Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CH__NG 2 NHAN CACH NPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.69 KB, 18 trang )

CHƯƠNG 2.
NHÂN CÁCH NGƯỜI PHẠM TỘI
1. Khái niệm nhân cách người phạm tội
Các nhà khoa học thường nói nhân cách là một cấu tạo tâm lí. Việc
xác định đúng và đầy đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu về lí
luận và phương pháp. Có nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả trong
và ngoài nước về khái niệm, cấu trúc nhân cách. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có ý kiến thống nhất ngay cả trong cùng một trường phái tâm lý học.
Dù xem xét ở góc độ nào, chúng ta cũng phải dựa vào quan điểm mác xít về
bản chất xã hội của nhân cách. Nhân cách là thước đo mặt xã hội trong sự
phát triển cá thể của con người. Nó biểu hiện cụ thể thông qua mức độ tham
gia của con người vào nền văn hóa xã hội.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một con người biểu
hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người đó. Khi xem xét nhân cách có thể
xem xét trong các quan hệ xã hội lịch sử cụ thể, vị trí của cá nhân trong hệ
thống các mối quan hệ xã hội, địa vị của họ trong cơ cấu xã hội. Từ đó, có
thể chia nhân cách làm 2 loại:
- Nhân cách hợp chuẩn: Nhân cách đáp ứng được các chuẩn mực xã
hội. Đây là những nhân cách có các thuộc tính, phẩm chất đáp ứng được các
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, thích ứng với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật,
phù hợp với quá trình phát triển xã hội. Đó là những con người, những công
dân bình thường hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, hành động
đúng pháp luật.
- Nhân cách không hợp chuẩn là những nhân cách có các đặc điểm,
thuộc tính không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, các quy phạm pháp
luật không đáp ứng đòi hỏi của xã hội, những nhân cách này dễ bị xã hội đào
thải.
Vậy nhân cách người phạm tội là gì ?
Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính
tâm lý cá nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối
1


với các lợi ích, các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, luôn lựa
chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.
Đây là một điển hình của nhân cách không hợp chuẩn, nhân cách có
sự lệch lạc trong định hướng giá trị xã hội, với nhận thức, quan điểm sai trái,
tình cảm tiêu cực và có hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ. Những khiếm khuyết trong nhân cách người phạm tội có
thể là hậu quả của quá trình chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội tiêu
cực, của quá trình tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội không lành
mạnh nhưng đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không chịu
rèn luyện bản thân của cá nhân.
2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội
Nếu xem nhân cách là một tổ hợp phức hợp của những yếu tố như xu
hướng, tính cách, năng lực và khí chất thì đều thấy sự suy thoái, sự phát triển
lệch hướng của các yếu tố này trong nhân cách người phạm tội.
Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách, nhân cách
phát triển từ đâu, theo chiều hướng nào là do xu hướng qui định. Xu hướng
bao gồm nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.
Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân là động lực thúc đẩy
hoạt động, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Nhu cầu của con người rất phong
phú và đa dạng. Nó gắn liền với điều kiện lịch sử, sự phát triển sản xuất và
sự phân phối các giá trị vật chất, tinh thần. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu
là vô tận, hay nói khác đi con người không bao giờ thỏa mãn hết mọi nhu
cầu của mình. Khi nhu cầu được nhận thức và so sánh nó với những điều
kiện, công cụ, con đường thỏa mãn nhu cầu thì đó là lợi ích. Con người chỉ
thực sự hành động khi có lợi ích. Người phạm tội hướng tới những lợi ích
mà những lợi ích đó đối lập với lợi ích xã hội, xâm phạm tới lợi ích chính
đáng và hợp pháp của người khác.
Trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại
nhu cầu và hứng thú là một đặc trưng cơ bản. Nhu cầu và hứng thú vật chất
cao hơn, chiếm ưu thế hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. Nói

