Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Một số giải pháp quản lí công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện quảng trạch, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.83 KB, 124 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________________________

PHẠM VĂN HUÝNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ CÔNG TÁC
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẢNG TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An - 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________________________

PHẠM VĂN HUÝNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ CÔNG TÁC
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẢNG TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH


Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HƯỜNG

Nghệ An - 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm đặc biệt, chân thành và sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn đến:
- Ban giám hiệu Trường Đại học Vinh;
- Phòng Đào tạo sau đại, khoa giáo dục đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong thời gian học tập và làm luận văn;
- PGS. TS Nguyễn Thị Hường, đã trực tiếp giảng dạy và tận tình hướng
dẫn trong suốt quá trình làm cho đến khi hoàn thành luận văn;
- UBND huyện Quảng Trạch,phòng Nội vụ huyện, phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Quảng Trạch đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn;
- Ban giám hiệu các trường THCS, các tổ chức Mặt trận, đoàn thể
chính trị - xã hội, nghề nghiệp trên địa bàn huyện Quảng Trạch đã giúp tôi
hoàn thành việc khảo sát đánh giá thực trạng để hoàn thiện luận văn này;
- Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến,
cung cấp thông tin, tài liệu, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn;
- Với tinh thần cố gắng hết mình, nhưng do tuổi đời còn trẻ, thâm niên
làm quản lý chưa nhiều, thời gian nghiên cứu và năng lực có hạn nên luận

văn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự chỉ
dẫn, góp ý phê bình của quý thầy cô và độc giả.
Nghệ An, tháng 10/2015
Tác giả
Phạm Văn Huýnh


4
MỤC LỤC
Trang


5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BCH TW
BCĐPC
CBQL
CMHS
CNH, HĐH
CNTT
CSVC - KT
CNV
CTXH
CP
GD&ĐT
GD
GDMN
GDTHĐĐT
HĐGD

HĐND
KT - XH
LLXH
MN
NXB
NQ-CP
THCS
UBND
XHH
XHHGD
XHCN
TH

Nội dung
Ban chấp hành Trung ương
Ban chỉ đạo phổ cập
Cán bộ quản lý
Cha mẹ học sinh
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghệ thông tin
Cơ sở vật chất - kỹ thuật
Công nhân viên
Chính trị xã hội
Chính phủ
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục
Giáo dục mầm non
Giáo dục tiểu học đúng độ tuổi
Hội đồng giáo dục
Hội đồng nhân dân

Kinh tế - xã hội
Lực lượng xã hội
Mầm non
Nhà xuất bản
Nghị quyết Chính phủ
Trung học cơ sở
Ủy ban nhân dân
Xã hội hóa
Xã hội hóa giáo dục
Xã hội chủ nghĩa
Tiểu học


6
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn có tầm chiến lược của
Đảng và Nhà nước nhằm tạo động lực và huy động mọi nguồn lực để phát
triển nền giáo dục; là một trong những phương thức để mọi người dân đều
có cơ hội được học tập đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Nghị quyết trung ương 2 (khoá VIII ngày 24/12/1996) đã khẳng định:
“Mọi người chăm lo cho giáo dục, các cấp uỷ và tổ chức Đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân đều

có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp GD & ĐT, đóng góp trí
tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho GD&ĐT. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường lành mạnh ở mọi nơi,
trong cộng đồng, từng tập thể”. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
cũng đã xác định: “Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp
toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục” và “Hoàn
thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện:
động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng
đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội
học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời”.
Xã hội hoá giáo dục là vận động, tổ chức sự tham gia của toàn xã hội
vào phát triển, sự nghiệp giáo dục nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ
về giáo dục. Xã hội hoá giáo dục không có nghĩa là xem nhẹ trách nhiệm và
sự đầu tư của nhà nước mà ngược lại nhà nước thường xuyên tìm thêm các
nguồn thu để tăng tỉ lệ ngân sách chi cho các hoạt động giáo dục, đồng thời
quản lí tốt để nâng cao sử dụng các nguồn kinh phí đó.


