tăng mạnh, nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ và phần
lớn các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất nhiều sản phẩm mang tính
cạnh tranh và lại có nhiều ưu thế hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành
xuất khẩu chủ lực của ta hiện nay như nông sản, thủy sản, may mặc, giày dép.
- Việc một số nước ASEAN tham gia vào nhiều thỏa thuận thương mại tự do
(FTA) với các nước bên ngoài khối tạo ra nguy cơ chuyển hướng thương mại bất
lợi đối với ta.
- Xu hướng HNKTQT và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép buộc ta phải tiến
hành tự do hóa, mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn. Nếu không cố gắng
đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì VN có nguy cơ bị tụt hậu và chịu
những thua thiệt của người đi sau.
1.3.2 Những tác động tích cực của hội nhập đối với Việt Nam

Một là, với vai trò của nhà nước
Với việc VN HNKTQT, quyền lực nhà nước của chính phủ được củng cố và mở
rộng hơn, nhất là khả năng thực thi quyền lực. Mặc dù hiện nay có nhiều tranh
luận về quy mô và vai trò tối ưu của nhà nước, nhưng nhìn chung đều nhất trí về
tầm quan trọng của nhà nước trong việc hỗ trợ cung cấp cơ sở hạ tầng, vật chất, y
tế cơ bản, giáo dục, hỗ trợ xã hội ngoài vai trò truyền thống trong lĩnh vực quân
sự và hành chính công. Cùng với sự lớn mạnh của chính phủ, các giao lưu kinh tế
thương mại càng trở nên quan trọng, các nền kinh tế ngày càng liên kết chặt chẽ
với nhau hơn cùng với sự phát triển của quá trình phân công lao động quốc tế, và
giảm bớt các hàng rào mậu dịch.


7

Hai là, với bản sắc văn hoá dân tộc
Quá trình HNKTQT sẽ giúp mang đến cho ta nhiều màu sắc văn hoá độc đáo,
làm đa dạng, phong phú hơn đời sống văn hoá của các nước nhờ tác động tương
tác qua lại trong quá trình kinh doanh, hợp tác, trao đổi. Từ đó tiếp thu những nét
mới, hiện đại, tinh tuý của các nước bạn và tiếp tục phát huy bản sắc văn hoá của
dân tộc VN.
Ba là, với vấn đề việc làm
Nhiều người đã từng lo ngại rằng, toàn cầu hoá và HNKTQT sẽ làm tăng nguy cơ
thất nghiệp, nhưng cho đến nay các nghiên cứu thực chứng chưa khẳng định
được tính thuyết phục của quan điểm này. Trong khi đó ở Trung Quốc, việc
Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2001 lại chỉ ra rằng
khả năng tạo ra việc làm mới nhiều hơn so với số việc làm sẽ bị mất đi. Xét về
mối quan hệ tổng thể của những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội cho đến nay thì
có thể nói việc hội nhập có thể giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp
của một quốc gia. (Báo Tuổi trẻ cuối tuần ngày 1/8/2007)
Bốn là, với vấn đề phát triển con người

HNKTQT có nhiều tác động tích cực tới sự phát triển con người, làm cho con
người có nhiều điều kiện hơn để thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần …
phát huy khả năng sáng tạo và các cơ hội mở rộng hơn để lựa chọn. Thông qua
việc hợp tác cùng các quốc gia trên thế giới có thể học hỏi, nâng cao khả năng,
trình độ của bản thân góp phần xây dựng đất nước.


8

Chương II _ QUÁ TRÌNH HNKTQT Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành chủ trương HNKTQT
2.1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về HNKTQT
Những bước đi quan trọng của VN trong quá trình HNKTQT đều được sự chỉ
đạo chặt chẽ và kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới Đảng ta đã có chủ trương:
“Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều
hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất
khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo
điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác
kinh doanh” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
năm 2006, tr.58). Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình
HNKTQT của nước ta. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng
hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn
tại hoà bình. Để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tăng cường thu hút
nguồn vốn từ nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng ta
chủ trương khai thông quan hệ giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB).., mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á Thái Bình Dương. Một trong những biện pháp quan trọng là "Chúng ta cần tích
cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động

hợp tác, liên doanh với nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi
nguồn vốn đầu tư, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới". (Văn kiện Hội nghị Trung ương, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội năm 2006, tr.18)
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầm
nhìn chiến lược, Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng một nền kinh
tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết
04 của Ban chấp hành TW khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực và chủ động thâm nhập


