Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác liên kết đào tạo đại học ở trung tâm giáo dục thường xuyên quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.17 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
LIÊN KẾT ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Thái Văn Thành

NGHỆ AN, NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả của Luận văn thạc sỹ này, trước hết bằng những
tình cảm chân thành của mình, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến đến
PGS.TS Thái Văn Thành, Thầy đã tận giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn cho
tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Khoa Giáo dục, Phòng đào tạo sau đại học, Hội
đồng khoa học, Ban giám hiệu, các giảng viên của Trường Đại học Vinh đã
tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo, cán bộ
văn phòng UBND tỉnh và Sở Giáo dục & Đào tạo Quảng Bình; giảng viên
của các trường Đại học về giảng dạy tại Trung tâm GDTX Quảng Bình, cùng
toàn thể cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên của Trung tâm GDTX Quảng


Bình đã quan tâm, tạo điều kiện, tận tình giúp đỡ và cung cấp đầy đủ số liệu,
cũng như những thông tin liên quan đến luận văn.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực cố gắng trong quá trình thực hiện, nhưng vì
thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận văn sẽ không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong tiếp tục nhận được ý kiến góp ý, trao
đổi của quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn
thiện và đề tài có giá trị thực tiễn cao hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Hoài Phương


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC LIÊN
KẾT ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở TRUNG TÂM GDTX CẤP TỈNH

5
11

1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.2 Một số khái niệm cơ bản

11

1.3 Một số vấn đề về LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh

Một số vấn đề về quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm
1.4 GDTX cấp tỉnh

23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC LIÊN KẾT ĐÀO
TẠO ĐẠI HỌC Ở TRUNG TÂM GDTX QUẢNG BÌNH

2.1 Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội, giáo dục tỉnh Quảng Bình
2.2 Khái quát về điều tra thực trạng
Thực trạng quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX
2.3 Quảng Bình
Thực trạng các giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở
2.4 Trung tâm GDTX Quảng Bình
2.5 Đánh giá chung về thực trạng
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC LIÊN KẾT ĐÀO
TẠO ĐẠI HỌC Ở TRUNG TÂM GDTX QUẢNG BÌNH

3.1 Những nguyên tắc đề xuất giải pháp
Các giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm
3.2 GDTX Quảng Bình
3.3 Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất

17

29
36
36
53
54

64
69
75
75
76
94

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

101

Kết luận

101

Kiến nghị

102

Tài liệu tham khảo

106

Phụ lục nghiên cứu

110


4



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

Viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Giáo dục thường xuyên

GDTX

Xã hội học tập

XHHT

Giáo dục & Đào tạo


GD&ĐT

Liên kết đào tạo

LKĐT

Trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học

TCCN, CĐ, ĐH

Kinh tế - xã hội

KT-XH

Cơ sở vật chất

CSVC

Bổ túc văn hóa

BTVH

Giáo dục không chính quy

GDKCQ

Vừa làm vừa học

VLVH


12. United Nations Educational, scientific

and Cultural Organization.
13.
14.

Viết tắt

UNESCO

Cán bộ quản lý

CBQL

Ủy ban nhân dân

UBND

15. Giáo viên

GV


6

16.
17.
18.
19.

20.
21.

Học viên

HV

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

Ban đại diện

BĐD

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT

Cán bộ, giáo viên, nhân viên

CB, GV, NV

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định

con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta khẳng định con người và việc phát triển
nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định cho sự phát triển
bền vững, bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Về giáo dục
và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công
nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam....”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát


7

triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững.
Trong việc đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện nay, giáo dục Đại học có vai trò
rất quan trọng, Chỉ thị số 296/CT-TTg, ngày 27/02/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục Đại học giai đoạn 2010-2012 đã nêu
rõ: “...Giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa
dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn nhân lực xã hội được
huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp nguồn nhân
lực trình độ cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần quan trọng
tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng
và hội nhập quốc tế thắng lợi” [4, 1].

Để đào tạo nguồn nhân lực trình độ Đại học cho xã hội hiện nay, ngoài
giáo dục chính quy còn có giáo dục thường xuyên (GDTX). GDTX có vai trò
không nhỏ trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nhất là việc xây dựng một xã
hội học tập (XHHT) theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 (khoá XI)
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Điều này đã được quy định tại Luật giáo dục sửa
đổi năm 2009 là: “Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học,
học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết,
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng
cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện
giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập” [6;67].