2

Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội và là yếu tố
quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng của nền giáo
dục Việt Nam hiện nay đặt ra vấn đề cần phải cải cách giáo dục và xã hội hoá
giáo dục là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện điều đó.
XHHGD là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất đảm bảo sự thành công của
cải cách giáo dục.
Công tác XHHGD ở các trường THCS huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế, bất cập. Việc huy động các nguồn lực tham gia XHHGD
ở mỗi trường, mỗi địa phương đạt hiệu quả chưa cao xuất phát từ nhiều

nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có vai trò quản lí của các
trường THCS. Mặt khác, công tác tổng kết, đánh giá chưa phản ánh cụ thể,
đầy đủ về công tác XHHGD trên địa bàn. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu của mình là:“Một số giải pháp quản lí công tác xã hội hoá giáo
dục ở các trường Trung học cơ sở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất các giải pháp
quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác XHHGD ở các trường THCS huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, đáp ứng yêu cầu và đổi mới giáo dục trong
giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý xã hội hóa giáo dục ở trường THCS
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý công tác XHHGD ở các trường THCS huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình


3

4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả công tác XHHGD ở các trường THCS huyện Quảng Trạch,
tỉnh Quảng Bình sẽ được nâng cao nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải
pháp quản lý một cách khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà
trường và địa phương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác XHHGD ở các
trường THCS.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác XHHGD ở các trường
THCS huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

5.3. Đề xuất các một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở trường
THCS huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu
Công tác quản lý XHHGD của hiệu trưởng 18 trường THCS trên địa
bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phân loại tài liệu…
nhằm xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp: điều tra Anket, phỏng vấn, quan sát, tổng
kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia… nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng
công tác XHHGD và quản lý công tác XHHGD ở các trường THCS huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý kết quả nghiên cứu


4

8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác XHGD ở trường THCS.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác XHHGD ở các trường THCS
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở các trường
THCS huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.



5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, ra đời, tồn tại và phát triển cùng
với xã hội loài người. GD chịu sự chi phối của nền kinh tế-xã hội, đồng thời
giáo dục góp phần to lớn trong việc tái tạo sức lao động xã hội, thúc đẩy xã
hội phát triển. Mỗi xã hội đều tồn tại một nền giáo dục tương ứng, xã hội
nào thì giáo dục ấy, không có nền giáo dục nào đứng ngoài xã hội hay một
nền giáo dục chung cho mọi chế độ xã hội.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời đại kinh tế tri thức, thời
đại mà con người cần phải: “Học để biết, học để làm, học để chung sống với
người khác, học để tự khẳng định mình và phát triển”. Nhưng trong thực tiễn,
không có một nhà trường nào, người thầy nào đủ sức để đưa hết những tri
thức, kỹ năng, thái độ vào dạy học trong nhà trường. Vì vậy, việc học tập
ngày nay không chỉ diễn ra trong nhà trường mà còn phải học trong gia đình
và ngoài xã hội với nhiều hình thức đa dạng phong phú phù hợp với điều kiện
của mỗi người. Việc học tập có thể kéo dài suốt đời, học khi có nhu cầu, có
điều kiện, học những gì cần cho cuộc sống, tự học, tự giáo dục để hướng tới
một xã hội học tập.
Công tác XHHGD không phải là công việc hoàn toàn mới đối với nền
GD Việt Nam mà thực chất đã có từ lâu, nhất là sau mỗi cuộc cải cách GD
(1950, 1956,1979) công tác XHHGD đều được đề cập và tiếp tục đưa vào
chính sách quan trọng để phát triển giáo dục. Đặc biệt, từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII thì GD được xem là “Quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho
GD là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Nghị quyết TW2 khóa VIII khẳng