9

và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm
phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể
để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA". Tiếp đó, trong Báo
cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ quan điểm của Đảng: "Chủ động
HNKTQT và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường".
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà
nước ta. Theo quan điểm này HNKTQT trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là
một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân
công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong
nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao
thế và lực của nước ta trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Tiến trình HNKTQT của VN trong thời gian tới tiếp tục được đẩy mạnh theo chủ
trương Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “ Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, thực hiện cam kết với

các nước về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác, chuẩn bị tốt các điều kiện
để ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các
nước Châu Á – Thái Bình Dương, củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược, khai thác có hiệu quả các cơ hội và
giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)”. (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2006, tr.40)
HNKTQT là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Nói hội
nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá.
HNKTQT bao gồm một số nội dung chủ yếu như: chủ động tham gia vào hệ
thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là trong những lĩnh vực kinh tế mới;
chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế; chủ động tham gia vào các
hoạt động tài chính quốc tế…Khẳng định tầm quan trọng của HNKTQT, Nghị


10

quyết 07-NT/TW của Bộ Chính trị, ngày 27/11/2001 về HNKTQT đã đề ra 5
quan điểm chủ đạo trong quá trình HNKTQT của nước ta trong thời kỳ mới:
- Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: “Chủ động HNKTQT và
khu vực … bảo vệ môi trường”.(đã trích trên)
- HNKTQT là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- HNKTQT là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều
cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong
việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời
điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư
tưởng giản đơn, nôn nóng.

- Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình
hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy
định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi
dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh
tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình HNKTQT với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm
củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua
hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hoà bình" đối với nước ta.
Để cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết trong thực tiễn,
Chính phủ đã thông qua một Chương trình hành động bao gồm các nhiệm vụ cụ
thể được phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các bộ, ban, ngành và địa
phương có liên quan, có sự phối hợp thực hiện với các cơ quan trung ương. Cụ
thể đầu mối nhiệm vụ là: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá - Thông tin với công tác tư tưởng, thông tin, tuyên
truyền; Bộ Tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế,
chính sách kinh tế thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quốc gia về hợp
tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
nâng cao khả năng cạnh tranh; Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với


11

nhiệm vụ tổng hợp và hoàn thiện Chiến lược tổng thể về HNKTQT; Bộ Nội vụ
chủ trì cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Tư pháp…với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực; Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ
kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng; Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ
Chính trị và Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính với nhiệm vụ về đàm phán
gia nhập WTO; Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban

Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ mở rộng thị trường xuất khẩu,
tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế. Và cuối
cùng là công tác kiện toàn tổ chức của các bộ, cơ quan của Chính phủ.
( www.cpv.org.vn )
2.1.2 Tiến trình HNKTQT của Việt Nam
Chúng ta đã và đang đi những bước đi hết sức vững vàng trên con đường hội
nhập, theo từng cấp độ từ thấp lên cao, từ khu vực đến toàn cầu. Sau đây là điển
hình một vài cấp độ mà VN ta đã lần lượt tham gia:
Cấp độ thứ nhất là đơn phương, nghĩa là VN tiến hành cải cách kinh tế và thương
mại một cách độc lập, không phụ thuộc vào các cam kết quốc tế. Thực tế VN đã
bắt đầu cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực thương mại từ năm 1988, ngay cả trước
khi VN gia nhập các tổ chức khu vực như AFTA và APEC, như cải cách tỉ giá
hối đoái, cắt giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu, giảm số mặt hàng chịu thuế xuất
khẩu và nhập khẩu, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của Nhà nước, trao quyền
tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cho các địa phương, và doanh nghiệp, kể cả
doanh nghiệp tư nhân. Những biện pháp đó đã góp phần thúc đẩy kinh tế ngoại
thương VN phát triển mạnh mẽ từ năm 1989.
Cấp độ thứ hai là hội nhập kinh tế ở mức tiểu khu vực Đông Nam Á thông qua
ASEAN và AFTA. VN bắt đầu tham gia AFTA tháng 12/1995, và hiện đang tiến
hành cải cách theo cam kết và lịch trình của AFTA. Cốt lõi của AFTA là chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff,
CEPT) trong đó các nước thành viên sẽ cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các
sản phẩm có xuất xứ từ ASEAN xuống mức 0-5% đồng thời loại bỏ hàng rào phi
thuế quan trong thời hạn quy định đối với mỗi nước. Đối với VN thời hạn thực