8

Tại khoản 4, Điều 46, Luật giáo dục sửa đổi năm 2009, quy định: “...Cơ
sở giáo dục đại học khi thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên lấy
bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học chỉ được liên kết với cơ sở
giáo dục tại địa phương là trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp,
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh....” [19;70].
Trong những năm qua, GDTX nước ta đã có những bước phát triển
nhanh chóng thành một hệ thống mạng lưới rộng khắp, khép kín từ cấp tỉnh
(thành phố) tới các quận, huyện, thị xã trên địa bàn cả nước và đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Một trong những thành tựu nổi bật của hệ thống
GDTX là công tác liên kết đào tạo (LKĐT) góp phần tích cực vào việc đào
tạo nguồn nhân lực, từng bước nâng cao mặt bằng dân trí, tăng tỷ lệ người lao
động qua đào tạo đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội. Thông qua
hoạt động, GDTX đã thực sự khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong hệ

thống giáo dục quốc dân, trở thành một phương thức đào tạo không thể thiếu
bên cạnh hình thức chính quy trong hệ thông giáo dục Đại học.
Từ thực tiễn cho thấy, việc LKĐT ở các Trung tâm GDTX cấp tỉnh có vị
trí, vai trò khá quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học cho
các địa phương, bởi thực hiện nhiệm vụ này là tạo cơ hội học tập cho nhiều
đối tượng có nhu cầu học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà
không có điều kiện để tham gia học tập hệ chính quy; giúp người học giảm
bớt gánh nặng về tài chính do được đào tạo tại địa phương; giúp cho địa
phương chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực đảm bảo về cơ cấu, số
lượng, chất lượng đào tạo, đồng thời giảm gánh nặng phần ngân sách đầu tư
cho đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, thông qua đó cũng góp phần thực
hiện tốt công bằng và xã hội hóa giáo dục. Điều quan trọng nhất là LKĐT Đại
học tại địa phương sẽ giải quyết được bài toán giữa đào tạo và sử dụng sản
phẩm của đào tạo (địa phương cần cái gì thì đào tạo cái đó)...


9

Thực hiện nhiệm vụ “Liên kết, hỗ trợ các trường Trung cấp chuyên
nghiệp, Cao đẳng, Đại học (TCCN, CĐ, ĐH) tổ chức thực hiện chương trình
đào tạo không chính quy ở địa phương”, đồng thời để đáp ứng yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội (KT-XH) của
tỉnh Quảng Bình, từ ngày thành lập (10/01/1997) đến nay (tháng 03/2015),
Trung tâm GDTX Quảng Bình đã và đang liên kết với hơn 20 trường Đại học,
hịc viện có uy tín, chất lượng cao trên cả nước để mở lớp đào tạo với 37
chuyên ngành thuộc các lĩnh vực kinh tế, xã hội, kỹ thuật, sư phạm, ngoại
ngữ,... đã tạo cơ hội thuận lợi cho gần 12.000 người tham gia học Đại học;
phối hợp với các trường, các cơ sở giáo dục tổ chức bồi dưỡng cho 13.954 lượt
người được cập nhật kiến thức, kỹ năng mới, góp phần đào tạo nguồn nhân lực


chất lượng cao phục sự nghiệp CNH, HĐH địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển về số lượng, quy mô đào tạo, nằm
trong thực trạng chung của các trung tâm GDTX cấp tỉnh trên phạm vi cả
nước, hiện nay Trung tâm GDTX Quảng Bình vẫn đang bộc lộ những hạn
chế, đó là: Chất lượng đầu vào thấp; công tác tuyển sinh vẫn còn một số bất
cập; quy mô đào tạo không đồng đều, có lớp số lượng quá đông (trên 150 học
viên/lớp), có lớp số lượng quá ít; cơ sở vật chất (CSVC) chưa đảm bảo cho
đặc thù một số môn học; hợp đồng LKĐT mỗi trường lại có các điều khoản
khác nhau; chất lượng đào tạo một số ngành còn thấp, chưa theo kịp đòi hỏi
phát triển KT-XH hiện nay... Trước yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng
GD&ĐT, vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại học ở các Trung tâm GDTX cấp
tỉnh trên toàn quốc nói chung, Trung tâm GDTX Quảng Bình nói riêng đã và
đang là vấn đề cấp thiết, quan trọng cả về trước mắt và lâu dài.
Thực tế tại tỉnh Quảng Bình nói riêng và trên toàn quốc nói chung cho
đến thời điểm này, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên


10

sâu, có hệ thống vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX
Quảng Bình.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý
công tác liên kết đào tạo Đại học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình” làm đề
tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp
quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo Đại học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu

Vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp đảm bảo tính khoa học, có tính khả thi
thì hiệu quả quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình
sẽ được nâng cao
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại
học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại
học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung
tâm GDTX Quảng Bình
6. Phương pháp nghiên cứu