6

định: “Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân”. Nghị quyết TW6 khóa IX, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh XHHGD,
xây dựng xã hội học tập, coi GD là sự nghiệp của toàn dân và XHHGD là
một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục”.
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ cũng đã ra
Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về “Phương hướng và chủ trương xã hội
hóa các hoạt động GD, y tế, văn hóa”. Ngày 18/4/2005 Chính phủ tiếp tục ban
hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
GD&ĐT. Ngày 24/6/2005, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
20/2005/QĐ-BGD&ĐT phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển XHHGD giai
đoạn 2005-2010”.
Luật GD Việt Nam được Quốc hội khóa XI thông qua ngày
14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 một lần nữa khẳng
định: “Phát triển GD, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước
và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp
GD; thực hiện đa dạng hóa các loại hình, trường và các hình thức GD;
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát
triển sự nghiệp GD…” [41, tr.13].
Từ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nhà
khoa học, nhà quản lý GD nước ta cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
về XHHGD như: Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc Bảo, hay tập thể các tác giả
Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình… và đã có những đóng
góp rất quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, trong đó đã cụ thể hóa và
hoàn thiện những quan niệm cơ bản về XHHGD.
Công trình: “XHHGD nhìn từ góc độ pháp luật” của tác giả Lê Quốc
Hùng nhấn mạnh: “Cần gấp rút rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật về GD&ĐT nói chung và về lĩnh vực XHHGD nói



7

riêng nhằm điều chỉnh có hiệu quả quá trình thực hiện XHHGD góp phần
xây dựng xã hội học tập, thực hiên chương trình GD cho mọi người…”.
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với
XHHGD, góp phần hoàn thiện pháp luật về XHHGD.
Tác phẩm “Xã hội hoá giáo dục” do Viện khoa học giáo dục xuất bản
(2001) nêu rõ: “Chức năng chủ yếu của giáo dục là hình thành và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ. Do đó, phát triển giáo dục không phải chỉ quan tâm đến
quy mô, tốc độ, số lượng mà đặc trưng chủ yếu là tổ chức quá trình giáo
dục… Xã hội hoá công tác giáo dục là huy động và tổ chức toàn xã hội làm
công tác giáo dục, nghĩa là thực hiện nội dung đặc trưng nói trên” [52, tr.5].
Khi đề cập đến công tác XHHGD, xây dựng xã hội học tập, nguyên
Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh
Cầm cho rằng: “Hiện nay chúng ta đã có chủ trương xây dựng xã hội học tập,
như vậy đây chính là động lực thúc đẩy để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người dân được học tập ở mọi lúc, mọi nơi”.
Điều đáng quan tâm là trên thực tế không chỉ ở các nước kém phát triển
mà ngay đối với các quốc gia có nền công nghiệp phát triển cũng đề ra nhiều
giải pháp đẩy mạnh công tác XHHGD để hoàn thiện và phát triển nền GD của
đất nước. Bởi vì, XHHGD là hệ thống định hướng hoạt động của mọi người,
mọi lực lượng xã hội nhằm hoàn lại bản chất xã hội của GD cho GD để tiến
tới xây dựng một xã hội học tập.
Như vậy, vấn đề XHHGD đã được đề cập, nghiên cứu trên nhiều
phương diện, cả về lý luận lẫn thực tiễn ở cả trong và ngoài nước. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về công tác XHHGD của các nhà khoa học, nhà
quản lý; nhiều luận án, luận văn cũng đã nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên,
đó là những vấn đề đúc kết mang tính khái quát hoặc cụ thể gắn liền với công
tác quản lý ở từng địa phương mang tính riêng biệt. Ở huyện Quảng Trạch,