12

hiện CEPT bắt đầu từ 1/1/1996 và kết thúc vào 1/1/2006. Đến nay cơ bản VN đã
thực hiện đúng lộ trình cam kết. Việc tham gia AFTA là nằm trong chủ trương

mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời là bước khởi đầu, sự tập
dượt, rút kinh nghiệm cho triến trình hội nhập sâu rộng hơn sau này. Quá trình
tham gia AFTA đã góp phần nâng cao nhận thức về hội nhập của các bộ, ngành
trong nước; góp phần thay đổi cung cách quản lý kinh tế vĩ mô và hoạt động kinh
doanh theo hướng có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh. Qua tham gia
AFTA, hệ thống chính sách, luật lệ kinh tế, đặc biệt là về thuế, xuất-nhập khẩu,
qui định về cạnh tranh, doanh nghiệp ... dần được hoàn thiện tạo ra một khuôn
khổ pháp lý hoàn chỉnh hơn, thông thoáng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế,
góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách, mở cửa và hội nhập. Tham gia AFTA đang
đóng góp tích cực xây dựng, phát triển thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn
nhập khẩu hàng hóa-nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước. Tổng
kim ngạch XNK giữa VN và ASEAN tăng 20% ngay năm đầu tiên thực hiện
CEPT (1996) và liên tục tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (trừ năm 2001)
với tốc độ trung bình 15,8% mỗi năm trong giai đoạn 1996-2003. Từ năm 2002 2006, kim ngạch xuất khẩu của VN sang 10 nước ASEAN đã tăng 2,6 lần, đạt tốc
độ tăng trưởng trung bình 21,1%/năm. ( www.mofa.gov.vn )
Cấp độ tiếp theo là hội nhập kinh tế ở mức khu vực rộng lớn hơn là Châu Á –
Thái Bình Dương thông qua tổ chức APEC mà nước ta gia nhập vào tháng
11/1998. Mục tiêu của APEC là đưa Châu Á – Thái Bình Dương tiến tới một khu
vực tự do thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với các nước phát triển và
2020 đối với các nước đang phát triển. Các nước thành viên APEC thực hiện các
cam kết của mình chủ yếu thông qua Chương trình hành động tập thể (Collective
Action Plan, CAP) và chương trình hành động của từng nước (Individual Action
Plan, IAP). VN bắt đầu thực hiện IAP của mình từ năm 1999, trong đó cam kết
cắt giảm hàng rào thuế quan để đảm bảo đạt được mục tiêu tự do hoá thương mại
của APEC vào năm 2020, đồng thời mở cửa hơn nữa cho đầu tư nước ngoài, nhất
là các lĩnh vực dịch vụ như tư vấn pháp lý, bảo hiểm, hàng không và viễn thông.
APEC hiện là khu vực đầu tư trực tiếp lớn nhất vào VN, với 65,6% tổng số vốn
đầu tư. APEC cũng là khu vực có lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
lớn nhất cho VN. Xuất khẩu của VN vào các nước thành viên APEC cũng chiếm



13

tỷ trọng lớn nhất trong các khu vực trên thế giới. Trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của VN thì xuất khẩu vào các thành viên APEC chiếm trên 58%. Hàng nhập
khẩu của VN từ APEC chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các khu vực năm 2005 đạt
29,9 tỷ USD, chiếm 80,7%. Sau 9 năm gia nhập, quan hệ giữa VN và APEC đã
có bước phát triển tương đối lớn. Với sự phát triển năng động và có quy mô lớn,
APEC sẽ là khu vực mà VN cần nâng tầm quan hệ lên mức cao hơn nữa.
Cuối cùng, bao trùm lên tất cả là hội nhập ở mức toàn cầu. Mà điển hình là Tổ
chức thương mại thế giới WTO với mục tiêu:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho
sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương
mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế, bảo
đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất
được thụ hưởng thụ những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc
tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các
nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên,
bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
Vào ngày 7/11/2006 tại trụ sở của Tổ chức thương mại thế giới ở Giơnevơ (Thụy
Sĩ), thông qua những cam kết và sự nhất trí của toàn thể 149 thành viên, VN hoàn
tất tiến trình 11 năm, với hơn 200 cuộc đàm phán, đã trở thành thành viên chính
thức thứ 150 của sân chơi thương mại toàn cầu này.
2.2. Cơ hội và thách thức trong HNKTQT
Mỗi lần tham gia vào các tổ chức khu vực, quốc tế như một lần chúng ta cọ xát,
chuẩn bị cho tiến trình hội nhập. Cơ hội mang đến sẽ là rất lớn nhưng thách thức
cũng không nhỏ. Bản thân việc gia nhập đó thật sự không làm cho VN giàu lên

hay nghèo đi mà chỉ tạo cơ hội, nếu chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát
triển, vượt qua được thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Vấn đề ở đây là phải
biết nhìn nhận ra nó và luôn trong tư thế tích cực chủ động đón nhận có như thế
tiến trình hội nhập mới được đẩy nhanh, đất nước ngày càng phát triển.