11

6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp phân tích và
tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa lý thuyết, mô hình hoá để thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu lý luận của đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu thu được
7. Đóng góp của luận văn

7.1. Về mặt lý luận: Góp phần khái quát hóa lý luận về quản lý công tác
LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh.
7.2. Về mặt thực tiễn
Đưa ra bức tranh xác thực về thực trạng LKĐT Đại học ở Trung tâm
GDTX cấp tỉnh và thực trạng quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm
GDTX Quảng Bình. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác LKĐT ở
Trung tâm GDTX Quảng Bình.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác LKĐT Đại học ở
Trung tâm GDTX cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm
GDTX Quảng Bình
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung
tâm GDTX Quảng Bình


12

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC LIÊN
KẾT ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở TRUNG TÂM GDTX CẤP TỈNH
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Ở ngoài nước
GDTX thực sự được thế giới quan tâm từ sau Hội nghị giáo dục người lớn
thế giới lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1949 tại Đan Mạch. Đến thập kỷ
70, Edgar Farue, 1972 đã cho xuất bản cuốn sách “Học để tồn tại” đã làm
xoay chuyển nhận thức về giáo dục, đặc biệt là giáo dục người lớn đặt trong
khuôn khổ của giáo dục suốt đời. Cũng từ sau năm 1970, các nước phương

Tây đã coi trọng và phát triển GDTX để tiến tới xây dựng “xã hội học tập” là
xã hội mà trong đó mọi người được học tập thường xuyên, học liên tục và học
suốt đời. Sau đó GDTX mới bắt đầu được quan tâm ở các nước đang phát


13

triển bởi các nước này ý thức được rằng, đầu tư vào nguồn vốn nhân lực được
coi là đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào nguồn nhân lực không chỉ đơn giản là
đầu tư cho giáo dục phổ thông, giáo dục thế hệ trẻ ở các cấp học, mà còn là
đầu tư cho người lớn, đầu tư vào việc tăng lượng kiến thức, năng lực cho đội
ngũ lao động hiện có.
Tháng 7/1997 tại Humburg - Đức, Hội nghị lần thứ V về giáo dục người
lớn gồm các vị lãnh đạo Nhà nước, những người đứng đầu Chính phủ, phi
chính phủ và các tổ chức quần chúng, xã hội khác đã khẳng định: Vai trò giáo
dục của người lớn đó là chìa khóa để bước vào thế kỷ XXI. Thừa nhận sự
đóng góp to lớn của GDTX đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển KT-XH ở mỗi nước cũng như việc xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi
trường sinh thái và đối với sự phát triển cá nhân mỗi người.
Ngày nay, GDTX được đặt trong bối cảnh toàn thế giới có những thay đổi
lớn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... do quá trình toàn cầu
hóa, sự phát triển vượt trội của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Sự xuất hiện
của nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin đã và đang tạo ra những cơ hội,
nhưng đồng thời cũng là thách thức mới đối với GDTX ở tất cả các nước phát
triển cũng như đang phát triển. GDTX trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao
giờ hết nhằm giải quyết những vấn đề của thời đại như sự gia tăng nạn thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường, sự cách biệt giữa các nhóm xã hội khác nhau về
văn hóa, sắc tộc, tôn giáo và thu nhập. GDTX được coi là chìa khóa dẫn đến
thành công trong thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học còn cho rằng thế kỷ XXI là
thế kỷ của GDTX.

Vấn đề GDTX đã được mọi nước quan tâm, kể cả nước nghèo, các nước
đang phát triển và các nước phát triển. Tuy nhiên, việc phát triển GDTX ở các
nước là khác nhau tùy theo điều kiện và khả năng của từng nước, nhưng nét
chung là quan điểm giáo dục liên tục, giáo dục suốt đời, giáo dục cộng đồng