8

tỉnh Quảng Bình vấn đề XHHGD ở các THCS đến nay chưa có tác giả nào
nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là
một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển
nền văn hóa xã hội, văn minh của nhân loại. Giáo dục có tính phổ biến và
vĩnh hằng, là nhân tố cốt lõi tồn tại khách quan cùng với sự ra đời, tồn tại phát
triển của xã hội loài người trong mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: “GD là quá trình tổ chức một cách có mục
đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người GD và
người được GD, nhằm phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần của thế hệ
đang lớn lên, trên cơ sở giúp họ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử của xã
hội loài người”[52, tr.10]. Giáo dục chuẩn bị cho mỗi cá nhân hòa nhập vào
cộng đồng, thể hiện vai trò, vị trí của cá nhân đối với cộng đồng. Qua đó, con
người được rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần
thiết, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp
với mục đích, mục tiêu, chuẩn bị bước vào đời sống xã hội. GD hướng tới con
người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những
tri thức và kinh nghiệm.
Phát triển giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là điều kiên tiên
quyết để phát triển nguồn lực con người. Mỗi quốc gia đều quan tâm đến việc
đổi mới nền GD của mình để phù hợp với sự phát triển của xã hội và xu
hướng phát triển của GD thế giới. GD vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển trên các mặt văn hóa, chính trị kinh tế, xã hội. Mọi chiến lược về
con người, về nguồn nhân lực, về khoa học - kỹ thuật, về chấn hưng văn hóa,

phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng… đều phải bắt đầu từ chiến lược GD.


9

Điều đó đã chứng minh vai trò GD là hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của một quốc gia.
1.2.2. Xã hội hóa; Xã hội hóa giáo dục
1.2.2.1. Xã hội hóa
Theo quan niệm của Các Mác: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”, nhân cách con người tất yếu phải được sự tác động tích cực của xã
hội làm cho con người có đầy đủ năng lực và phẩm chất để hòa nhập và đóng
góp vào sự phát triển của KT-XH. Như vậy, nhân cách người lao động phải
được hình thành từ gia đình, nhà trường và xã hội.
XHH là quá trình làm cho một cái gì đó mang tính xã hội, hay trở thành
cái chung của xã hội. XHH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội
học, là quá trình chuyển con người cá thể thành con người xã hội. Có nhiều
cách hiểu và định nghĩa khác nhau như:
“XHH là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội qua đó mà cá nhân
học hỏi và thực hành những tri thức, những kỹ năng và phương thức cần thiết
để hội nhập với xã hội” [19, tr.110].
“XHH được hiểu là làm cho một việc gì, một cái gì đó thành của chung
của xã hội” [53].
“XHH bao gồm tất cả các quá trình tiếp diễn văn hóa giao tiếp, học hỏi
qua đó cá nhân con người phát triển về bản chất xã hội và có khả năng tham
gia vào đời sống xã hội”.
Mặc dù định nghĩa có khác nhau nhưng cốt lõi của XHH là mối tương
tác thuộc tính vốn có của con người, của cộng đồng tác động vào xã hội, đồng
thời chịu ảnh hưởng từ xã hội. XHH không phải là quá trình thụ động mà phải
là một quá trình hội nhập có vai trò chủ động, tự giác và sáng tạo của cá nhân.

XHH là một quy luật diễn ra trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, xã hội càng


10

phát triển bao nhiêu thì càng gần XHH bấy nhiêu. Tuy nhiên, khi xã hội càng
phát triển thì phương thức XHH cũng sẽ khác.
Bản chất của XHH là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi
người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có
kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc
giải quyết các vấn đề xã hội thực sự của dân và vì dân.
Đặc điểm cơ bản của XHH là tăng cường sự quản lý Nhà nước bằng
pháp luật. XHH gắn với mở rộng dân chủ, khuyến khích động viên tinh thần
tự quản, tự chịu trách nhiệm của mọi cá nhân và tổ chức đoàn thể xã hội.
Khắc phục dần tính thờ ơ, phó mặc mọi công việc cho cơ quan Nhà nước.
XHH là thu hút mọi tổ chức xã hội, mọi thành phần kinh tế tham gia các dự
án phát triển của Nhà nước.
Theo quan niệm của Nhà nước ta thì XHH được hiểu là một cuộc vận
động rộng rãi quần chúng nhân dân, làm cho mọi người được hưởng đầy đủ
quyền lợi, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, tập thể đối với
lĩnh vực được XHH. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn vận
dụng và phát triển quan điểm XHH, coi trọng việc phát huy lực lượng toàn xã
hội vào tiến trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đến Đại hội VIII (tháng
6/1996) thì XHH trở thành một trong những quan điểm để hoạch định hệ
thống các chính sách xã hội: “các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo
tinh thần XHH. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi
người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ
chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội” [7, tr.114].
Như vậy có thể hiểu, XHH là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các

tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội
lành mạnh và thuận lợi, cũng như đa dạng hóa các hình thức hoạt động, mở