14

2.2.1 Cơ hội trong HNKTQT
Một là, được tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, những cách thức hoạt động mới
hơn. Hầu hết khi tham gia bất cứ một tổ chức nào chúng ta cũng luôn nhận được
từ đó những đặc lợi, những chính sách cởi mở hơn trong quan hệ hợp tác, mậu
dịch mà phổ biến nhất là sự cắt giảm thuế xuất nhập khẩu. Khi đó hàng hoá và
dịch vụ của các nước thành viên có thể trao đổi dễ dàng theo xu hướng thị trường
mở, số lượng, chất lượng được nâng cao, và trở nên phong phú, đa dạng, giúp các
doanh nghiệp, người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa chọn tốt, với giá thành sản
phẩm hạ, không phân biệt đối xử. Thêm vào đó là tạo điều kiện cho chúng ta mở
rộng thị trường xuất khẩu, và có thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu
dài hạn trong tương lai, tạo ra mối quan hệ thương mại chắc chắn hơn, góp phần
tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư, phát triển sản xuất
công-nông nghiệp, giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế. Một khi
hoạt động thương mại dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi thì các doanh
nghiệp và người tiêu dùng sẽ được hưởng các dịch vụ chất lượng, phong phú, rẻ
hơn nhờ đó chi phí kinh doanh hạ, mức sống người lao động gia tăng. Và trong
tương lai với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp, sự phát triển của nền kinh tế,
việc mở rộng kinh doanh ra khu vực ngoài biên giới quốc gia là tất yếu. Với một
nền kinh tế có độ mở lớn như VN _ kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60%
GDP thì điều này đặc biệt quan trọng và là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là, với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý

theo quy định của các tổ chức khu vực, quốc tế, sẽ giúp cho môi trường kinh
doanh của nước ta sẽ ngày càng được cải thiện, nâng cao hiệu quả và năng suất
lao động của toàn bộ nền kinh tế. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những
phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh
đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản
lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch
cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc
độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.


15

Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi
trội: Năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần
56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực
tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là, việc gia nhập ngày càng nhiều các tổ chức uy tín, rộng lớn trong khu vực
và trên thế giới sẽ giúp chúng ta có được vị thế bình đẳng cùng các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại, có cơ hội để đấu tranh nhằm
thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Điều này cũng từng được đề cập trong
một bài phát biểu của Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp VN gia
nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, Thủ tướng nói: “…trong xu thế hiện
nay, không tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, chúng ta sẽ là người ngoài cuộc,
bị phân biệt đối xử trong tiếp cận thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, sẽ khó
khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế…”. Quan trọng hơn là quốc gia nào không
tham gia vào tiến trình này, quốc gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong bàn
thảo và xây dựng định chế của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để
đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ

thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý
điều hành của ta.
Bốn là, mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế
kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính
việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong
nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Bất
kỳ một hiệp hội, tổ chức nào trên thế giới cũng đều có những quy định và “luật
chơi” riêng, và luôn không ngừng nâng cao các chính sách kiểm soát về thương
mại của các nước thành viên một cách chặt chẽ hơn. Điều này sẽ tác động đến
VN _ một đất nước có nền kinh tế đang phát triển, có ngành kinh tế chuyển đổi
càng có điều kiện xây dựng, tăng cường các chính sách, thể chế điều hành, quản
lý nền kinh tế của mình sao cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế cũng
như trong nước. Việc VN thúc đẩy cải cách, sẽ kéo theo mức tăng trưởng cao và
bền vững. Cải cách khu vực tài chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính công


16

nhằm tạo ra sự minh bạch, có trách nhiệm giải trình và hiệu quả hơn, song song
đó là những cải thiện trong cơ sở hạ tầng. Tất cả đều rất quan trọng đối với VN
để nâng cao hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh.
Năm là, vị thế của VN nâng cao và tạo thế đứng vững chắc trên trường quốc tế,
có tiếng nói trong việc định hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới
thông qua những cuộc thương lượng và đàm phán, từ đó có điều kiện bảo vệ các
quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ theo hướng có lợi cho quốc gia. Tạo điều kiện
cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: “VN mong
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển”. (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX) Thêm vào đó là
tính tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điển hình như Việt
Nam có thể tranh thủ cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đa biên theo luật

định của WTO để giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh trong
quan hệ kinh tế thương mại với các nước khác, đặc biệt là với các cường quốc, do
cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương không cho phép các nước phát triển áp
đặt luật của mình trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Các nhà xuất
khẩu Việt Nam sẽ có lợi từ sự đảm bảo chắc chắn là các đối tác thương mại của
họ buộc phải tuân thủ theo các quy tắc của WTO.
Tóm lại, HNKTQT đã được truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn,
nó đưa những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ,
về tổ chức quản lý, về sản xuất kinh doanh, đưa kiến thức, kinh nghiệm đến với
các dân tộc, và tại VN ta hầu như nó đã đến với từng gia đình, từng người dân, nó
dọn đường và là hành trang cho công cuộc thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.
HNKTQT tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất
quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển, từ các nguồn vốn vật chất
đến các nguồn tri thức, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và những kinh
nghiệm cả về chiến lược dài hạn và về tổ chức tiến hành, cả ở tầm vĩ mô của
quốc gia và ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp và từng hộ gia đình. Hội nhập chỉ
rõ vị trí hàng đầu của yếu tố chất lượng, yếu tố thời gian, yếu tố nâng cao giá trị