14

là hướng chỉ đạo, chi phối phát triển. Các nước đều mở rộng quy mô, hình
thức đào tạo, chuyển hướng giáo dục từ chỗ phục vụ chủ yếu cho thiểu số
sang nền giáo dục đại chúng, giáo dục cho mọi người. “Giáo dục cho mọi
người”, “xã hội học tập” đang là mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia. Kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực cũng khẳng định vai trò của sự
tham gia và làm chủ của cộng đồng đối với GDTX. Cộng đồng phải coi
GDTX là nâng cao dân trí, là trách nhiệm của mọi người, của địa phương
chức không phải của riêng ngành giáo dục.
1.1.2. Ở trong nước
Như chúng ta đã biết, với ý tưởng cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta, ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” mà chỉ sau 06 ngày khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 08 tháng 9 năm 1945 Bác Hồ đã ký Sắc
lệnh Nha Bình dân học vụ, một hệ thống giáo dục người lớn đầu tiên ở nước
ta và cũng là tiền thân của ngành giáo dục sau này. Tiếp những năm sau đó
hình thành hệ Bổ túc văn hóa (BTVH) và đào tạo bồi dưỡng tại chức, loại
hình giáo dục tiền thân của GDTX.
Từ năm 1993, các trung tâm GDTX cấp tỉnh đầu tiên ở nước ta được
thành lập, với chức năng cung cấp cơ hội học tập cho những người không có
điều kiện học tập tại các trường chính quy, trung tâm GDTX cấp tỉnh trên cả
nước đã liên kết với các Học viện, trường ĐH, CĐ mở nhiều lớp đào tạo trình
độ đại học, cao đẳng hệ không chính quy cho hàng nghìn người có cơ hội

được học tập và chính lực lượng đó đã góp phần quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển KT-XH của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách phát triển
giáo dục, đặc biệt là GDTX nhằm giúp nhiều người được học tập, thu hút
nhiều người tham gia xây dựng giáo dục, hướng tới một XHHT như đã nêu tại


15

Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa V tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986); Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII
(1993); Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996); Luật Giáo dục (2005);
Nghị quyết Đại hội IX (2001); Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng X (2006); Báo
cáo Chính trị Đại hội Đảng XI (2011).
Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng VI (1986) đã khẳng định vai trò của Giáo
dục không chính quy (GDKCQ) trong hệ thống giáo dục “...bố trí hợp lý cơ
cấu hệ thống giáo dục, thể hiện tinh thần thống nhất của quá trình giáo dục,
bao gồm nhiều hình thức đào tạo và bồi dưỡng, chính quy và không chính
quy”; “...Phát triển các hình thức giáo dục từ xa” [7;67].
... Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1993) đã đặt ra yêu cầu “cần phải
thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người” và xác định “học
tập suốt đời là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi người dân” [8;56]
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996) với chủ trương thực hiện công
bằng trong giáo dục “tạo điều kiện để ai cũng được học hành”; “tạo cơ hội
cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh
của mình” và “phát động phong trào rộng khắp toàn dân học tập, người người
đi học, học ở lớp và tự học suốt đời; người biết dạy người chưa biết, người
biết nhiều dạy người biết ít, mỗi người phải không ngừng nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển các hình thức giáo dục từ xa; tiếp
tục đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình trường học với đòi

hỏi của tình hình mới, với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và của toàn xã hội.
GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi
học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chăm
lo cho giáo dục. Các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và cá nhân đều có trách nhiệm


16

tích cực góp phần phát triển GD&ĐT, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài
lực cho GD&ĐT” [9; 89]
Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) đã chỉ rõ phát triển GDTX để cho
mọi người được học tập suốt đời và hướng tới xây dựng một XHHT. Đại hội
toàn quốc lần thứ X của Đảng tháng 4/2006 cũng khẳng định quan điểm:
"chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình
XHHT với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc
học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và
những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công
bằng xã hội trong giáo dục".
Luật Giáo dục (2005) đã đưa GDTX trở thành một bộ phận chính của hệ
thống giáo dục quốc dân (điều 4): “1. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo
dục chính quy và giáo dục thường xuyên”. Mục 5, chương II đã đề cấp tới
GDTX tại các điều 44, 45, 46, 47, trong đó, tại Điều 44.GDTX nêu rõ:
“...Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo
dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập”.
Tại Đại hội IX (2001), về GD&ĐT Nghị quyết nêu rõ: Phát huy tinh thần
độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học,
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào tự học tập trong nhân
dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện

“giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”...
Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng XI (2011) định hướng: “... Đẩy mạnh
phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các
phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung
tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các
chính sách xã hội trong giáo dục” [8;132]