11

rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực,
phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, các nguồn lực
khác, thực hiện công bằng trong chính sách xã hội, công bằng trong việc huy
động nguồn lực của nhân dân cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao.
1.2.2.2. Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa GD là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động
GD và cộng đồng xã hội, làm cho GD phát triển phù hợp với sự phát triển xã
hội. XHHGD là cách nói gọn của XHH công tác GD với nội hàm là phương
thức, cách thức, phương châm, cách làm GD, tổ chức và quản lý giáo dục.
XHHGD là một chiến lược trong đường lối GD của Đảng, là một trong ba
tiêu chí: chuẩn hóa, hiện đại hóa và XHH của GD Việt Nam hiện nay. Đồng
thời XHHGD cũng là một trong các giải pháp cơ bản để thực hiện chiến lược
GD và nâng cao chất lượng GD.
Đặc điểm của XHHGD là mở rộng quy mô, mở rộng trách nhiệm giáo
dục, chuyển hướng từ giáo dục tinh hoa thành giáo dục đại chúng, giáo dục
cho mọi người và tiến tới một xã hội học tập. Hoạt động GD từ chỗ là trách
nhiệm của ngành GD, do Nhà nước đảm trách trở thành trách nhiệm của mọi
cá nhân, tập thể, cộng đồng cùng chăm lo. XHHGD là quá trình tăng cường
tính xã hội của GD lên tầm cao hơn, đa phương hóa nguồn lực, đa dạng hóa
các loại hình đào tạo, cộng đồng hóa trách nhiệm.
Thực hiện XHHDG là thực hiện chức năng GD của xã hội, là trả lại bản
chất cho GD. GD không thể tách rời đời sống xã hội, phải mở cửa nhà trường
với xã hội bên ngoài. Chính vì do bản chất xã hội mà GD phải là sự nghiệp và
là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội, của từng gia đình, từng

cá nhân. Phải kết hợp chặt chẽ giữa GD nhà trường, gia đình và xã hội thì mới
đảm bảo cho GD phát triển có chất lượng và hiệu quả.


12

Tác giả Phạm Minh Hạc chỉ ra rằng XHHGD là: “Làm cho xã hội
nhận rõ trách nhiệm của GD, GD phục vụ đắc lực cho phát triển KT-XH,
thực hiện việc kết hợp GD trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều
kiện để GD kết hợp với lao động, học đi đôi với hành; XHHGD có quan hệ
hữu cơ với dân chủ hóa GD” [18, tr.18].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định:
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba
phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám
sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời”
[12, tr.15]
Như vậy, XHHGD được hiểu khái quát là toàn thể quần chúng nhân
dân cùng tham gia vào sự nghiệp GD, làm cho hoạt động GD trong nhà
trường trở thành công việc chung của toàn xã hội để thu hút mọi thành phần,
thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào hoạt động GD.
1.2.3. Quản lý; Quản lý giáo dục, Quản lý công tác xã hội hoá
giáo dục
1.2.3.1. Quản lý
Từ khi xã hội loài người được hình thành, hoạt động lao động của con
người được diễn ra để đáp ứng nhu cầu mưu sinh cho chính bản thân cũng
như cho toàn xã hội. Khi tính cộng đồng và sự hợp sức được hình thành thì tất
yếu phải có hoạt động tổ chức, phối hợp, điều khiển… tức là phải có sự quản
lý. Hoạt động quản lý ra đời như một tất yếu khách quan, hướng đến mục tiêu
mưu sinh và phát triển của cộng đồng xã hội. Xã hội loài người càng phát

triển thì yêu cầu về hoạt động quản lý ngày càng cao nhằm đáp ứng sự phát
triển của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.