cách khác trong nhân cách của họ nhu cầu cấp thấp phát triển hơn nhu cầu
2
cấp cao và chiếm vị trí chủ đạo, lấn át nhu cầu tinh thần và xã hội. Đây là
đặc điểm đặc trưng biểu hiện ở sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội.
Trong nhu cầu và hứng thú ở người phạm tội cũng thường xuất hiện
tính chất không bình thường. Một số nhu cầu, hứng thú của người phạm tội
bị suy thoái, biến chất mang theo tính sinh vật, bản năng, như: thích ăn chơi,
hưởng lạc, ham thích vật chất tầm thường. Hầu như ở họ không có nhu cầu
lao động, nhu cầu học tập nâng cao trình độ hiểu biết để phục vụ xã hội,
không có nhu cầu đóng góp phần mình cho sự phát triển xã hội vì lợi ích
chung.
Phương thức thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của người phạm tội trái với
các chuẩn mực đạo đức, vi phạm các quy tắc xử sự pháp luật, xâm hại lợi ích
xã hội. Những người phạm tội không có khả năng giải quyết mâu thuẫn nội
tại trong con người làm động lực cho sự phát triển nhân cách. Đó là mâu
thuẫn giữa đòi hỏi của nhu cầu cá nhân và sự đáp ứng của xã hội. Người
phạm tội luôn đối lập các lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, xâm phạm tới
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người khác. Vì tiền hay vì các
nhu cầu thấp hèn khác, người phạm tội có thể vì bất cứ thủ đoạn nào để
chiếm đoạt, sẵn sàng đâm chém, cướp, giết hay dụ dỗ lừa đảo để thỏa mãn
nhu cầu của mình.
Qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy cội nguồn của hành vi
phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý thức sai về nhu cầu và
con đường thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của người phạm tội thường nghiêng
về vật chất, vụ lợi với phương thức thỏa mãn lệch chuẩn xã hội. Thế giới
quan của người phạm tội đa số cũng lệch lạc và u tối, đặc biệt là sự xuyên
tạc đối với chân lý. Ví như nhìn thế giới khép kín trong những “vật chất”
tầm thường, vụ lợi. Người phạm tội sẵn sàng vì đồng tiền, danh lợi, bất chấp
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thậm chí cho cả bản thân do hành vi phạm tội
của chúng gây ra. Vì mục đích chính trị phản động, chúng sẵn sàng đặt bom

nơi đông người qua lại, bất chấp hậu quả sát thương nhiều quần chúng để cốt
gây tiếng vang…
Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở
con người bình thường trong xã hội. Thế giới quan của người phạm tội được
3
hình thành trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, nhận thức lệch lạc sai trái.
Người phạm tội thường có lối sống không lành mạnh, tôn thờ chủ nghĩa vật
chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Quan niệm sống đơn giản mang
đầy mầu sắc hưởng thụ đã chi phối, điều chỉnh mục tiêu sống của người
phạm tội.
Chẳng hạn: các đối tượng lưu manh, trộm cắp, những tên tội phạm
chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm... thường tôn thờ chủ nghĩa hiện sinh,
sống ngày hôm nay không biết ngày mai, sống để hưởng lạc để vui thú.
Niềm tin đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người
với nhau (hầu như trong các bản tự thuật của người phạm tội đều nói lên sự
mất mát tình thương, bản thân họ không còn tin ai, kể cả người ruột thịt).
Niềm tin đã phát triển lệch lạc, tin vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh của
đồng tiền. Nói một cách khác, ở họ đã mất hết niềm tin vào những giá trị
nhân bản của xã hội, vào mối quan hệ trong sáng, cao đẹp và thiêng liêng
của con người. Những người phạm tội như vậy không có lý tưởng theo đúng
nghĩa của nó. Như vậy trong hầu hết các biểu hiện của xu hướng nhân cách
đều phát triển lệch chuẩn.
Tính cách: Đó là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi
quen thuộc. Tính cách người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội
chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu
cực. Thái độ của người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc. Họ sống
chà đạp lên đạo đức và dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục
đích phản xã hội. Sống buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thường
pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.
Chẳng hạn:

Ở các đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tội phạm về ma túy, cướp
của, giết người... thường lười biếng, vô kỉ luật nhưng thích ăn chơi, hưởng
thụ, tham lam, hám lợi, hám danh và ích kỷ hay thay đổi lật lọng, coi thường
người khác, nhẫn tâm, tàn bạo, có thái độ thù địch chống đối, ác cảm với
chính quyền, với chế độ biểu hiện ở các mức độ khác nhau tùy theo từng loại
tội phạm. Để đạt mục đích người phạm tội sẵn sàng chà đạp lên tất cả, kể cả
4
tính mạng và nhân phẩm con người, cũng như lợi ích xã hội, lợi ích quốc
gia.
Ở các đối tượng phạm tội về trật tự xã hội, về kinh tế thường có thái độ
và hành vi đi ngược lại lợi ích chung của xã hội, trốn tránh nghĩa vụ công
dân.
Ở các đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia lại có hành vi và có thái
độ thù địch, tuyên truyền quan điểm sai trái, chống chế độ hoặc nhen nhóm,
thành lập các tổ chức phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, câu
kết với nước ngoài làm gián điệp, tay sai chống lại Tổ quốc, chống lại nhân
dân.
Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các
hoạt động phạm tội (thể hiện rõ nhất ở loại tội phạm “chuyên nghiệp”). Cho
nên ở người phạm tội sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội
khi khai báo. “Bản lĩnh” mang nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức
tối đa những sơ hở trong quá trình “hành nghề”. Hơn bất kì lĩnh vực nào
khác, những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới gia nhập nhóm sẽ
chuyển thành tính cách thật khi có sự phát triển và tác động của nhóm không
chính thức tiêu cực tới cá nhân trong một thời gian dài. Do vậy, không phải
ngẫu nhiên trong các trại giam phải rất công phu, dày công thực hiện tổng
thể các biện pháp nhằm phục hồi các nét tính cách tốt cho phạm nhân.
Về năng lực: Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo thể hiện tập trung, biểu hiện rõ
nhất năng lực cá nhân - thành tố trong cấu trúc của nhân cách. Trong lĩnh
vực kĩ năng, kĩ xảo, người ta còn nói đến các yếu tố sở trưởng, sở đoản của