17

GDTX ở Việt Nam đã có quá trình đồng hành cùng dân tộc, từ bình dân
học vụ đến BTVH và ngày nay là ngành học GDTX. Xu thế của thời đại là
hội nhập, đa phương hóa, đa dạng hóa, vì vậy giáo dục trong nhà trường chỉ
có ý nghĩa là giáo dục ban đầu. Một con người cụ thể, một quốc gia cụ thể
muốn khẳng định mình không thể không tự vươn lên bằng chính sức lực của
mình. Muốn vậy, là phải học, học suốt đời; mọi người phải học, mọi nhà phải
học, mọi ngành phải học, cả nước phải học. Sự ra đời của các trung tâm
GDTX là tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng xã hội.
Thế nhưng, từ trước đến nay có rất ít đề tài, công trình nghiên cứu đề cập
tới quản lý LKĐT Đại học theo phương thức GDTX. Nếu có thì vấn đề này
mới chỉ được đề cập trong khuôn khổ các bài báo hoặc tạp chí của ngành giáo
dục. Người ta kêu nhiều, phê phán nhiều về chất lượng đào tạo của phương
thức GDTX. Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách
phát triển GDTX và cũng đã có rất nhiều hội thảo về phát triển GDTX ở
nhiều gốc độ khác nhau, nhưng lại có quá ít ý kiến đưa ra các giải pháp tích
cực về quản lý công tác LKĐT theo phương thức GDTX đem lại hiệu quả.
Cho đến nay, quản lý công tác LKĐT vẫn còn tùy thuộc vào từng địa
phương, từng nhà trường, từng ngành và chưa mang tính thống nhất, tính
pháp lý bắt buộc. Chất lượng đào tạo theo phương thức GDTX còn có rất
nhiều vấn đề phải bàn. Nhưng trên thực tế, phương thức GDTX đã, đang phát

triển và tồn tại khách quan, đáp ứng nhu cầu cần thiết và cấp bách của xã hội.
Có thể nói, hiện nay phương thức GDTX chưa đáp ứng được nhu cầu và
các nội dung đặt ra của thực tiễn cuộc sống, nguyên nhân vì đâu? Nội dung
chương trình đào tạo chưa thiết thực? hay chưa có cơ chế khuyến khích hấp
dẫn người học? Hay cách tổ chức đào tạo chưa phù hợp? Việc đào tạo loại
hình vừa làm vừa học (VLVH), từ xa ở nhiều ngành bị quá tải, hay là căn
bệnh sính bằng cấp của xã hội? Nhiều người cần bằng cấp để củng cố vị trí


18

công tác? học cách này dễ dàng có được tấm bằng? hay do nhu cầu thực sự
của xã hội? Tất nhiên, cũng không nên hồ đồ kết luận về động cơ của người
học hoặc chất lượng đào tạo của phương thức GDTX. Bởi chúng ta có thể tìm
ra vô số HV tốt nghiệp Đại học theo phương thức GDTX rất giỏi cả kiến thức
lý luận lẫn thực hành, họ phát huy và vận dụng rất tốt những kiến thức đã học
theo phương thức GDTX vào thực tiễn công tác của mình, và cũng có rất
nhiều người được giữ trọng trách cao trong xã hội. Ngược lại, cũng có thể gặp
không ít những cử nhân, những kỹ sư được đào tạo chính quy nhưng sau khi
ra trường không làm được việc. Vậy, lỗi của chất lượng đào tạo không phải ở
hệ đào tạo nào mà bởi cách tuyển dụng và sử dụng con người, bởi bệnh thành
tích còn tồn tại trong giáo dục, bởi nội dung chương trình học chưa tương
thích với nhu cầu và đối tượng cần đào tạo, bởi cách dạy, cách học chưa đúng,
bởi cách quản lý đào tạo hay bởi quy luật cung-cầu trong đào tạo...
Trong những năm gần đây, có một số tác giả ở các trường Đại học đã tập
trung nghiên cứu các biện pháp về quản lý công tác LKĐT Đại học hệ VLVH
của các trường Đại học (đơn vị chủ trì LKĐT), còn nghiên cứu về quản lý
công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh thì rất ít tác giả nghiên
cứu. Xuất phát từ thực trạng vấn đề LKĐT và quản lý công tác LKĐT Đại
học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình, tác giả thấy rằng cần phải có nghiên

cứu khoa học để tìm ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn quản lý công tác
LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX Quảng Bình hiện nay, vì vậy, tác giả đi
vào nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung
tâm GDTX Quảng Bình” nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý công tác
LKĐT Đại học của Trung tâm. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cơ sở khoa
học cho định hướng phát triển GD&ĐT của tỉnh Quảng Bình trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
1.2. Một số khái niệm cơ bản