13

Quản lý là một khái niệm được sử dụng thường xuyên trong nghiên cứu
khoa học về lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều quan niệm khác
nhau về quản lý, điều đó phụ thuộc vào quan điểm, tư tưởng của từng tổ chức,
cá nhân và từng thời kỳ lịch sử của xã hội.
Các Mác khẳng định: “Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các
công việc cá nhân và hình thành những chức năng chung, xuất hiện trong
toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của từng bộ phận riêng lẻ
của nó” [20, tr.195].
Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm: “Quản lý xã hội một
cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ
hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo
cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra” [19, Tr.46]
Thuyết quản lý “Hành chính” của Henri Fayol, cha đẻ của lý luận hành
chính nêu ra yêu cầu: “Trong quản lý đơn vị cần phải: Thực hiện đồng bộ các
chức năng quản lý; phân công, phân nhiệm hợp lý, chú ý đến quyền lợi và
trách nhiệm khi giao việc; cần có sự chỉ huy thống nhất và phải vừa tập trung
hóa vừa phi tập trung hóa; đảm bảo đối xử công bằng với mọi thành viên; chú
ý phát huy và khuyến khích mọi sáng kiến của cấp dưới; xây dựng tinh thần
đồng đội”.
Một số nhà GD Việt Nam trong quá trình nghiên cứu về lý luận quản lý
cho rằng: Quản lý là quá trình định hướng, quá trình tác động có mục tiêu đến
hệ thống, những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà
người quản lý mong muốn.

Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: Quản lý về bản chất bao gồm quá
trình “Quản và quá trình “Lý”. Quản là coi sóc, giữ gìn nhằm ổn định hệ
thống: “Lý” là thanh lý, xử lý, biện lý, sửa sang, chỉnh đốn nhằm làm cho hệ


14

thống phát triển. Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu là suy thoái; hệ phát
triển mà thiếu ổn định tất yếu dẫn đến rối ren, như vậy: Quản lý = ổn định +
phát triển [1,tr.176].
Theo tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể đến tập thể người lao động (nói chung là khách
thể quản lý) nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến”. [21, tr.31].
Còn theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý nhằm phối hợp nỗ lực
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành
tựu của xã hội” [33, tr.8].
Tóm lại, có thể hiểu: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có chủ
đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, bằng cách
vận hành các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và sử dụng
các nguồn lực như: nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin, nhằm sử dụng có
hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra
của tổ chức.
Như vậy “Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ
thuật” và “Hoạt động quản lý vừa có tính chất khách quan, vừa mang tính chủ
quan, vừa có tính Pháp luật Nhà nước, vừa có tính xã hội rộng rãi… chúng là
những mặt đối lập trong một thể thống nhất”.
1.2.3.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người, bản chất của
GD là truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Giáo dục là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một

trong những nhân tố đánh dấu nấc thang trình độ văn minh của các thời đại
trong lịch sử.
Quản lý GD là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi
những mục tiêu đề ra. Nhà quản lý bằng hành động của mình, tác động có


15

mục đích, có kế hoạch tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động dạy và học
của hệ thống GD đạt kết quả tốt nhất như mong muốn.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý GD là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của các chủ thể quản lý, nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống GD tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất” [29, tr.35].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là những tác động tự giác
(có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tất cả các mắc xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở
GD là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát
triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD” [33, tr.10].
Quản lý GD có quy mô và cấp độ đa dạng phức tạp, tầng thứ bậc, nhiều
yếu tố cấu trúc khác nhau và chịu sự tác động của các yếu tố khách quan, luôn
vận hành và tương tác trong mối quan hệ nhưng lại theo quy luật. Vì vậy, cần
phải hiểu rõ để thường xuyên đổi mới, cải tiến tư duy quản lý GD phù hợp với
yêu cầu hiện nay.
Như vậy, có thể hiểu QLGD là những tác động tự giác có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tất
cả các khâu của hệ thống từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường,
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD&ĐT thế hệ

trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD.
1.2.3.3. Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
Quản lý công tác XHHGD là một bộ phận của quản lý GD. Quản lý
công tác XHHGD là việc hiện thực hóa các mục tiêu của XHHGD theo cách