17

gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả, nó góp phần vào sự nâng cao dân trí và
sự tự khẳng định của các dân tộc, của con người.
Đồng hành với những cơ hội đó, chúng ta còn phải đương đầu với không ít
những thách thức to lớn:
2.2.2 Thách thức trong HNKTQT
Vấn đề, nhận thức tư tưởng và kiến thức về HNKTQT
Chủ trương của Đảng về HNKTQT đã được khẳng định qua nhiều nghị quyết và
văn kiện và đã được triển khai từng bước. Quá trình hội nhập ngày nay đã thực

sự đi vào chiều sâu với việc VN trở thành thành viên 150 của WTO..., nhưng trên
thực tế vấn đề nhận thức nội dung, lộ trình hội nhập của nhiều ngành, cấp và
doanh nghiệp vẫn còn chưa đầy đủ. Doanh nghiệp nước ta nói chung, nhất là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện đang chiếm đại đa số các doanh nghiệp, còn ít
hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập, chưa thể tự trang bị cho mình
những kiến thức và thông tin cần thiết về thị trường và luật pháp, thông lệ quốc tế
trong làm ăn buôn bán. Đa số vẫn trông chờ ở sự bảo hộ của Nhà nước. Đây
chính là những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng và gây cản trở cho việc HNKTQT,
mà chúng ta cần nhanh chóng vượt qua.
Đối với các doanh nghiệp
HNKTQT đòi hỏi VN phải mở cửa thị trường để hàng ngoại quốc được tự do
cạnh tranh với hàng hóa nội. Vấn đề đặt ra đối với ta vẫn là sự chênh lệch về
trình độ sản xuất, khoa học kỹ thuật công nghệ so với các nước trong khu vực, và
trên thế giới . Vì những yếu tố này mà có thể làm giảm nghiêm trọng khả năng
cạnh tranh. Những doanh nghiệp cạnh tranh yếu, làm ăn không có hiệu quả sẽ bị
thua lỗ, phá sản, và đương nhiên sẽ nhanh chóng bị đào thải, từ đó gây ra thiệt hại
lớn về kinh tế, dẫn đến người lao động sẽ thiếu hoặc mất việc làm và kéo theo
nhiều hệ quả về mặt xã hội.
Đặc biệt trong quá trình triển khai các cam kết, hiệp định thương mại, chúng ta sẽ
còn tiếp tục phải cắt giảm thuế quan và từng bước loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan, mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, áp dụng quy chế đối xử tối huệ
quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) cho hàng hóa và dịch vụ của các nước, bảo
đảm nước ngoài được đối xử bình đẳng như dân bản xứ. Điều này gây cản trở lớn


18

tới khả năng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa nếu không nhanh chóng nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ.
Vấn đề, hệ thống pháp luật và chính sách quản lý

Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, đặc biệt là pháp luật về kinh tế - thương
mại còn thiếu nhiều, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và thông thoáng để tạo ra
một môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao
năng lực, cạnh tranh lành mạnh. Nhiều biện pháp, chính sách tạo thuận lợi và bảo
hộ cho phát triển thương mại được quốc tế thừa nhận như chế độ hạn ngạch thuế
quan, quy chế xuất xứ, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, chính
sách cạnh tranh ở nước ta chưa ban hành. Trong khi đó nước ta vẫn đang áp dụng
nhiều biện pháp, chính sách không có trong thông lệ quốc tế, hoặc không phù
hợp với các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế. Tham gia HNKTQT điều không
tránh khỏi là sẽ phát sinh nhiều điểm xung đột giữa hệ thống luật hiện tại với hệ
thống luật quốc tế mà ta sẽ tham gia. Đây là điều không dễ giải quyết trong ngày
một ngày hai, mà cần một lộ trình chuẩn bị, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính
sách, tổ chức thực hiện.
Đối với, đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực
Chúng ta tiến hành mở cửa và hội nhập với đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại
còn thiếu và trình độ còn yếu cả về năng lực chuyên môn và về ngoại ngữ. Đội
ngũ cán bộ làm công tác hội nhập đã được tăng cường nhiều trong thời gian qua,
nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Muốn hội nhập có hiệu quả, nhân tố quyết định chính là con người. Để có thể
tham gia một cách bình đẳng vào các luật chơi chung của thế giới, ta cũng phải
có một đội ngũ cán bộ am hiểu thể lệ của các định chế quốc tế, có trình độ về
chuyên môn và ngoại ngữ.
Vấn đề, xóa đói giảm nghèo
Xáo trộn trong thị trường lao động là phản ứng ngắn hạn của nền kinh tế bị co
giãn dưới sức ép của hội nhập. Với VN, dù hội nhập hay không thì nạn nghèo đói
vẫn luôn là một vấn đề trường kỳ nan giải, thêm vào đó là sự chênh lệch giàu
nghèo giữa nông thôn và thành thị. Câu hỏi đặt ra là liệu hội nhập sẽ làm tăng
hay giảm nghèo đói? Làm cách nào để toàn dân trong nước được hưởng kết quả