19

1.2.1. Khái niệm về Giáo dục thường xuyên
GDTX những năm gần đây được coi là một trong những "cửa vào" của
giáo dục, một "lối mở cơ hội" cho nền giáo dục mới. GDTX góp phần tăng
quy mô đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện ý tưởng giáo dục suốt đời, tạo điều
kiện cho mọi người được học để nâng cao trình độ nhận thức cũng như nghiệp
vụ, thực hiện sự bình đẳng về cơ hội học tập và dân chủ hoá giáo dục. Nói
cách khác, GDTX tăng cường nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội
cũng có nghĩa là tăng cường hiệu quả cho nền kinh tế.
Theo luật Giáo dục 2005 (sửa đổi bổ sung 2009), “GDTX là phương
thức giáo dục giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời
nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo
việc làm và thích nghi với đời sống xã hội” [6;67].
Tại Hội thảo về chiến lược phát triển GDTX đến năm 2020, báo cáo của
Vụ Giáo dục thường xuyên - Bộ GD&ĐT đã nêu: “GDTX được hiểu một
cách khái quát là cung ứng cơ hội cho mọi người để học tập suốt đời nhằm
thúc đẩy tài nguyên con người thông qua các chương trình xóa mù chữ,
chương trình tương đương, chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống,

chương trình tạo thu nhập, chương trình đáp ứng sở thích cá nhân, chương
trình định hướng tương lai”.
Với quan niệm này, GDTX đồng nghĩa với giáo dục tiếp tục nhằm thúc
đẩy sự phát triển tài nguyên con người. Ngành học GDTX ngày nay có
chức năng thay thế, tiếp nối, bổ sung và hoàn thiện kiến thức cho giáo dục
chính quy, giúp hoàn thiện kỹ năng hành dụng cho mọi người. Hiện nay,
GDTX có nhiều hình thức, nhiều loại chương trình nhằm thỏa mãn nhu cầu
học tập của mọi người trong xã hội, nâng cao dân trí, năng lực lao động,
thích ứng với yêu cầu của cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống của
mọi người dân.


20

Tuy nhiên, khái niệm GDTX được hiểu khác nhau trong từng thời gian
khác nhau và ở những nước khác nhau, điều này cản trở việc đẩy mạnh
GDTX trong từng nước và sự hợp tác với các nước, song phát triển GDTX,
xây dựng XHHT ở mỗi quốc gia là chính sách và chiến lược phát triển
nhân lực của UNESCO và nằm trong chương trình giáo dục cho mọi người
ở Châu Á-Thái Bình Dương.
1.2.2. Khái niệm về liên kết đào tạo Đại học
1.2.2.1. Liên kết đào tạo:
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, “liên kết” là“Kết lại với
nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ”. Qua định nghĩa này ta
hiểu rằng từ 2 thành phần, 2 tổ chức riêng rẽ trở lên có thể liên kết với nhau
để thực hiện một nhiệm vụ nào đó mà hai bên cùng quan tâm và cùng có lợi
ích như:Liên kết sản xuất hàng hóa, liên kết kinh doanh, liên kết GD&ĐT...
Trong GD&ĐT, vì lý do nào đó mà một cơ sở giáo dục không thể tự
mình tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo, mà phải có sự hợp tác
với cơ sở giáo dục khác, sự hợp tác này được gọi là sự liên kết đào tạo.

Quy định về LKĐT trình độ TCCN, CĐ, ĐH ban hành kèm theo
Quyết định số 42/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 28/7/2008 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT có ghi: “Liên kết đào tạo là sự hợp tác giữa các bên để tổ chức
thực hiện các chương trình đào tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học”[3;1].
LKĐT là một mô hình trong giáo dục nhằm tạo cơ hội học tập cho toàn
xã hội, đáp ứng được chủ trương lớn của Bộ GD&ĐT là “Đào tạo theo nhu
cầu xã hội”. Với cách làm này, cơ hội học tập ở trình độ cao hơn đến với
nhiều người ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo… LKĐT không phải là
hình thức mới trong ngành Giáo dục và nó đang ngày càng phát triển do nhu
cầu học tập của các cá nhân ngày càng cao.


21

LKĐT là sự kết hợp của hai cơ sở giáo dục nhằm trang bị kiến thức,
kỹ năng, thái độ cho người học. Sự kết hợp này bao gồm các nội dung sau:
Khảo sát nhu cầu học tập của người học; Xây dựng kế hoạch mở lớp; Triển
khai công tác tuyển sinh; Thực hiện kế hoạch và chương trình đào tạo; Hoạt
động giảng dạy của giảng viên; Hoạt động học tập của HV; Công tác kiểm
tra, đánh giá; Giáo trình, tài liệu; CSVC và thiết bị dạy học.
Việc LKĐT được thực hiện trên cơ sở hợp đồng LKĐT, trong đó:
- Một cơ sở giáo dục chịu trách nhiệm toàn diện về việc LKĐT
- Cơ sở giáo dục kia chịu trách nhiệm về khảo sát nhu cầu học tập của
người học, xây dựng kế hoạch mở lớp để báo cáo cơ quan có thẩm quyền,
chịu trách nhiệm về CSVC, thiết bị phục vụ đáp ứng quá trình đào tạo.
1.2.2.2. Liên kết đào tạo Đại học
LKĐT Đại học là hoạt động LKĐT giữa trường Đại học hoặc học
viện với Trung tâm GDTX cấp tỉnh ở các địa phương, để triển khai thực
hiện các chương trình đào tạo cấp bằng tốt nghiệp Đại học theo hình thức