cá nhân. Năng lực của cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quả
trong hoạt động phạm tội, cho nên năng lực của người phạm tội phát triển ở
cả những lĩnh vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt động phạm
tội thì kĩ năng, kĩ xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội
được thực hiện chuẩn xác mau lẹ, kín đáo và thuần thục.
Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người
phạm tội thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động
phạm tội. Chúng thường có khả năng nhanh chóng quan sát các tình huống
phạm tội và nhạy cảm với các hoạt động của cơ quan điều tra. Có năng lực
5
ngụy trang đóng vai để thực hiện hành động phạm tội và che giấu tội phạm,
trốn tránh pháp luật. Năng lực giao tiếp ứng xử phát triển thể hiện ở các kỹ
năng tiếp xúc, làm quen, gây thiện cảm, tác động tâm lý thu thập thông tin
phục vụ cho hoạt động phạm tội. Năng lực này biểu hiện rõ ở các đối tượng
phạm tội chuyên nghiệp, phạm tội lừa đảo, trộm cắp, lợi dụng tín nhiệm, hối
lộ... Tùy theo từng loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các
thuộc tính, các kỹ năng phù hợp, cấu thành năng lực chuyên biệt giúp họ
thực hiện các hành động phạm tội cụ thể.
Về tình cảm và ý chí: Khác với những người bình thường, đời sống
tình cảm của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp như
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ và tình cảm trí tuệ kém phát triển.
Trong đó tình cảm đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, mất chức năng động
cơ thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực của con người. Các đối
tượng phạm tội luôn có ác cảm với cácc lực lượng chuyên chính, thù ghét
chế độ... Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái ác. Các phẩm chất ý chí tích
cực ở người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu
cực.
Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội
luôn thể hiện tính mục đích cao, tính quyết đoán, sự kiên trì và nỗ lực ý chí
lớn. Tất cả các đặc điểm đó đã giúp đối tượng khắc phục khó khăn, quyết

tâm thực hiện hành động phạm tội để đạt được mục đích của mình. Khi bị
bắt, bị giam giữ điều tra, bọn chúng thường ngoan cố, lì lợm, có đối tượng
sẵng sàng chấp nhận hi sinh , tù tội để bảo vệ tổ chức, bảo vệ đồng bọn...
Thành tố cuối cùng làm hoàn thiện bộ mặt tổng thể của cấu trúc nhân
cách chính là khí chất. Khí chất vốn được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ
với kiểu thần kinh của con người. Tính ổn định tương đối của khí chất đã
làm cho nó ít chịu tác động trước hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên trong quá
trình thực hiện phạm tội với những tình huống “căng thẳng” cản trở việc
thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ thần kinh, khí
chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế, có những trường
hợp người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi, bản
tính” thường ngày mà mọi người hoặc các bậc cha mẹ hiểu và quá quen
thuộc với con em mình.
6
Tóm lại: Trên đây là những thành phần chủ yếu trong nhân cách người
phạm tội. Không có một thành phần nào, ngay cả yếu tố được coi là ổn định
nhất của cấu trúc nhân cách người phạm tội lại không bị suy thoái hoặc thoát
khỏi tình trạng chệch hướng.
Tuy nhiên, đối mỗi loại tội phạm cụ thể lại có những nét tâm lí riêng,
khác biệt hoặc giữ vị trí khác nhau trong cấu trúc nhân cách của họ. Nắm
vững và hiểu sâu sắc về nhân cách người phạm tội có ý nghĩa quan trọng,
giúp ta có căn cứ để phân loại tội phạm đúng đắn, lựa chọn phương pháp,
chiến thuật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội
phạm. Việc nghiên cứu đặc điểm nhân cách người phạm tội còn có ý nghĩa
to lớn trong việc tác động giáo dục, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
3. Các kiểu nhân cách người phạm tội
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
Cách thứ nhất theo A.I.Đôngôva thì có 3 loại:
- Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: Người có nhân cách
loại này, họ không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tự bản thân tạo ra hoàn

cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội lỗi, hành vi phạm tội
đã trở thành thói quen xử sự ở họ.
- Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật
lỏng lẻo không nghiêm. Lối sống đã hình thành trước đây trong sự tác động
với tình huống chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo, không nghiêm đã dẫn
đến hành vi phạm tội
- Loại hình nhân cách bối cảnh: Người có nhân cách loại này thường
có hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột. Ở đây hành vi phạm
tội xảy ra tựa như kích thích phản ứng (song sự thực không phải kích thích -
phản ứng vì tuy hoàn cảnh có xung đột nhưng cá nhân có phạm tội hay
không còn phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của người đó lúc tiến hành
hành vi)
Cách chia thứ hai: Căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm
chất tâm lý tiêu cực để phân loại về nội dung và cách chia cũng tương tự như
trên:
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×