19

đồng đều của hội nhập? Câu trả lời nằm trong chính sách phân chia lợi tức giữa
nông thôn và thành thị. Do đó cần phải có chính sách lao động hay an sinh xã hội
hợp lý, kịp thời để điều chỉnh nền kinh tế, đồng thời phải quán triệt và thực hiện
tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển". (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm
2001, tr.88)
Các vấn đề khác:
HNKTQT trong một thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, thì tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường
chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. Bên cạnh đó HNKTQT cũng đặt ra
những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, vị
kỷ, chạy theo đồng tiền…
Quan hệ Việt kiều
Mỗi năm Việt kiều gửi về VN trên 2 tỷ Mỹ kim, mang theo nguồn lợi tức và
ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế trong nước. Và đây cũng là bộ phận tiêu thụ rất
mạnh cho hàng xuất khẩu từ VN. Vấn đề ở đây là chúng ta phải biết tìm cách
“hội nhập” hai nền kinh tế: trong nước và “kinh tế vệ tinh” ngoài nước. Gần đây
VN cũng đã có những bước tiến rất đáng kể trong vấn đề này như việc khuyến
khích Việt kiều về đầu tư, sửa đổi thủ tục mua nhà, miễn visa khi về nước. Ta đã
xúc tiến hội nhập toàn cầu thì không có lí do gì mà không cố gắng hội nhập với
“kinh tế vệ tinh” của nhóm dân Việt sống nơi đất khách quê người.
Tranh chấp quốc tế
Tranh chấp thương mại là một thực tiễn tất yếu của thương mại quốc tế và có xu
hướng ngày càng tăng về số lượng, đa dạng về hình thức, từ tranh chấp hợp đồng,
kiện bán phá giá…tới các khiếu kiện liên quan đến bản quyền. Các vụ cá tra, cá

basa, tôm, giày dép VN bị kiện bán phá giá tại thị trường Mỹ, canada, EU, tranh
chấp thương hiệu kẹo dừa, võng xếp…cho chúng ta kinh nghiệm thực tiễn về một


20

thế giới thương mại vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thực tế cho thấy, các vụ kiện
tương tự sẽ tăng tỷ lệ thuận với mức độ hội nhập của nền kinh tế.
Nói tóm lại, bàn thân cơ hội thì tự nó không thể biến thành lực lượng vật chất
trên thị trường được mà còn tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng của chúng ta.
Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc
vào nỗ lực vươn lên của chúng ta, như Thủ tướng đã từng nói: “Cơ hội và thách
thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách
thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển…”. Và ta có
thể ví von bản chất của hội nhập kinh tế như là một trận đấu, ai thông minh sáng
suốt thì được sẽ nhiều hơn mất, ai dại khờ sơ hở thì mất nhiều hơn được, có thể
được, mất rất lớn nhưng hầu như không thể được hết hoặc mất hết. Chỉ có một
tình huống chắc chắn mất hết đó là thu mình lại, đóng cửa, cự tuyệt HNKTQT.
2.3. Thực trạng HNKTQT của nước ta
2.3.1 Những mặt được
Thực hiện chủ động HNKTQT, nước ta đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
vượt qua được những khó khăn về thị trường do những biến động ở Liên Xô cũ
và Đông Âu gây ra, phá được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo
được môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực vào
cuối những năm 90 thế kỷ trước. HNKTQT đã góp phần quan trọng giúp VN
trong hàng thập kỷ giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 6,7 đến 8%,
đạt mức thứ nhì Châu Á và thế giới và đặc biệt trong vòng 10 năm nay, giảm tỷ
lệ hộ nghèo từ 40% xuống còn hơn 8% vào năm 2004, đạt kết quả xoá đói, giảm

nghèo được Liên hiệp quốc, một số tổ chức tài chính toàn cầu và nhiều chuyên
gia quốc tế đánh giá là đứng đầu trên thế giới. ( www.mofa.gov.vn )
Thu hút được đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển chính
thức, xuất khẩu nhập khẩu tăng nhanh. Từng bước đưa hoạt động của các doanh
nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, góp phần tạo dựng tư duy kinh
tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.