16

có hiệu quả và hiệu suất cao, thông qua việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm tra các yêu cầu thực hiện công tác XHHGD.
Quản lý công tác XHHGD là quá trình tác động có định hướng, có tổ
chức của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự phối hợp các
lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động GD của nhà trường đến địa bàn
dân cư.
Việc triển khai thực hiện các mục tiêu, chương trình, cũng như kế
hoạch hóa các loại hình GD phải đảm bảo đúng quan điểm “Nhà nước thống
nhất quản lý” và tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở
GD”. Quản lý công tác XHHGD là quản lý nguồn đầu tư từ ngân sách của
Nhà nước và các nguồn kinh phí khác. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cấp
ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ sở GD phải được tham
gia hoạch định công tác XHHGD (Chiến lược, chỉ đạo và tổ chức thực hiện).
Để nâng cao chất lượng GD nói chung và giáo dục THCS nói riêng
trong điều kiện hiện nay thì việc thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động
XHHGD là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý của trường học.
1.2.4. Giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
1.2.4.1. Giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt, giải pháp là cách giải quyết một vấn đề (giải
pháp chính trị, quân sự) [54, tr.415].
1.2.4.2. Giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
Giải pháp quản lý công tác XHHGD là những nội dung mà các nhà

trường THCS phải thực hiện để công tác quản lý XHHGD ngày một có hiệu
quả hơn
Như vậy để thực hiện được quản lý công tác XHHGD có hiệu quả, tạo
động lực thúc đẩy phong trào giáo dục toàn diện trong nhà trường, đòi hỏi nhà
quản lý mà trực tiếp là Hiệu trưởng phải nghiêm túc thực hiện quy trình, các


17

chức năng quản lý nói chung và quản lý công tác XHHGD nói riêng. Đặc biệt
chú trọng đến cách giải quyết các vấn đề làm cho quản lý công tác XHHGD
đi vào chiều sâu có hiệu quả.
Đứng trên góc độ lý thuyết chức năng quản lý nói chung có bốn chức
năng xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế
hoạch, kiểm tra đánh giá. Trong đó chức năng xây dựng kế hoạch có vai trò
hết sức quan trọng là điểm nút ban đầu, là thời điểm mà người quản lý công
tác XHHGD phải đưa ra được các cách thức để giải quyết vấn đề mà công tác
quản lý XHHGD đang còn vướng mắc, thực hiện chưa có hiệu quả.
1.3. Một số vấn đề về công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
1.3.1. Vị trí, mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở
Giáo dục THCS có vị trí hết sức quan trọng trong bậc học giáo dục phổ
thông, là cấp học trung gian giữa Tiểu học và trung học phổ thông vì thế sự
quan tâm của gia đình, xã hội có lúc, có khi, có những phần không bằng các
cấp học khác. Nhưng trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, cùng với sự phát
triển của khoa học -công nghệ, sự sôi động của nền kinh tế thị trường đòi hỏi
con người phải có lượng tri thức vừa chuyên sâu, vừa phong phú để đáp ứng
nhu cầu của công việc. Điều đó cho thấy tầm quan trọng, vai trò của tất cả các
bậc, để giải quyết được vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và bậc
THCS nói riêng cần có sự tham gia của toàn bộ xã hội vào GD mới đảm bảo
cho GD phát triển bề vững. Công tác XHHGD thể hiện tư tưởng chiến lược,

coi sức mạnh của toàn xã hội là điều kiện không thể thiếu để phát triển giáo
dục có chất lượng và hiệu quả.
Nền GD Việt Nam là nền giáo dục XHCN, của dân, do dân và vì dân.
Vì vậy mà bất cứ loại hình đào tạo nào, cấp học nào cũng gắn với đời sống
nhân dân. Đảng ta luôn khẳng định: Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Do