VLVH, học từ xa hay tự học có hướng dẫn.
Trong LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh thường có một
bên chủ trì việc đào tạo, đó là trường Đại học hoặc Học viện. Bên chủ trì
đào tạo đứng ra tổ chức quá trình đào tạo bao gồm: Tuyển sinh, thực hiện
chương trình, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, công nhận kết quả và cấp
bằng tốt nghiệp. Còn Trung tâm GDTX cấp tỉnh là chủ thể trực tiếp tham gia
LKĐT với vai trò hợp tác, hỗ trợ các điều kiện thực hiện LKĐT [Điều 3, Quy
định về LKĐT-QĐ42/2008/ QĐ-BGDĐT].
Trên cơ sở cách tiếp cận hệ thống ta thấy hoạt động LKĐT có các
thành tố: Mục đích, đối tượng tham gia liên kết; điều kiện để tổ chức liên
kết; nội dung liên kết; quá trình tổ chức hoạt động liên kết; kết quả liên kết.


22

Trong đó, mục đích của LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
là “thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội, huy động tiềm năng
của các trường nhằm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho địa phương và tạo
cơ hội học tập cho nhiều người trên cơ sở đảm bảo chất lượng, hiệu quả
góa dục, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng và xã hội hóa giáo dục”
[Điều 4, Quy định về LKĐT-QĐ42/2008/ QĐ-BGDĐT].
Điều kiện tổ chức LKĐT ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh được quy định
như sau: “Đối với đơn vị chủ trì đào tạo: Phải có văn bản cho phép mở
ngành đào tạo đối với ngành dự định liên kết; Được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt chỉ tiêu đào tạo; Đảm bảo yêu cầu về đội ngũ giảng
viên (giáo viên), cán bộ quản lý (CBQL), CSVC phục vụ giảng dạy theo
quy định, phù hợp với mục tiêu đào tạo của khóa học.
Đối với đơn vị phối hợp đào tạo: Phải xác định được nhu cầu đào tạo
về số lượng, ngành nghề và trình độ đào tạo; đảm bảo yêu cầu về CSVC,
thiết bị cần thiết để phục vụ hoạt động dạy học, thực hành, thực tập, đảm

bảo môi trường sư phạm, có đội ngũ CBQL phù hợp với mục tiêu đào tạo
của khóa học.” [Điều 7, Quy định về LKĐT-QĐ42/2008/ QĐ-BGDĐT].
Nội dung LKĐT Đại học bao gồm tất cả các nội dung của quá trình
đào tạo, từ công tác tuyển sinh đến tổ chức thực hiện quá trình đào tạo,
kiểm tra, đánh giá kết quả và điều tra, đánh giá hiệu quả LKĐT sau khi
hoàn thành việc LKĐT.
1.2.3. Quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
Quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh bao gồm
các trường chủ trì đào tạo, các đơn vị phối hợp đào tạo, các Sở GD&ĐT, Ủy
ban nhân dân (UBND) tỉnh và Bộ GD&ĐT. Theo quy định của Bộ GD&ĐT
thì quản lý công tác LKĐT theo trình tự như sau [Điều 14, Quy định về
LKĐT, QĐ 42/2008/QĐ-BGDĐT]:


23

1. Khi phát hiện những vướng mắc trong công tác liên kết, thủ trưởng
hai đơn vị liên kết có trách nhiệm cùng hợp tác với nhau để xử lý. Nếu vượt
quá khả năng xử lý của hai bên, thì đơn vị chủ trì đào tạo báo cáo cơ quan có
thẩm quyền cho phép LKĐT để xử lý.
2. Sở GD&ĐT là đầu mối giúp UBND tỉnh tham gia quản lý hoạt động
liên kết về các vấn đề sau:
a) Tổ chức kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền việc thực hiện Quy định
về LKĐT đối với các lớp liên kết đặt tại địa phương mình; phát hiện và báo
cáo kịp thời về Bộ GD&ĐT những trường hợp vi phạm Quy định về LKĐT
của các đơn vị tham gia liên kết tại địa bàn quản lý.
b) Thẩm định các điều kiện đảm bảo chất lượng (theo yêu cầu thực hiện
chương trình đào tạo đã đăng ký với Bộ GD&ĐT) và trực tiếp chỉ đạo, giám
sát hoạt động LKĐT diễn ra tại địa phương mình.
3. UBND cấp tỉnh, thành, các Bộ, ngành trung ương có trách nhiệm chỉ