21

2.3.2 Những yếu kém
Chủ trương chủ động HNKTQT đã được khẳng định rõ trong nhiều Nghị quyết
của Đảng, quy định của Nhà nước và đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận
thức về nội dung, bước đi, lộ trình HNKTQT chưa đạt được sự nhất trí cao và
nhất quán; một bộ phận cán bộ chưa thấy hết và chưa chủ động tranh thủ những
thời cơ mở ra, để từ đó có có kế hoạch thúc đẩy kinh tế nước ta chủ động hội
nhập có hiệu quả; cơ cấu kinh tế chậm được chuyển dịch để luôn phát huy được
lợi thế so sánh của đất nước; không ít chủ trương, chính sách chậm được đổi mới
cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập.
Công tác HNKTQT mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương và
một số thành phố lớn, sự tham gia của các ngành, các cấp, của các doanh nghiệp
còn yếu và chưa đồng bộ. Nhân dân chưa được thông tin đầy đủ về công việc
HNKTQT của đất nước
Doanh nghiệp nước ta nói chung còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật
pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh thấp, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự
bao cấp và bảo hộ của Nhà nước còn nặng.
Tỷ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp, quy mô xuất khẩu còn
nhỏ, nhập siêu còn lớn. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với một số nước xung
quanh, chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập

đoàn kinh tế lớn, chưa chủ động thu hút vốn đầu tư gián tiếp quốc tế. Việc giải
ngân vốn ODA còn chậm, chiến lược vay và trả nợ nước ngoài chưa được chuẩn
bị thật tốt.
Hệ thống pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, nhất quán và còn khoảng cách khá
lớn so với các định chế của WTO; trong bộ máy hành chính còn không ít biểu
hiện của bệnh quan liêu và tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ yếu kém, nguồn
nhân lực chưa được đào tạo tốt…
2.4. Những thành tựu đạt được trong HNKTQT hiện nay
Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, VN xếp thứ 48/53 nước được xem
xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002
nước tham gia xếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005


22

giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các nước xếp hạng, và theo công bố mới
đây ngày 31/10 VN được xếp hạng thứ 68/131 quốc gia và vùng lãnh thổ về khả
năng cạnh tranh toàn cầu (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF)
Do hội nhập, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm
1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5
tỷ USD năm 2005, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5
tỷ USD trong năm 2007. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng đáng kể từ 2,75 tỷ
USD năm 1990 lên đến 44,41 tỷ USD năm 2006, riêng 7 tháng đầu năm nay thì
tổng kim ngạch nhập khẩu đã là 32.24 tỷ USD, và sẽ còn tiếp tục tăng trong
những tháng tiếp theo. Nhiều nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã đạt kim ngạch
trên 1 tỷ USD như dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản và giày dép. Cơ cấu hàng xuất
khẩu có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu đạt trên
40% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong khi đầu những năm 90 chỉ ở mức dưới
30%). Thị trường không ngừng được mở rộng, từ chỗ chỉ có quan hệ thương mại
với các nước Đông Âu là chính, đến nay VN đã có quan hệ kinh tế thương mại

với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. ( www.mofa.gov.vn )
Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển (ODA): Bằng chính
sách đầu tư hấp dẫn, đến nay, đã có trên 78 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào
VN, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực tài chính - công nghệ,
góp phần thay đổi trình độ sản xuất của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm nay đã
có 47 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư. Về nguồn ODA, hơn 4,4 tỷ
USD là mức cam kết mà các nhà tài trợ dành cho VN năm 2007. Lượng vốn thực
hiện trong 9 tháng qua ước đạt hơn 3 tỷ USD tăng khoảng 20% so với cùng kỳ
năm trước và là mức cao nhất từ trước tới nay. (Báo Nhân dân ngày 21/11/2007)
Hội nhập giúp ta tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ quản lý tiên tiến, góp
phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh và công nhân kỹ thuật lành nghề.
Với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư và
hỗ trợ tài chính quốc tế, HNKTQT thời gian qua đã góp phần đáng kể đảm bảo
tăng trưởng cao của nền kinh tế VN. Tạo thêm được 350.000 việc làm mới, cải
thiện đời sống nhân dân. Cơ cấu của nền kinh tế cũng có những bước tiến bộ rõ
rệt, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 36%, dịch vụ trên 39% và nông lâm


23

ngư nghiệp 24%, từng bước tạo ra được một nền kinh tế mở, năng động, có khả
năng thích ứng với những thay đổi diễn ra trong nền kinh tế thế giới.
Khái quát một vài con số cụ thể về kinh tế VN trong 9 tháng đầu năm nay
Đầu tư: ước đạt 334,8 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước
tính cả năm 2007, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện có thể đạt 465
nghìn tỷ đồng, bằng 40,9% tổng sản phẩm trong nước và tăng 16,6% so với năm
2006. Từ đầu năm đến 22/9/2007 đã cấp phép 1045 dự án đầu tư trực tiếp vốn
nước ngoài với tổng vốn đăng ký 8,29 tỷ USD, nếu tính cả 1,32 tỷ USD vốn đăng
ký bổ sung của 274 dự án được cấp phép các năm trước thì tổng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đăng ký trong 9 tháng lên tới 9,61 tỷ USD, tăng 38% so với cùng