18

đó, chủ trương toàn dân, toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp GD ngày nay trở
thành phong trào rộng lớn và phát triển mạnh mẽ.
Tóm lại mục tiêu giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát
triển những kết quả của giáo dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ
cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
Trung học phổ thông, trung cấp học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục
trung học cơ sở
XHHGD là một chủ trương lớn mang tầm chiến lược lâu dài trong
đường lối phát triển GD của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó xuất phát
từ bản chất xã hội vốn có của GD, là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng
và nó đã trở thành một cuộc vận động lớn mang lại hiệu quả rất thiết thực.
XHHGD có ý nghĩa, tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển GD&ĐT
đó là:
XHHGD tiếp tục khẳng định quan điểm: Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng, đề cao một nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Làm cho xã
hội nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của GD. GD chính là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. GD đóng vai trò
“trồng người”, là cơ sở phát triển KT-XH của đất nước, của địa phương. Từ
đó, góp phần nâng cao nhận thức về trách nhiệm của mỗi người, của xã hội
đối với sự phát triển GD và đó cũng chính là cơ sở để giáo dục đầu tư, phát

triển đúng hướng.
XHHGD sẽ huy động được nhiều nguồn lực như: nhân lực, vật lực, tài
lực cho sự phát triển nhất là quy mô GD. Huy động nguồn nhân lực là tạo mọi
điều kiện phát huy tốt nhất năng lực của mọi cá nhân, các lực lượng xã hội để
họ tự nguyện cống hiến tiềm năng, tinh thần, vật chất cho GD. Đây là nguồn
quan trọng, quyết định, bởi mọi sự việc đều bắt đầu từ con người, con người


19

là giá trị tạo ra mọi giá trị. Huy động nguồn vật lực, tài lực là tạo ra sự hỗ trợ
các điều kiện vật chất và tinh thần cho các hoạt động GD; chia sẻ chi phí giữa
Nhà nước với người thụ hưởng dịch vụ, đồng thời để giải quyết mâu thuẫn
giữa khả năng tài chính có hạn của Nhà nước với việc đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân về GD. Việc huy động được nhiều nguồn tài chính
trong nhân dân, trong xã hội để phát triển GD là một yêu cầu quan trọng đối
với công tác XHHGD.
XHHGD sẽ phát huy được sự hợp tác, hỗ trợ của nhiều ngành chuyên
môn qua việc liên thông với thị trường bên ngoài, tạo điều kiện cho GD&ĐT
mở rộng phạm vi hoạt động; có môi trường thuận lợi để phát triển vững chắc,
đúng hướng nhằm đào tạo những con người thích ứng với xã hội, thích ứng
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang cần.
XHHGD góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT. Thông qua việc huy
động toàn xã hội tham gia vào việc cụ thể hóa mục tiêu, cải tiến nội dung và
phương pháp GD, tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật chất, kết hợp ba môi
trường GD: nhà trường - gia đình - xã hội để tạo nên sản phẩm GD. XHHGD
là phương thức đặc biệt, vừa thực hiện, vừa tự kiểm tra, đánh giá. Do vậy,
hoạt động GD - dạy học luôn luôn được cải tiến đổi mới, góp phần làm cho
chất lượng GD được nâng cao.
XHHGD tạo ra một xã hội học tập, một động lực để thực hiện mục tiêu

giáo dục góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. XHHGD giúp cho những ai muốn học đều có cơ hội đến trường, có
nơi học tập, thực hiện sự công bằng, bình đẳng về cơ hội học tập, cơ hội
hưởng thụ về lợi ích GD, thực hiện nghĩa vụ GD đối với bản thân, cộng đồng,
xã hội. Chính trong xã hội học tập có chọn lọc sẽ đào tạo ra những tinh hoa,
những nhân tài đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và nền kinh tế tri thức.


×