đạo, giám sát việc thực hiện LKĐT của các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý.
Như vậy, quản lý hoạt động LKĐT là các biện pháp, cách thức để hoạt
động LKĐT được diễn ra theo hợp đồng LKĐT và đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.4. Giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
1.2.4.1.Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt, “giải pháp được xem là phương pháp giải
quyết một công việc, một vấn đề cụ thể” [29; 387].
Còn theo tác giả Nguyễn Văn Đạm, “giải pháp là toàn bộ những ý
nghĩa có hệ thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới
sự khắc phục một khó khăn” [10; 325].
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt với một số
khái niệm tương tự như: phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của các
khái niệm này đều nói về cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một công


24

việc, một vấn đề. Còn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn mạnh
đến cách làm, cách hành động cụ thể, còn phương pháp nhấn mạnh đến trình
tự các bước có quan hệ với nhau để tiến hành một công việc có mục đích.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạm, “phương pháp được hiểu là trình tự
cần theo trong các bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một công việc có
mục đích nhất định” [325].
Còn theo tác giả Hoàng Phê, “phương pháp là hệ thống các cách sử
dụng để tiến hành một công việc nào đó” [15;20].
Về khái niệm biện pháp, theo Từ điển tiếng Việt, đó là “cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể” [29; 64].
Như vậy, khái niệm giải pháp tuy có những điểm chung với các khái
niệm trên nhưng nó cũng có điểm riêng. Điểm riêng cơ bản của thuật ngữ này
là nhấn mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc phục khó

khăn nhất định. Trong một giải pháp có thể có nhiều biện pháp. Giải pháp
càng thích hợp, càng tối ưu càng giúp con người nhanh chóng giải quyết
những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có được những giải pháp như vậy, cần
phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy.
1.2.4.2. Giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm
GDTX cấp tỉnh
Quá trình quản lý luôn tồn tại bốn thành tố cấu trúc, đó là chủ thể quản
lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Dưới tác động
của chủ thể quản lý, các thành tố này luôn có sự tác động qua lại với nhau và
nhờ đó chủ thể quản lý thực hiện nội dung, nhiệm vụ quản lý nhằm đạt được
mục tiêu quản lý.
Giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp
tỉnh là cách thức tác động lên mối quan hệ hợp tác giữa Trung tâm và
các trường chủ trì trong đào tạo theo hướng tích cực.


25

Theo chúng tôi, thực tế giải pháp quản lý công tác LKĐT Đại học
ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh là việc đưa ra những cách thức, những công
việc cần thực hiện để giải quyết khó khăn hay những tồn động đang gặp phải
trong LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh nhằm đạt được kết quả
tốt đẹp hơn.
1.3.Một số vấn đề về LKĐT Đại học ở Trung tâm GDTX cấp tỉnh
1.3.1 Vị trí, vai trò của Trung tâm GDTX
1.3.1.1. Vị trí của Trung tâm GDTX
Trong Hội nghị về trung tâm GDTX được tổ chức tại Srilanca vào
tháng 11/1994 đã định nghĩa: Trung tâm GDTX là tổ chức giáo dục đại
cương, ngoài hệ thống giáo dục chính quy, thuộc các làng hoặc các cộng
đồng thành phố, thường được quản lý bởi nhân dân địa phương có nhiệm

vụ cung cấp nguồn lực cho sự phát triển địa phương và việc học tập định
hướng theo gia đình và cung cấp thông tin về các câu hỏi: Cái gì? Làm
sao? Ở đâu? Khi nào? Các cá nhân có thể tham gia vào các hình thức học
tập khác nhau của GDTX” [12;26]
Trung tâm GDTX là nơi trực tiếp, đồng thời cũng là nơi liên kết với
các cơ sở GD&ĐT, các tổ chức kinh tế, xã hội trong cộng đồng nhằm
cung ứng các cơ hội và điều kiện học tập cho những người không có điều
kiện học tập trong các cơ sở giáo dục chính quy.
Trung tâm GDTX là cơ sở GDKCQ nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân, thực hiện chương trình giáo dục theo phương thức GDKCQ.
1.3.1.2. Vai trò của Trung tâm GDTX
Như chúng ta đã biết, việc “Học tập suốt đời” ở Việt Nam hiện nay
được Đảng và nhà nước ta chỉ rõ là phải dựa trên 5 trụ cột đó là: Giáo dục
chính quy, giáo dục vừa làm vừa học, giáo dục từ xa, các Trung tâm GDTX
và hệ thống các Trung tâm học tập cộng đồng.


×