kỳ năm trước. Dự kiến cả năm 2007 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 13
tỷ USD.
Sản xuất công nghiệp: Ước tính 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính cả
năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,2% so với năm 2006
Nông, lâm, ngư nghiệp: Ước tính chung, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ
sản 9 tháng năm 2007 tăng gần 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nông
nghiệp tăng 2,6%; lâm nghiệp tăng 1,1% ; thuỷ sản tăng 9,6%. Ước đạt cả năm
2007 của khu vực này có thể đạt tốc độ tăng trưởng 4,3% trong đó nông nghiệp
tăng 2,8%; lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng 9,8%.
Xuất nhập khẩu: Ước tính đạt 35,2% tỷ USD, tăng 19,4% so với 9 tháng năm
2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu 15,4 tỷ USD, tăng 24,9% ;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt trên 14 tỷ USD, tăng
31,7%.
Du lịch: Lượng khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng qua ước đạt 3,2 triệu lượt
người, tăng 18,5% so với 9 tháng năm 2006, trong đó: khách đến du lịch, nghỉ
ngơi gần 2 triệu lượt người, tăng 28,9%; khách đến vì công việc 481,4 nghìn lượt
người, tăng 14,2%; khách thăm thân nhân 455,7 nghìn lượt người tăng 4,5%.
Từ những con số trên có thể thấy những thành tựu tương đối mà Việt Nam đạt
được trong thời gian gần đây, và nó cũng chứng tỏ rằng nền kinh tế VN đang
ngày càng phát triển.


24

Chương III _ CHỦ ĐỘNG HNKTQT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
THÚC ĐẨY HNKTQT CỦA VIỆT NAM
3.1. Chủ động HNKTQT _ một yêu cầu khách quan
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự
tác động của một loại xu thế mới, nổi bật là sự phát triển bùng nổ của Cách mạng
khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, xu thế chuyển từ đối

đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát
triển kinh tế.
Với xu thế vận động đó, quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra ngày
càng sâu rộng, việc xã hội hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ở quy mô
toàn cầu đã tăng thêm quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, quan hệ tùy thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia. Chủ động HNKTQT đã và đang trở thành một trào lưu,
một nhu cầu khách quan, và cấp thiết đối với tất cả các nước. Một cách khái quát
có thể nêu lên những nhân tố chính thúc đẩy quá trình HNKTQT như sau:
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
- Hoạt động thương mại, tài chính-tiền tệ và đầu tư quốc tế gia tăng mạnh mẽ
theo xu hướng tự do hóa.
- Thương mại hàng hóa, dịch vụ ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong
GDP của các nước.
- Các công ty xuyên quốc gia (TNC) ngày càng lớn mạnh đóng vai trò tiên phong
của quá trình toàn cầu hóa.
- Sự thay đổi cơ bản về khái niệm an ninh, lấy phát triển kinh tế là cách thức hữu
hiệu để bảo đảm an ninh cho mỗi quốc gia.
Những yếu tố trên, đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa, đã làm cho HNKTQT
trở thành xu thế tất yếu khách quan, một quy luật xã hội. Bất cứ một nền kinh tế
nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực chủ
động hội nhập vào xu thế chung. Phương châm của VN ta là đa dạng hóa quan hệ
thị trường và đối tác trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đôi bên cùng có lợi. Chúng ta tham gia vào tiến trình
hội nhập với mục đích thu hút vốn đầu tư nước ngoài, những kỹ thuật công nghệ


25

mới và kinh nghiệm quản lý tiên tiến … Từ đó xây dựng uy tín và khẳng định vị
trí của mình trên trường quốc tế. ( www.toquoc.gov.vn )

3.2. Các giải pháp thúc đẩy HNKTQT
3.2.1 Nhóm giải pháp về điều chỉnh, kiện toàn chính sách và các biện pháp
thực hiện chính sách thương mại
* Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý, xây dựng chiến lược
và lộ trình hội nhập [1, trang 257-260]
Nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Trước hết tập trung vào:
- Soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ
thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật pháp quốc tế
- Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị
trường cho mọi loại hàng hoá và dịch vụ.
- Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân
hàng thương mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các
khoản vay và cho vay trên cơ sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình
thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất
đai và bất động sản. Cải cách chế độ kế toán và tài chính doanh nghiệp theo
chuẩn mực quốc tế.
- Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với
việc loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá.
- Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ
cấp để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ
thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm phù hợp với Hiệp định TBT và SPS
để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng.
- Kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công
cụ lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ giá ... để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao
chất lượng của công tác thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu
để xác định các cân đối lớn.



×